Day: 09/08/2014
Việt-Mỹ: Vũ khí đổi lại cải cách?

Quan hệ Việt-Mỹ đã được nâng lên đối tác toàn diện hồi tháng Bảy năm ngoái
Những ngày gần đây quan hệ Việt-Mỹ cũng nóng dần theo hàn thử biểu của Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Dường như hai quốc gia “cựu thù” đang cố gia tốc trong việc nâng cấp quan hệ song phương thông qua đàm phán và vận động hành lang để Hoa Kỳ sớm hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam.
Động thái này được các nhà quan sát đánh giá như một chỉ dấu quan trọng trong phát triển quan hệ Mỹ-Việt, nhưng không phải là không có hậu quả.
Tin từ Hoa Thịnh Đốn cho biết có nhiều khả năng Tòa Bạch Ốc sẽ sớm bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam nội trong năm nay.
Động thái này chắc chắn sẽ làm Trung Quốc bực tức, quốc gia sẽ xem Hoa Kỳ trong chừng mực nào đó như Hoa Kỳ đã từng xem viện trợ quân sự của Liên Xô tới Cuba trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”.
Tuy nhiên, chắc chắn không vì phản ứng của Trung Quốc mà Hoa Kỳ do dự, lý do chính đang lãng vãng đâu đó trong những “toan tính chính trị” của cả Hoa Kỳ lẫn Hà Nội.
Việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương có thể được xem như là một bước tiếp theo hợp lý trong việc thúc đẩy quan hệ Mỹ-Việt sau khi Tổng thống Obama và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký kết Thỏa ước Quan hệ Đối tác Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam vào ngày 25 tháng 7 năm 2013 tại Tòa Bạch Ốc.
Chắc chắn, với Hoa Kỳ trong chiến lược “chuyển trục và tái cân bằng” sang châu Á-Thái Bình Dương, cải thiện và tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực trong đó có cả Việt Nam dường như là một bước đi cần thiết.
“Hà Nội đã từng làm thất vọng ê chề cộng đồng quốc tế bằng sự thờ ơ trong các yêu cầu cải thiện điều kiện nhân quyền“
Lập pháp Hoa Kỳ hôm 31/7 đã chính thức mở đường qua việc Hạ nghị sỹ Randy Forbes thuộc đảng Cộng hòa, Chủ tịch Tiểu ban Hải lực và Triển khai lực lượng của Hạ viện và Colleen Hanabusa thuộc đảng Dân chủ, thành viên của Ủy Ban Quân Sự Hạ viện, bày tỏ mối quan tâm chung trong việc cung cấp các thiết bị quốc phòng cho Việt Nam.
Vấn đề dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương của Mỹ cho Việt Nam đã được liên tục đề cập trong thời gian gần đây, điển hình ông Ted Osius, ứng cử viên cho chức danh Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, cũng cho là đã đến lúc cần ủng hộ ý tưởng “hủy bỏ lệnh cấm vận” nói trên trong buổi điều trần đề cử ông tại Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Hoa Kỳ.
Trước đó, Đại sứ đương nhiệm David Shear hồi tháng 8 năm ngoái cũng từng khẳng định rằng Hoa Kỳ sẽ “nghiêm túc xem xét việc bỏ cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, nhưng kèm theo một số điều kiện”.
Ngoài Quốc hội và một số viên chức ngoại giao Hoa Kỳ, Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (CSIS), cũng nhập cuộc với một báo cáo công bố mới nhất có tiêu đề “Xu hướng gần đây ở Biển Đông và chính sách của Mỹ,” CSIS thẳng thắn đề nghị Hoa Kỳ nên triển khai một “lộ trình thích hợp để cho phép nới lỏng từng bước các hạn chế,” cho thấy phiá Mỹ dường như đã sẵn sàng cho cuộc chơi mới.
Hủy bỏ lệnh cấm vận luôn là đặc quyền của Tổng thống Hoa Kỳ nhưng tất nhiên nếu không có sự hậu thuẩn từ lập pháp và của lưỡng đảng thì thực sự điều đó rất khó có thể xảy ra như chúng ta đã từng chứng kiến sự kiện cách đây 20 năm vào ngày 3/2/1994, Tổng thống Bill Clinton chính thức thông báo quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam với sự hậu thuẫn lưỡng đảng của hai Thượng nghị sỹ Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam John McCain (Cộng hòa) và John Kerry (Dân chủ).
Liệu lịch sử có đang tái lập trong chuyến thăm Việt Nam bất ngờ ngày 7/08/2014 của Thượng nghị sĩ Cộng hòa John McCain và người đồng viện Dân chủ Sheldon Whitehouse?
Tin mới nhất từ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội cho biết phái đoàn Hoa Kỳ sẽ thảo luận với quan chức lãnh đạo Việt Nam về các vấn đề an ninh khu vực, nhân quyền và thương mại.
Cũng cần nói thêm rằng chuyến thăm của hai vị Thượng nghị sỹ này chỉ diễn ra vài ngày sau chuyến công du của Thượng nghị sĩ Bob Corker, một thành viên cao cấp thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ.
Ông Corker được tường thuật là đã “bày tỏ lạc quan rằng Hoa Thịnh Đốn sẽ dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam trong tương lai gần.”
Yêu cầu “bán vũ khí có điều kiện”

Hồ sơ nhân quyền của Việt Nam vẫn là chướng ngại vật trong quan hệ với Hoa Kỳ
Tuy nhiên, không phải không có lý do để quan ngại nếu lệnh cấm vận này cần được bãi bỏ.
Một quyết định đơn phương của Hoa Kỳ hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam vô điều kiện là điều vô cùng thiển cận, nhất là lại tạo thêm cơ hội cho sự lạm dụng không cần thiết từ phiá Hà Nội.
Chính phủ Việt Nam đã hứa hẹn gì và quan trọng nhất là Hà Nội đã đảm bảo gì với Hoa Kỳ rằng họ sẽ không sử dụng những vũ khí này để chống lại nhân dân Việt Nam? Liệu Hà Nội có là một đối tác đáng tin cậy? Thành tích nổi bật “nhân quyền” của họ đâu phải là chuyện mới hôm qua và cả thế giới này có ai còn lạ gì luận điệu của họ!
Mặc dù các vị Nghị sỹ Forbes và Hanabusa có cho rằng việc bán vũ khí theo dự kiến của Hoa Kỳ sẽ không bao gồm các mặt hàng có thể được sử dụng để kiểm soát đám đông hoặc các mục đích nội địa, nhưng vũ khí luôn là vũ khí dù ở bất kỳ thể loại nào nó vẫn luôn có khả năng quay lại bắn vào người dân.
Một khẩu súng chỉ đơn giản là một công cụ, vấn đề là người xử dụng nó và cho mục đích gì; người đó có thể là một viên chức công an hoặc một quân nhân ngoài mặt trận mà quyết định cuối cùng của họ là dùng khẩu súng đó để bắn ai hay cái gì.
Nếu không có hành động cụ thể, lời nói đơn giản chỉ là vô nghĩa, và Hà Nội đã từng làm thất vọng ê chề cộng đồng quốc tế bằng sự thờ ơ trong các yêu cầu cải thiện điều kiện nhân quyền. Human Rights Watch, Tổ chức Ân xá Quốc tế, các quốc gia trong Liên minh châu Âu, Australia, Canada cũng như chính Hoa Kỳ đã từng lên tiếng cảnh báo nghiêm khắc các hạn chế về nhân quyền ở Việt Nam và khuyến cáo Hà Nội cần có nỗ lực mạnh mẽ nhưng tình trạng nhân quyền Việt Nam thì ngày càng trở nên xấu đi một cách tồi tệ.
“Nếu gắn liền với cải thiện nhân quyền, tháo dỡ lệnh cấm vận vũ khí sát thương là bước đầu tiên đầy hứa hẹn cho một cơ hội cải cách lớn hơn ở Việt Nam“
Nếu thật sự Tổng thống Obama và Quốc hội Hoa Kỳ quyết tâm hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam, dứt khoát Hoa Thịnh Đốn cần phải đặt điều kiện hết sức nghiêm túc cho những thương vụ đặc biệt này.
Hoa Kỳ cần làm cho Hà Nội hiểu rỏ rằng Hoa Kỳ không cần bán vũ khí cho Việt Nam và chắc chắn Việt Nam cũng không nhất thiết cần phải mua vũ khí từ Hoa Kỳ mà đây là một “lựa chọn chiến lược” phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước và quyền lợi của hai quốc gia Hoa Kỳ-Việt Nam.
Như vậy, việc cung cấp vũ khí cho Việt Nam sẽ tùy thuộc vào sự cải thiện nhân quyền cụ thể của Hà Nội theo một lộ trình đã được ấn định trước.
Ngoài ra, trong khi Hoa Kỳ chưa cung cấp công nghệ quốc phòng hiện đại nhất cho Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn phải nghiên cứu nghiêm túc khả năng rất thực tế là những vũ khí này có thể rơi vào tay Trung Quốc, một cách vô tình hay cố ý. Và tuy không kém phần quan trọng, Tổng thống Obama và Quốc hội Hoa Kỳ cũng phải quyết định xem liệu họ có thể tin tưởng vào quân đội Việt Nam để giữ cho những vũ khí này không lọt vào tay một lực lượng bất hảo nào đó.
Tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương là bước tiến lớn tiếp theo của Mỹ có thể làm trong việc thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Tuy nhiên, đó là một bước đi quan trọng đòi hỏi phải có tranh luận rộng rãi, minh bạch và được đánh giá nghiêm túc cả về lợi ích lẫn cạm bẫy.
Nếu gắn liền với cải thiện nhân quyền, tháo dỡ lệnh cấm vận vũ khí sát thương là bước đầu tiên đầy hứa hẹn cho một cơ hội cải cách lớn hơn ở Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu không có điều kiện nhân quyền kèm theo và Mỹ thất bại trong việc đảm bảo Việt Nam tuân thủ, việc làm này không những chẳng giúp ít được gì cho chiến lược chuyển trục của Hoa Kỳ trong khu vực mà còn là cơ hội trang bị cho lực lượng an ninh Việt Nam có thêm vũ khí chống lại nhân dân Việt Nam.
Không giống như quan hệ Mỹ-Việt, số phận của lệnh cấm vận này khá ư phức tạp.
Mặc dù có những “tiến bộ” đáng kể trong quan hệ song phương cũng như có “nhu cầu chiến lược” thực tiễn nhưng Hoa Kỳ vì quyền lợi tối thượng của nuớc Mỹ và nhân dân Mỹ dứt khoát không thể bỏ qua những khát vọng cháy bỏng yêu chuộng tự do, dân chủ, nhân quyền của nhân dân Việt Nam.
Nếu Hoa Kỳ đảm bảo được rằng Hà Nội sẽ triệt để tuân thủ theo các quy định của Mỹ, sự nới lỏng từng bước các hạn chế của lệnh cấm vận này có thể đạt được giá trị tối ưu của nó.
Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong riêng của tác giả, hiện là một luật sư tại Canada.
@bbc
Phạm Thị Hoài – Sự thật về sự thật rẻ tiền
Đầu tiên là một bài đăng ngày 25/7/2014 trên Die Allgemeine Morgenpost Rundschau, một trong hàng triệu hay hàng chục triệu trang cá nhân ở Đức: “Phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17“. Chủ nhân trang này ghi rõ: “Die Allgemeine Morgenpost Rundschau là một trang châm biếm. Tất cả những nội dung mà bạn đọc được ở đây đều hoàn toàn là hư cấu và đôi khi thậm chí là bịa trắng trợn. Trong trường hợp có bài này hay bài khác kéo theo nguy cơ nhầm với hiện thực thì xin đừng ghè đầu chúng tôi, mà hãy ghè đầu hiện thực.” Song khó mà có nguy cơ nhầm. Phương châm “Liêm chính và bán mình, phiến diện và độc lập, công bằng và cơ hội” ghi ngay trên đầu trang, cùng những cái tít kiểu “tin khó tin” như “Mỹ không thể trưng bày bằng chứng vì Colin Powell còn đi nghỉ“… báo hiệu hơi quá rõ rằng chúng tôi đang đùa, bạn chuẩn bị cười dần đi là vừa. Mẫu mực của những trang trào phúng như vậy, trang Củ hành của Mỹ, vẫn là đỉnh cao chưa ai vượt qua.
Nhưng khi ồ ạt đăng cái tin “phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17″ ấy thì truyền thông Việt Nam – không chỉ những tờ lá cải mà cả hàng loạt cơ quan truyền thông chính thức, từ Đài Tiếng nói Việt Nam đến báo Công an, thậm chí cả tờ Tuổi Trẻ – lại trưng ra một nguồn tin khác, được gọi là “tờ báo Đức” mang tên Wahrheit für Deutschland (Sự thật cho nước Đức). Đã chọn một cái tên như thế thì chủ nhân trang ấy dĩ nhiên không biết đùa, ông ta đăng uỵch cái “tin khó tin” kia lên như một sự thật sâu sắc. Rồi đến lượt những tờ báo Nga của Putin khuếch trương sự thật ấy. Truyền thông Việt Nam hồ hởi ăn theo. Cho đến tận bây giờ, trừ tờ Tuổi Trẻ đã lẳng lặng rút bài nhưng để lại dấu vết trên đường link, câu chuyện có phần củ chuối thay vì củ hành này vẫn hiện diện nguyên vẹn trên rất nhiều trang báo trong nước, như một sự thật. Một sự thật rẻ tiền.
2.
Một tờ báo khác, cũng mang tên Sự thật, tờ Комсомольская правда (Sự thật Komsomol), sáu năm trước đã thực hiện một đoạn phim phóng sự về một cựu chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam, ông Yury Trushyekin, người cho biết rằng mình đã đích thân bắn rơi máy bay của viên phi công Mỹ John McCain ngày 26/10/1967, nay đang sống nghèo khổ và bị lãng quên. Tin này cũng được Hãng Thông tấn Nga RIA Novosti loan tải. Nhân vụ ông Phạm Quang Nghị mang “quà độc” sang Mỹ tặng ông Thượng Nghị sĩ John McCain, một bài viết trên trang Dân Làm Báo, được nhiều website tiếng Việt ở hải ngoại chia sẻ, lại dẫn tin này để đưa ra những kết luận rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam bị bẽ mặt vì cố tình giấu diếm việc Liên Xô Trung Quốc trực tiếp tham gia chiến tranh, nay bị chính các nước này nói thẳng toẹt ra sự thật đó; vậy là Đảng nói láo; Quân đội Nhân dân Việt Nam kém cỏi, phải nhờ đến ngoại bang Liên Xô Trung Quốc mới thắng, vì thế phải mang ơn mà dâng đất, dâng biển đảo cho ngoại bang.
Sự thật Komsomol tránh được số phận của tờ báo Đảng Sự thật (Правда), bắt đầu chuyển sang hướng lá cải từ thời hậu Xô-viết và trở thành tờ báo rẻ tiền kinh hoàng và nhiều thế lực nhất ở nước Nga dưới thời Putin, từ lâu do đồng chí Vladimir Sungorkin phụ trách, người vừa được vị Tổng thống này thưởng Huân chương Tổ quốc vì những đóng góp xuất sắc trong Chiến dịch sáp nhập Krym. Cá nhân tôi sẽ xấu hổ nếu phải dẫn tờ báo này ra làm nguồn tin. Báo chí rẻ tiền thường lòi đẳng cấp của mình ngay trong những tiểu tiết. Theo tờ báo ấy, ông cựu sĩ quan Xô-viết bắn rơi chiếc F-4 Con Ma. Nhưng máy bay của “tên Jchn Sney Macan” mà chúng ta rất biết lại là Chim Ưng A-4. Tấm huy chương “Đoàn kết chiến thắng giặc Mỹ” đề tên ông là có thật, nhưng hàng trăm cựu chuyên gia Liên Xô từng giúp Hà Nội trong chiến tranh cũng có, họ có thể bắn rơi Jchn Sney Macan hàng trăm lần. Tìm ông Yury Trushyekin trên mạng, tôi có được vỏn vẹn 59 kết quả, trong đó 90 % từ các trang tiếng Việt.
Vì sao một phóng sự cẩu thả trên một tờ báo lá cải, chiếc loa tuyên truyền khổng lồ của một hệ thống chính trị càng ngày càng xích lại gần quá khứ Xô-viết chuyên chế, lại được một tờ báo tiếng Việt ở hải ngoại đang phấn đấu chống một chế độ cũng chuyên chế, cũng đầy gắn bó với Liên Xô, nghiễm nhiên coi là sự thật? Chiến tranh thông tin trên thế giới ngày nay đang khiến cả những cơ quan truyền thông uy tín ở phương Tây có nguy cơ sa bẫy tuyên truyền, song dù thế nào tôi vẫn có đủ lí do để tin BBC hơn truyền thông Nga. Ở đâu các nhà báo dám đương đầu với quyền lực cũng gặp rắc rối, song ở Nga họ bị bỏ tù, đầu độc hay ám sát là chuyện bình thường. Vâng, ở Nga, cách đây vài ngày, blogger độc lập Timur Kuashev chỉ còn là một cái xác bị quẳng trong rừng. Mới đầu tháng Sáu vừa rồi, hãng truyền hình Nga LifeNews, rất thân thiết với Putin, đăng tin quân Kiev ném bom phốt-pho xuống làng Semenovka, song đoạn video làm bằng chứng lại nguyên là của CNN trong Chiến tranh Iraq từ năm 2004, như trang stopfake.org của một nhóm nhà báo Ukraine, mới ra đời từ tháng Ba năm nay, chỉ rõ. Cảnh một vụ tai nạn đường sắt ở Quebec City, Canada, thì bị truyền thông Nga giả mạo thành hình ảnh thành phố Sloviansk của quân li khai chìm trong khói lửa. RIA Novosti thì lấy ngay bức hình một người Hồi giáo bị lính Nga hành hình trong chiến tranh Chechnya để biến hóa thành một trong 300 nạn nhân bị “mổ bụng moi gan” tại Ukraine những ngày này… Vụ “phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17″ kể trên dĩ nhiên cũng nằm trong bộ sưu tập của stopfake.
Trở lại với bài viết trên trang Dân Làm Báo: Ngay cả khi cái phóng sự rẻ tiền nói trên có cho biết sự thật thì tôi vẫn không hiểu, từ một ông Liên Xô bắn rơi máy bay Mỹ làm cách nào có thể suy ra chuyện Đảng Cộng sản Việt Nam “dâng đất, dâng biển cho ngoại bang”. Liên Xô hình như không phải là Trung Quốc. Last but not least, hàng năm cứ đến ngày 5/8, ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân và Bộ đội Phòng không Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam tại CHLB Nga đều tổ chức gặp mặt những cựu chuyên gia Liên Xô từng chung chiến hào chống Mỹ, trong tinh thần “Vũ khí của Nga vẫn bảo vệ bầu trời Việt Nam“. Những hình ảnh còn nóng sốt của kỉ niệm tròn 50 năm vài hôm trước có đầy trên mạng, song thú vị nhất có lẽ qua ống kính của nhà báo Nga Vitaliy Ragulin.


Ngắm những cụ ông cụ bà cựu công dân Liên Xô, ngực nặng huân huy chương ngồi nghe kể chuyện ngày xưa đánh giặc ở một xứ sở lạ hoắc, thưởng thức văn nghệ cây nhà lá vườn từ một sinh viên Việt Nam để kiểu tóc kết hợp giữa Kim Chính Ân và Kim Chính Nhật, ngoan ngoãn xếp hàng ăn buffet lèo tèo vài món cơm rang nem rán, rồi đứng nghiêm chụp hình lưu niệm để sang năm lại như thế, tôi chỉ thấy một cảnh thác ngộ thời đại, nửa gợi thương cảm, nửa gây cười. Không có gì chứng tỏ phía Việt Nam muốn giấu diếm hay thậm chí chối bỏ công lao của các bạn Xô-viết.
3.
Nếu tránh tất cả những gì có hai chữ sự thật, có lẽ chẳng còn gì nhiều trên báo chí tiếng Việt bây giờ để đọc, từ báo chí quốc doanh đến báo chí ngoài luồng, từ báo chí kế hoạch đến báo chí tự phát, từ trong nước đến hải ngoại. Thông tin sự thật về một cái gì đó chưa đủ, truyền thông tiếng Việt còn phải bổ sung rằng đó là những sự thật đáng buồn, sự thật trần trụi, sự thật bất ngờ, sự thật kinh hoàng; liên tục đặt câu hỏi đâu là sự thật rồi bận rộn hé lộ, hé mở và bật mí sự thật, vạch trần và lột trần sự thật cũng như thường xuyên giật mình, sốc, choáng với sự thật… Chỉ còn thiếu những sự thật về sự thật.
Sự thật lũy thừa bao nhiêu bậc thì hết rẻ tiền, nếu cả hai phía, báo chí của chính quyền và báo chí tự do, đều thản nhiên dùng bừa những nguồn tin đáng ngờ, chưa nói đến dùng cho những mục đích agitprop? Tôi thật ghen tị với các bạn Ukraine. Thay vì lập ra hàng trăm trang mạng để rút cục cũng chỉ đăng đi đăng lại bài vở của lẫn nhau, không khác nhiều lắm 700 tờ báo trong nước cùng chung một tổng biên tập, sao chúng ta, các nhà báo tự do, không có nổi một trang hữu ích như stopfake.org?
Trần Trung Đạo: Hiểm họa Trung Cộng và bài học “Phần Lan hóa” (Finlandization)

Tháng 9 năm 2010, trong một bài viết trên tờ Wall Street, Andrew Krepinevich, Chủ tịch Trung tâm Định ước Ngân sách và Chiến lược (the Center for Strategic and Budgetary Assessments) cũng cảnh báo Trung Cộng đang tiến hành “Phần Lan hóa” Thái Bình Dương: “Liên Xô chưa bao giờ thành công “Phần Lan hóa” Châu Âu. Nhưng sự đe dọa vừa trở lại từ phía Trung Cộng, quốc gia này đang cố gắng “Phần Lan hóa” Tây Thái Bình Dương. Cách phát triển quân sự của một quốc gia mở ra cánh cửa cho thấy ý định của nó, và Trung Cộng rõ ràng đang tìm kiếm để gây hiệu quả tuần tự nhưng quyết định vào cán cân quân sự Mỹ-Trung. Mục đích của Trung Cộng là ngăn chận Mỹ trong việc bảo vệ các quyền lợi lâu dài trong khu vực – và để lôi kéo các đồng minh dân chủ của Mỹ vào quỹ đạo của nó.”
Trong chính luận Tranh chấp Mỹ-Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước trên talawas hơn bốn năm trước, người viết cũng có bàn tổng quát về trường hợp các quốc gia độn như Thổ Nhĩ Lỳ và Phần Lan. Để có thể tồn tại trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh các nước này đã phải áp dụng nhiều chiến lược đối ngoại và đối nội khác nhau. Trong lúc Thổ Nhĩ Kỳ chủ trương cứng rắn chống Liên Xô, đứng hẳn về phía Tây phương, Phần Lan chủ trương các chính sách đối ngoại và đối nội nhượng bộ Liên Xô. Người viết cũng đã phân tích chọn lựa của Thổ Nhĩ Kỳ trong chính luận Hiểm họa Trung Cộng và bài học Thổ Nhĩ Kỳ cách đây hai năm và lần này bàn đến trường hợp Phần Lan.
Với chủ trương bành trướng Nga Hoàng của Vladimir Putin và ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán của Tập Cận Bình đang cháy rộng, khái niệm “Phần Lan hóa” lại lần nữa được nhắc nhở khá nhiều: “Phần Lan hóa” Ukraine, “Phần Lan hóa” Đài Loan và cả khả năng “Phần Lan hóa” Việt Nam.
Trước khi bàn đến việc liệu Việt Nam có thể sẽ bị “Phần Lan hóa” với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ như David Brown phân tích hay thực tế đã bị “Phần Lan hóa” sau mật ước Thành Đô, cần tìm hiểu các điều kiện địa lý chính trị, lịch sử và quốc phòng của Phần Lan trong quan hệ với Liên Xô trước và sau Thế chiến thứ hai cũng như sự ra đời của khái niệm này.
“Phần Lan hóa” là gì?
“Phần Lan hóa” (Finlandization) có nghĩa “để trở nên Phần Lan” là một khái niệm chính trị để chỉ ảnh hưởng của một cường quốc trên các chính sách đối nội, đối ngoại và quốc phòng của một quốc gia láng giềng nhỏ, bị cô lập, không phải là thành viên của một liên minh quân sự và không nhận được sự bảo vệ của các cường quốc. Khái niệm vẫn còn nhiều tranh cãi, mang nặng cảm tính này bắt nguồn từ chính sách của chính phủ Phần Lan trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh từ 1947 đến 1990 để đáp ứng với thực tế chính trị và bảo vệ được chủ quyền đất nước, hay vắn tắt là để tồn tại.
Phần Lan trước Thế chiến thứ hai
Năm 2013 dân số Phần Lan có 5.5 triệu, tuy nhiên trong giai đoạn “Phần Lan hóa” trong những năm 1940 quốc gia này chỉ có khoảng 4 triệu dân, đa số sống ở các khu vực miền nam, nhiều nhất tại thủ đô Helsinki và vùng phụ cận. Vì là một nước quá nhỏ chia sẻ biên giới với các nước lớn nên Phần Lan cũng gặp nhiều lận đận. Suốt 600 năm, Phần Lan bị Thụy Điển đô hộ. Các viên chức Thụy Điển được cử đến cai trị Phần Lan. Dù đương đầu với hiểm họa bị đồng hóa, Phần Lan vẫn giữ được bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và tiếng nói riêng. Khi phong trào cải cách tôn giáo của Martin Luther lan rộng đến Thụy Điển và Phần Lan, Tân Ước được dịch sang tiếng Phần Lan và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Sau chiến tranh giữa Nga và Thụy Điển vào cuối thế kỷ 17, Nga chiếm Phần Lan.
Năm 1912, vua Nga, Alexander I nâng cấp Phần Lan từ hàng tự trị lên cấp quốc gia đặt thủ đô tại Helsinki. Cũng vào thời điểm đó tinh thần quốc gia Phần Lan do Tiến sĩ Johan Vilhelm Snellman nuôi dưỡng, bắt đầu phát triển mạnh. Để chống lại chính sách đồng hóa của Nga Hoàng, Johan Vilhelm Snellman kêu gọi người dân Phần Lan tuyệt đối không dùng tiếng Nga.
Cách Mạng CS Nga 1917 bùng nổ, Phần Lan tuyên bố độc lập. Tuy nhiên bị ảnh hưởng chính trị Nga, cánh tả trong chính phủ Phần Lan rất mạnh và thực hiện một cuộc đảo chánh. Quân chính phủ do tướng Gustaf Mannerheim chỉ huy phản công và đánh bại quân phiến loạn. Phần Lan chính thức trở thành nước Cộng Hòa năm 1919 với K.J. Ståhlberg là tổng thống đầu tiên. Biên giới giữa Nga và Phần Lan được công nhận theo hiệp ước biên giới Tartu ký kết năm 1920. Quan hệ giữa Phần Lan và Liên Xô rất căng thẳng, và quan hệ giữa Phần Lan và Đức cũng không tốt đẹp gì hơn.
Tháng Tám 1939, Hitler và Stalin ký thỏa hiệp không xâm phạm nhau trong đó có điều khoản Hitler đồng ý nhường Phần Lan cho Stalin. Khi Phần Lan từ chối việc cho phép Liên Xô xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Phần Lan, Stalin tấn công Phần Lan vào tháng 11 năm 1939. Chiến tranh Mùa Đông (Winter War) bùng nỗ. Tuy Phần Lan thua nhưng đã gây thiệt hại trầm trọng cho phía Liên Xô. Sau Chiến tranh Mùa Đông (1939) là Chiến tranh Tiếp Tục (Continuation War) (1941-1944). Trong thời gian này Phần Lan đứng về phía Đức và đem quân tấn công Liên Xô để chiếm lại các phần đất bị mất trong Chiến tranh Mùa Đông và nhiều phần đất khác của Liên Xô. Chính Anh Quốc cũng đã tuyên chiến với Phần Lan năm 1941. Năm 1944, Phần Lan ký hiệp ước đình chiến với Liên Xô.
Phần Lan sau Thế chiến thứ hai
Tại hội nghị Paris 1946, Đồng Minh ân xá cho Phần Lan và các nước đã đứng về phía phe Trục như Romania, Bulgaria, Hungary và cho phép các nước này trở thành hội viên Liên Hiệp Quốc. Phần Lan và Liên Xô ký các hiệp ước hòa bình lần nữa vào những năm 1947 và 1948. Trong giai đoạn này Phần Lan quá yếu về khả năng quân sự so với Liên Xô nên đã buộc phải nhường vùng đất phía nam cho Liên Xô. Đứng trước sự phân cực đang hình thành trong sinh hoạt chính trị thế giới, Phần Lan đối diện với một thực tế chính trị thế giới hoàn toàn bất lợi. Đức Quốc Xã, đối trọng với Liên Xô sụp đổ, không có đồng minh quân sự, bị cô lập về địa lý chính trị, các quốc gia trong vùng Đông Âu lần lượt trở thành chư hầu CS của Liên Xô, các quốc gia vùng Baltic như Estonia, Latvia, Lithuania đều bị sáp nhập hẳn vào Liên Xô. Ưu tiên hàng đầu của chính phủ Phần Lan, vì thế, bằng mọi giá để khỏi bị trở thành một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” trong Liên Bang Xô Viết.
Quá sợ Liên Xô nuốt sống như trường hợp các nước vùng Balkan, Phần Lan lấy lòng Liên Xô bằng cách từ chối viện trợ Mỹ trong kế hoạch viện trợ kinh tế Marshall. Tuy vậy, Phần Lan ngấm ngầm thiết lập quan hệ kinh tế với Anh, Mỹ và các chính phủ Anh, Mỹ cũng tìm cách yểm trợ Phần Lan để hy vọng nuôi dưỡng chế độ dân chủ non trẻ tại quốc gia nhỏ ở Bắc Âu này. Chính sách “Phần Lan hóa” ra đời.
Nội dung của “Phần Lan hóa”:
*. Về đối ngoại. Phần Lan theo đuổi một chính sách đối ngoại rất mềm dẽo, nhân nhượng, không làm mất lòng Liên Xô, trung lập. Liên Xô trong thực tế không xem Phần Lan như là một nước Trung Lập đúng nghĩa mà luôn xem quốc gia này phụ thuộc vào các chính sách đối ngoại phát xuất từ điện Kremlin. Chẳng hạn, khi đại sứ Phần Lan Max Jakobson được đề cử vào chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Liên Xô chẳng những không ủng hộ mà còn dùng quyền phủ quyết để bác bỏ vì không muốn thấy một chính khách Phần Lan đóng vai trò quan trọng trong tổ chức chính trị thế giới.
*. Về đối nội. Loại trừ các thành phần lãnh đạo quốc gia có khuynh hướng chống Liên Xô và ủng hộ các thành phần thân Liên Xô. Theo tài liệu của CIA, Liên Xô duy trì mối quan hệ mật thiết với các chính khách thân Liên Xô đứng đầu là Tổng thống Juho Kusti Paasikivi (1870-1956) và sau đó là Tổng thống Urho Kekkonen (1900-1986). Liên Xô có quyền phủ quyết các chính sách của Phần Lan và can dự vào nội bộ Phần Lan qua trung gian đảng CS Phần Lan, Liên Đoàn Dân Chủ Nhân Dân, Quốc Hội Phần Lan với đa số thuộc cánh tả.
*. Về văn hóa giáo dục. Để vừa lòng Liên Xô, Phần Lan áp dụng chính sách tự kiểm duyệt, tự kiểm soát và thân Liên Xô. Chính phủ Phần Lan ngăn chận các phương tiện truyền thông có cái nhìn tiêu cực về Liên Xô. Trên 1700 cuốn sách có nội dung chống Liên Xô trước đó bị xếp vào thể loại “sách bị cấm”. Các phim ảnh không có lợi cho Liên Xô như The Manchurian Candidate, Day in the Life of Ivan Denisovich v.v. đều không được phép chiếu.
*. Về quốc phòng. Hiệp ước Hữu Nghị Hợp Tác Phần Lan-Liên Xô 1948 (Finno-Soviet Pact of Friendship, Cooperation and Mutual Assistance) quy định Phần Lan phải có trách nhiệm chống lại các lực lượng thù địch của Liên Xô khi các lực lượng này tấn công Liên Xô ngang qua ngã Phần Lan và nếu cần sẽ kêu gọi sự giúp đở quân sự của Liên Xô. Phần Lan không được liên minh quân sự với một quốc gia thứ ba. Điều này do Liên Xô đặt ra để giới hạn Phần Lan gia nhập NATO giống như trường hợp Đan Mạch và Na Uy. Trước đó, trong hiệp ước ký kết giữa hai nước, Phần Lan đã nhường 10 phần trăm lãnh thổ cho Liên Xô.
Nhắc đến “Phần Lan hóa” không thể bỏ qua vai trò của Tổng thống Phần Lan Urho Kekkonen, người lèo lái chính sách này trong suốt 26 năm làm tổng thống. Những người phê bình Urho Kekkonen cho rằng ông ta là con cờ của Liên Xô trong khi những người ủng hộ xem ông như là một trong những anh hùng của Phần Lan vì đã bảo vệ được chủ quyền Phần Lan trong một hoàn cảnh chính trị thế giới vô cùng khó khăn.
Công tâm mà nói, trong suốt dòng lịch sử, lãnh thổ Phần Lan là bãi chiến trường cho các tham vọng bành trướng của Thụy Điển và sau đó là Nga Hoàng. Sau Thế chiến thứ hai, hầu hết các quốc gia vùng Baltic và Balkan đề nằm trong quỹ đạo Liên Bang Sô Viết. Lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ của quốc gia này đều bị xóa bỏ. Ý thức được điều đó, mục tiêu hàng đầu của Kekkonen là bảo vệ chủ quyền Phần Lan, bảo vệ nền Cộng Hòa Phần Lan bằng mọi giá, không thể để Phần Lan trở thành một xứ tự trị như thời Nga Hoàng hay một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” của Stalin. Mặc dù nhân nhượng Liên Xô rất nhiều trong các lãnh vực chính trị, quốc phòng Phần Lan cũng có lợi về kinh tế vì Liên Xô là quốc gia nhập cảng lớn nhất sản phẩm của Phần Lan. Sự sụp đổ của Liên Xô đã gây ra những suy thoái kinh tế trầm trọng tại Phần Lan. Sau giai đoạn phục hồi, Phần Lan đã phát triển một cách vượt bực. Ngày nay Phần Lan hội nhập cao vào sự nền kinh tế thế giới và là một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới.
Trở lại với quan hệ Trung Cộng và CS Việt Nam trong cái nhìn so sánh giữa Liên Xô và Phần Lan.
Trung Cộng sau Thiên An Môn
Chính sách đối ngoại của Trung Cộng trong thời gian 1990 nhằm mục đích thoát khỏi sự cô lập quốc tế và ổn định chính trị nội bộ sau biến cố Thiên An Môn. Những thành tựu kinh tế của chính sách bốn hiện đại hóa từ đầu thập niên 1980 đã đạt một số thành tích đáng kể nhưng tất cả đều rất mong manh, yếu kém. Các cường quốc dân chủ vẫn còn trừng phạt kinh tế sau khi Đặng Tiểu Bình ra lệnh tàn sát nhiều ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ tại Thiên An Môn đầu tháng 6, 1989.
Như hầu hết các quốc gia CS, kế hoạch chung của cả nước luôn chế ngự và đồng thời duy trì tính cân đối của các chính sách đối ngoại cũng như đối nội trong mỗi thời kỳ. Để thoát khỏi sự cô lập và phục hồi vị trí của Trung Cộng trong bang giao quốc tế , Đặng Tiểu Bình theo đuổi chính sách đối ngoại mềm dẽo trong đàm phán biên giới với hàng loạt các nước lân bang trong đó có Việt Nam. Chính sách của ho Đặng được gọi là chính sách 20 nét chữ “bình tĩnh quan sát, giữ vững trận địa, bình tĩnh ứng phó, giấu mình chờ thời” (lengjing guancha, chenzhuo yingfu, wenzhu zhenjiao, taoguang yanghui, yousuo zuowei).
Sự sụp đổ của hệ thống Liên Xô làm Trung Cộng không còn lo ngại vòng vây Liên Xô từ hướng Việt Nam nhưng lại có mối lo mới nguy hiểm và hùng mạnh hơn nhiều, đó là Mỹ. Như người viết đã trình bày trong các bài trước, thời điểm 1990 đối tượng cạnh tranh của Trung Cộng là Mỹ và Nhật chứ không phải Liên Xô hay chư hầu của nó là CSVN và mục tiêu bành trướng của họ Đặng không chỉ giới hạn ở các cù lao trên biển, vài ngọn núi đất ở Hà Giang mà cả Thái Bình Dương. Và để giới hạn sự đe dọa của Mỹ, Trung Cộng đã làm hòa với CSVN. Hai bên đã mở các cuộc đàm phán vào năm 1991 và đạt đến thỏa hiệp vào năm 1993 sau mật ước Thành Đô.
Việt Nam sau Liên Xô
Sau khi hệ thống CS tại châu Âu sụp đổ, nền kinh tế của các nước CS còn lại của khối COMECON trong đó có Lào, Cu Ba và CSVN trở thành đàn gà mất mẹ. Trong bài bình luận nhân dịp kỷ niệm 20 năm bức tường Bá Linh đổ, tạp chí The Economist nhận xét chung rằng khi chế độ thực dân ra đi, các nước cựu thuộc địa ít ra còn hưởng được các phương pháp quản trị, hệ thống tư pháp và nhiều trường hợp cả ngôn ngữ nhưng chế độ CS ra đi không để lại gì ngoài nghèo đói, ngục tù và lạc hậu.
Số phận của đảng CSVN như chỉ mành treo chuông. Trong giờ phút sinh tử đó, lãnh đạo CSVN xem dấu hiệu hòa hoãn của Đặng Tiểu Bình như chiếc phao giữa biển. Họ vui mừng bám lấy. Dĩ nhiên, với bản chất thâm độc, đầu óc tính toán của lãnh đạo Trung Cộng, món lễ vật của đàn em CSVN dâng lên trong ngày quy phục thiên triều lần nữa phải là một lễ vật đắt giá. Món nợ máu xương từ năm 1979 trở về trước hẳn được Đặng Tiểu Bình đòi cả vốn lẫn lời.
Hội nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên diễn ra trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lý Bằng thực chất là lễ cam kết một loại “công hàm” khác, trầm trọng hơn nhiều so với “công hàm Phạm Văn Đồng”. Chiều ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài Bắc Kinh, Giang Trạch Dân tuyên bố “Nhưng chúng tôi hy vọng giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và hai nước do những người lãnh đạo thuộc thế hệ lão thành xây dựng nên.” Họ Giang muốn nhắc nhở lãnh đạo CSVN về thời kỳ mà đảng CSVN thở bằng bình oxyen Trung Cộng trong các thập niên 1950, 1960.
Trung Cộng muốn Việt Nam những gì Liên Xô muốn Phần Lan và nhiều hơn nữa:
Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, Việt Nam phải “trung lập” trên danh nghĩa. Phần Lan luôn tuyên bố “trung lập” và Liên Xô ủng hộ vị trí trung lập của Phần Lan nhưng thực chất có quyền phủ quyết hầu hết các chính sách đối ngoại của Phần Lan. CSVN cũng thế. Họ luôn tuyên bố “quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi” với mọi quốc gia trên thế giới nhưng thực chất chỉ “hợp tác” với sự đồng ý của Trung Cộng. Bất cứ khi nào có dấu hiệu làm trái ý, Trung Cộng sẽ dùng mọi biện pháp hèn hạ nhất để trừng phạt như trường hợp giàn khoan HD981 vừa qua, bất chấp dư luận thế giới khinh khi.
Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, các chính sách an ninh quốc phòng của Việt Nam không được đi ngược với chính sách quốc phòng của Trung Cộng, không được độc lập trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. Để thỏa mãn Trung Cộng, Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không” tự sát: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Các điều khoản này tương tự các điều khoản của hiệp ước mà Phần Lan phải ký với Liên Xô năm 1948.
Giống như Liên Xô đã cướp đất của Phần Lan, CSVN đã chấp nhận vị trí đặc quyền, đặc lợi của Trung Cộng trong Biển Đông. Như đã viết, khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Giống như Liên Xô đã áp lực với lãnh đạo Phần Lan, Việt Nam cũng thực hiện các chính sách tự kiểm duyệt các tin tức gây mất lòng Trung Cộng, giới hạn các phim ảnh, sách báo có nội dung tiêu cực về chế độ CS tại Trung Quốc, ngăn chận mọi ý kiến, phản ứng dù rất ôn hòa của người dân trước các hành động gây hấn, xâm lược lộ liễu của Trung Cộng. Tháng Sáu vừa qua, các báo VnExpress, Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục đã phải đồng loạt lấy xuống các hình ảnh và tin tức liên quan đến ngày kỷ niệm Tàn Sát Thiên An Môn. TS Nguyễn Quang A, một trong những thành viên chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự phát biểu với RFA:“Điều đó chứng tỏ rằng những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để họ làm như vậy.”
Bên cạnh các điểm giống nhau nêu trên, một điểm khác biệt có tính quyết định đối với tương lai của dân tộc Việt Nam: Trung Cộng quyết tâm bảo vệ đảng CSVN. Làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo CSTQ cũng biết hiện nay chỉ còn năm đảng cầm quyền mang nhãn hiệu búa liềm. Nắm giữ Việt Nam về mặt lý luận tư tưởng không chỉ để bảo vệ cơ chế mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Và do đó, bị “Phần Lan hóa” trong quỹ đạo Trung Cộng cũng có nghĩa ngày nào Trung Cộng còn do đảng CS cai trị ngày đó nhân dân Việt Nam lại cũng sẽ tiếp tục chịu đựng dưới ách chủ nghĩa độc tài toàn trị Lê Nin không có Mác. Tổng thống Phần Lan Urho Kekkonen phải khuất phục Liên Xô chỉ vì để bảo vệ chế độ cộng hòa và chủ quyền đất nước, lãnh đạo CSVN bám vào chiếc phao Trung Cộng chỉ vì quyền lực và quyền lợi riêng của đảng CS.
Những phân tích trên cho thấy có khả năng cao Việt Nam đã bị “Phần Lan hóa” qua mật ước Thành Đô. Và Việt Nam, như một dân tộc, chỉ có thể tự thoát khỏi quỹ đạo Trung Cộng tức tránh khỏi nạn bị “Phần Lan hóa” bằng (1) dân chủ trước Trung Cộng, (2) đoàn kết dân tộc để vượt thoát và thăng tiến, (3) chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia trong tranh chấp Thái Bình Dương, (4) sát cánh với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy như đã trình bày trong chính luận Để thắng được Trung Cộng.
Trần Trung Đạo
*********
Tham khảo:
http://www.foia.cia.gov/sites/default/files/document_conversions/14/esau-55.pdf
– “Finlandization” in Action: Helsinki’s Experience with Moscow”
, Directorate of Intelligence Report. CIA
http://online.wsj.com/news/articles/SB10001424052748704164904575421753851404076
– China’s ‘Finlandization’ Strategy in the Pacific , Adrew F. Krepinevich, The Wall Street Journal Sept 11,2010
http://www.asiasentinel.com/opinion/vietnam-faces-finlandization-china/
– Vietnam Faces ‘Finlandization’ from China, David Brown, AsiaSentinel, May 22 2014
– Finland, a country study, Library of Congress , Eric Solsten and Sandra W. Meditz, December 1988
– China’s Foreign Relations After Tiananmen: Challenges for the U.S. Robert S. Ross, Allen S. Whiting and Harry Harding, The NBR Analysis, 1990.
– Regime Insecurity and International Cooperation, M. Taylor Fravel, International Security, Vol. 30, No. 2 (Fall 2005), pp. 46–83 © by the President and Fellows of Harvard College
– Wikipedia.org The Molotov–Ribbentrop Pact
http://en.wikipedia.org/wiki/Finlandhttp:/en.wikipedia.org/wiki/Finland
– Wikipedia.org Finland
– Korean Reunification Would Cast Off China’s Shadow , Mark P. Barry, World Policy
http://www.trantrungdao.com/?p=1695
– Hiểm họa Trung Cộng và bài học Thổ Nhĩ Kỳ, Trần Trung Đạo, trantrungdao.com