PHẢI CÔNG BỐ CÁC THỎA THUẬN Ở THÀNH ĐÔ CHO NHÂN DÂN BIẾT.

 @ Nguyentuongthuy Blog
Bài viết của Đại tá an ninh Nguyễn Đăng Quang, một người bạn thân thiết của anh em đấu tranh Hà Nội. Ông am hiểu nhiều nhưng luôn toát ra vẻ chân thành, khiêm tốn, bình dị. Gọi điện cho tôi, ông nhờ sửa lại cho ông lỗi chính tả, trình bày. Nhưng tôi để nguyên những gì ông viết.
imagesNguyễn Đăng Quang
Cách đây 24 năm, ngày 3 và 4/9/1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) đã diễn ra cuộc họp thượng đỉnh giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản và Nhà nước hai nước TQ và VN. Tham dự cuộc gặp, phía TQ, dẫn đầu là Giang Trạch Dân, TBT Đảng CSTQ, và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện nước CHND Trung Hoa. Dẫn đầu đoàn VN là Nguyễn Văn Linh, TBT Đảng CSVN và Đỗ Mười, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tức Thủ tướng Chính phủ) nước CHXHCN Việt Nam.
Thành viên thứ ba của đoàn VN là Phạm Văn Đồng,Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tháp tùng đoàn VN đến Thành Đô có 3 cán bộ cấp cao là Hồng Hà,Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Hoàng Bích Sơn,Trưởng Ban đối ngoại Trung ương và Đinh Nho Liêm,Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Trên chuyên cơ đưa Đoàn ta từ sân bay Nội Bài đi Thành Đô còn có cả Trương Đức Duy,Đại sứ đặc mệnh toàn quyền TQ tại VN . Song điều đặc biết đáng chú ý là Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch không có tên trong danh sách tham dự cuộc họp này. Trong cuộc gặp thượng đỉnh này tại Thành Đô,2 bên đã ký kết một văn bản thỏa thuận gọi là ” Kỷ yếu Hội nghị ” để chính thức bình thường hóa quan hệ 2 nước và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận vừa đạt được giữa lãnh đạo 2 Đảng và 2 Nhà nước. Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội dung thỏa thuận của Hội nghị Thành Đô từ đó cho đến nay vẫn luôn nằm trong bí mật và cho đến tận hôm nay – mặc dù 24 năm đã qua – nó vẫn chưa được chính thức công bố cho nhân dân VN cũng như các nước liên quan và cộng đồng quốc tế được biết !
Hội nghị Thành Đô diễn ra trong bối cảnh quốc tế như thế nào? Trước hết không thể không nói là cuộc thảm sát Thiên An Môn tại Bắc Kinh ngày 4/6/1989. Gần 2 tháng trước đó,từ giữa tháng 4/1989, hàng ngày có hàng chục ngàn,có hôm lên đến cả trăm ngàn sinh viên và thanh niên thay nhau tổ chức biểu tình ngồi và nằm để chiếm quảng trường Thiên An Môn. Họ giương cao các khẩu hiệu chống tham nhũng,ủng hộ cải cách và đòi tự do, dân chủ. Với bản chất khát máu và phi nhân tính,thay vì đối thoại để có một giải pháp ôn hòa,nhà cầm quyền TQ đã sử dụng lực lượng quân đội với hàng trăm xe tăng mờ sáng ngày 4/6/1989 tràn vào quảng trường Thiên An Môn để tàn sát dã man người biểu tình trong tay không một tấc sắt và là đồng bào ruột thịt của mình! Xe tăng nghiền nát hàng ngàn thanh niên,sinh viên,mảu chảy lênh láng khắp quảng trường! Cả thế giới bàng hoàng! Mỹ và phương Tây cùng các nước tiến bộ trên toàn thế giới đồng thanh lên án,tố cáo,trừng phạt và cô lập Trung Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa kể từ khi thành lập(1949) đến nay chưa khi nào lại bị thế giới nguyền rủa và cô lập như lúc này. Đây là vết nhơ ngàn đời khó rửa đối với chính quyền cộng sản Trung Quốc! Ngoài ra, một sự kiện lịch sử không thể không nói,đó là hàng loạt các ĐCS và hệ thống XHCN nối tiếp nhau tan rã và sụp đổ ở Đông Âu. Bắt đầu từ cuối năm 1989 cho đến đầu năm 1990, chế độ XHCN ở 6 nước cộng sản Đông Âu lần lượt và dồn dập sụp đổ: Đầu tiên là Ba Lan (6/1989), tiếp đến là Hungary (10/1989), rồi đến Đông Đức (11/1989), tiếp theo là Tiệp Khắc (12/1989), sau đó là Rumany (12/1989),và tiếp đến là Bulgary(1/1990). Muộn hơn là Albany (3/1991), rồi đến Nam Tư (6/1991) và cuối cùng là Liên bang Cộng hòa XHCN Xô viết tức Liên Xô (19/8/1991). Chỉ trước đấy không lâu,vào đầu tháng 10/1989,lãnh đạo các ĐCS và các nước XHCN anh em còn tụ tập nhau ở Berlin để cùng nhau tham dự Lễ kỷ niệm 40 năm Quốc khánh CHDC Đức (7/10/1989) và bàn việc bảo vệ và giữ vững chế độ XHCN trên thế giới . Đoàn Việt Nam do TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu sang Berlin tham dự Lễ kỷ niệm này, nhưng chỉ đúng một tháng sau khi về đến Hà Nội thì bức tường Berlin đổ sụp. Erich Honecker – TBT Đảng kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHDC Đức – bị lật đổ. Còn lãnh tụ Nikolai Ceaucescu của Đảng và Nhà nước Rumani, sau khi dự Lễ kỷ niệm 40 năm Quốc khánh CHDC Đức ,khi trở về Bucarest ông còn kịp tổ chức “thành công” Đại hội lần thứ 14 Đảng Cộng sản Rumani (cuối tháng 11/1989) và tất nhiên ông được bầu lại làm TBT thêm một nhiệm kỳ 5 năm nữa! Nhưng chỉ một tháng sau – ngày 20/12/1989 – khi vừa chân ướt chân ráo về đến thủ đô Bucarest sau 2 ngày đi thăm chính thức nước Cộng hòa Hồi giáo Iran về thì Ceaucescu bị truy bắt,cả 2 vợ chồng phải chạy trốn khỏi thủ đô và sau đó đều bị bắt và bị một tòa án quân sự tuyên tử hình về tội diệt chủng và tham nhũng, rồi cả hai nhanh chóng bị mang ra hành quyết vào rạng sáng ngày 25/12/1989. Theo cuốn hồi ký “Hồi ức và suy nghĩ” của nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ thì Nikolai Ceaucescu ” là người trong thời gian ở Berlin xem ra tâm đầu ý hợp với TBT Nguyễn Văn Linh trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp XHCN thế giới đang lâm nguy”. Nhiều nguồn tin khác còn nói chính trong lần gặp nhau ở Berlin này,2 vị lãnh đạo của Việt Nam và Rumani đã đồng ý là năm sau(1990) sẽ cùng đứng ra đồng tổ chức một cuộc Hội nghị toàn cầu các đảng cộng sản và công nhân nhằm xiết chặt đoàn kết và khẳng định xu thế tất thắng của Chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới ! Những sự kiện dồn dập nói trên ở Đông Âu nối tiếp xảy ra chỉ trong vòng không đến một năm khiến TBT Nguyễn Văn Linh và Lãnh đạo Đảng ta rất bồn chồn và vô cùng lo lắng,đứng ngồi không yên !
90bc0500-497b-4dbd-89d5-9cc61baad018Nắm bắt được tâm trạng hoảng hốt,lo lắng của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta và biết chắc được lãnh đạo ta sẽ sẵn sàng nhân nhượng để khôi phục lại quan hệ Đảng và Nhà nước với TQ nhằm có đồng minh và chỗ dựa trong việc bảo vệ Đảng và chế độ XHCN, Trung Nam Hải quyết định hành động! Đặng Tiểu Bình, Cố vấn tối cao kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung ương ĐCSTQ – kẻ đã xua 600.000 quân tràn qua 6 tỉnh biên giới phía Bắc để xâm lược nước ta 10 năm trước (tháng 2/1979 ) – cùng các lãnh đạo chóp bu khác ở Trung Nam Hải nhận định đây là cơ hội quí hơn vàng để thực hiện quỷ kế chia rẽ, lừa gạt và phân hóa nội bộ ta nhằm đưa Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước VN nằm trọn trong quỹ đạo phụ thuộc toàn diện vào Cộng sản Trung Quốc ! Chúng đưa ra chiêu trò cực kỳ thâm hiểm là gợi ý tổ chức một cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa lãnh đạo 2 Đảng và Nhà nước để cải thiện và bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Trung quốc nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và bảo vệ CNXH ở mỗi nước ! Cơ quan được giao thực hiện quỷ kế này không ai khác chính là Hoa nam Tình báo. Cơ quan tình báo này thừa biết, nếu thông qua kênh ngoại giao chính thức là Bộ Ngoại giao thì chắc chắn quỷ kế này sẽ bị bại lộ và nhiều khả năng sẽ bất thành bởi vì ở Bộ Ngoại giao có Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ,Thứ trưởng Trần Quang Cơ và Trợ lý Ngoại trưởng Vũ Khoan là 3 nhà lãnh đạo rất am hiểu và luôn cảnh giác cao độ với mọi âm mưu,thủ đoạn của Trung Quốc. Do vậy phải tránh BNG và phải đi đường vòng . Đường vòng này đã được Hoa nam Tình báo xác định từ trước là Ban Đối ngoại Trung ương và Bộ Quốc phòng ! Trương Đức Duy (sinh năm 1930 tại Quảng Đông, là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền TQ tại VN từ tháng 4/1989 đến 3/1993,nói tiếng Việt giỏi như người Viêt,người vốn không xa lạ gì với Cơ quan an ninh VN ) được giao trực tiếp thực hiện kế hoạch này. Chỉ chưa đầy hai tháng sau khi được cử giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Việt Nam, Trương Đức Duy đã thực hiện một bước đi ngoạn mục là qua mặt và phớt lờ Bộ Ngoại giao, trực tiếp liên hệ và tiếp xúc với 2 cơ quan nói trên của ta là nơi vốn Trương đã có sẵn các mối quan hệ đặc biệt từ khi ông ta còn là phiên dịch kiêm Bí thư thứ ba rồi thứ nhất Sứ quán TQ ở Hà nội 20 năm về trước. Trương Đức Duy đã được sắp xếp dễ dàng gặp Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh 3 lần trong vòng chưa đầy 3 tháng (trưa 6/6,chiều 20/8 và sáng 29/8/1989) và TBT Nguyễn Văn Linh 3 lần (ngày 5/6, tối 22/8 và chiều 29/8/1989). Những lần Trương đến Bộ Quốc phòng hay Ban Đối ngoại Trung ương gặp Lãnh đạo ta, xe Trương thường không cắm cờ và đi vào cửa phụ, Trương không mang theo phiên dịch và thư ký ghi chép và ông ta cũng yêu cầu phía ta không bố trí phiên dịch và thư ký,những cuộc gặp đó chỉ có 2 người: 1 chủ và 1 khách!
Đương nhiên, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch không được biết trước những cuộc gặp này,mà chỉ được thông báo sau khi đã diễn ra,thậm chí có những cuộc gặp ông còn không được cho biết, mặc dù ông đang là Uỷ viên Bộ chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Phó Thủ tướng ) kiêm Bộ trưởng Ngoại giao! Nhớ lại, vào một tối đầu Thu 1987 tại New York , Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch có nói riêng với người viết bài này khi ông dẫn đầu Phái đoàn CHXHCN Việt Nam sang dự Khóa họp thứ 42 Đại hội đồng LHQ : “Họ công khai ra điều kiện cho Lãnh đạo ta là “Nếu VN thực tâm muốn cải thiện và bình thường hóa quan hệ với TQ thì viêc đầu tiên VN phải làm là loại bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch.” Vâng, có lẽ tất cả các cán bộ đối ngoại ở BNG hoặc ở các cơ quan đại diện ngoại giao VN ở nước ngoài trong khoảng thời kỳ 1987-1990 đều được biết đòi hỏi cực kỳ ngang ngược và trịch thượng này của TQ ! Nhiều cán bộ trung cao cấp của Bộ Ngoại giao hồi đó còn trao đổi ở chốn riêng tư với nhau : ” Lần này thủ trưởng của chúng ta có lẽ khó thoát khỏi là “vật tế thần”!” . Tôi thật không ngờ và rất buồn là ngay sau Hội nghị Thành Đô, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch – “kiến trúc sư của nền ngoại giao Việt Nam”- một chiến lược gia tài ba,một nhà lãnh đạo có kiến thức uyên thâm và tầm nhìn xa,trông rộng, một nhà ngoại giao sắc sảo và quả quyết,người mà nhiều chính khách phương Tây rất khâm phục và kính nể, lại phải sớm rời khỏi mọi chức vụ ( Ủy viên BCT, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao) và bị loại khỏi danh sách đề cử vào BCHTW khóa VII ! Chỉ trước đấy không lâu,ngay đầu năm 1990, ông còn được dự kiến làm Thủ tướng nếu ông Võ Văn Kiệt lên làm Tổng Bí thư ở Đại hội VII.
Việc ông bị loại bỏ khỏi tất cả các chức vụ lãnh đạo Đảng và Nhà nước có phải là một trong các điều kiện mà TQ đã buộc ta phải chấp nhận ở Hội nghị Thành Đô hay không, là một điều không khó để chứng minh. Còn về câu nói “Thế là một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!” có phải là ý kiến nhận định và đánh giá về kết quả Hội nghị Thành Đô của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch hay không? Ông nói câu này khi nào, với ai và trong bối cảnh nào? thì chưa thấy có nguồn tin nào khẳng định. Khi phải thôi chức Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao ở tuổi tròn “thất thập”(1991), tuy bị sốc,nhưng sức khỏe về trí lực và thể lực của ông vẫn còn rất tốt. Ông vẫn được Bộ Chính trị giao công tác mới là chủ trì Tổng kết công tác ngoại giao, nghiên cứu kinh tế thế giới và chiến lược đối ngoại cho đến khi ông mất (năm 1998) . Chính trong thời gian này ông đã hoàn chỉnh cuốn hồi ký mà ông đã khởi bút viết ngay sau khi Hội nghị Paris về VN kết thúc (1973). Cuốn hồi ký này nói về những năm tháng vinh quang và những khoảnh khắc bực tức,nóng giận và cay đắng trong cuộc đời 60 năm hoạt động cách mạng trong đó có 44 năm làm công tác ngoại giao của mình. Chắc chắn là nhiều bí mật đối ngoại của Nhà nước cũng như của riêng ông sẽ được “bật mí” một khi cuốn hồi ký này được công bố!
Gần 1/4 thế kỷ đã trôi qua kể từ Hội nghị Thành Đô, nhiều thành viên đoàn VN tham dự hội nghị này không còn nữa, nhưng hậu quả để lại của cuộc gặp này là khôn lường , gây ra những thiệt hai to lớn và nguy hiểm cho đất nước và nhân dân ta ở hầu hết các lĩnh vực : từ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, văn hóa-giáo dục, chủ quyền đất nước,chính trị nội bộ đến vấn đề an ninh quốc gia trên phạm vi toàn lãnh thổ, từ biên giới phía Bắc cho đến các tỉnh miền Tây Nam bộ, từ biển Đông vào đến các tỉnh ven biển và giáp với biên giới Lào và Cămpuchia, và đặc biệt là vùng Tây Nguyên chiến lược. Không thể thống kê hết những vấn đề nói trên, chỉ xin đề cập đến một vài sự việc nổi cộm sau :
– Từ sau Hội nghị Thành Đô,cuộc chiến tranh xâm lược của TQ ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta (17/2/1979) không được nhắc đến nữa, thậm chí những hoạt động của người dân tưởng niêm và vinh danh các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến này hoặc các cuộc biểu tình yêu nước chống TQ xâm phạm biển đảo và sát hại ngư dân ta đều bị ngăn cấm và đàn áp? Hơn 35 năm đã trôi qua, tại sao cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,chống xâm lược bành trướng phương Bắc này cũng như việc TQ dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (1974) và đảo Gac Ma của ta ở Trường Sa (1988) không được tổng kết và đưa vào lịch sử và sách giáo khoa để giáo dục lòng yêu nước cho học sinh,sinh viên và thanh niên ta?
– Tại sao ta cho phép hoặc không ngăn chặn việc TQ thuê hàng trăm ngàn héc ta rừng đầu nguồn ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn lâu dài 50-70năm?
– Một khu vực có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng,rất nhạy cảm về mặt an ninh-quốc phòng là Tây Nguyên( Ai kiểm soát Tây nguyên thì có thể khống chế được toàn bộ bán đảo Đông Dương!) thì TQ lại dễ dàng được phép đưa hàng ngàn công nhân vào đây để thực hiện dự án bauxite đầy nghi ngờ và tranh cãi không những về an ninh-quốc phòng mà cả về hậu quả sinh thái-môi trường cũng như về hiệu quả kinh tế-xã hội, mặc dù có hàng ngàn cựu cán bộ lãnh đạo,nhân sỹ trí thức và các nhà khoa học lên tiếng kiến nghị Bộ Chính trị,Quốc hội và Nhà nước dừng dự án này!
-Tại sao các công ty TQ lại trúng đến 80-90% các gói thầu trọn gói EPC(thiết kế-mua sắm-xây dựng) trong các dự án về KT-XH,đặc biệt là các dự án nhiệt điện, và tại sao ta chấp nhận hàng chục ngàn lao động phổ thôngTQ(có phép và không phép)vào thực hiện các dự án này? Tại sao ta ta lại để cho thương nhân và các doanh nghiệp TQ tự tung tự tác trên khắp lãnh thổ của ta,lừa đaỏ nông dân ta,lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước ta một cách dễ dàng như chốn không người như vậy?
– Gần đây TQ ngang ngược và trắng trợn hạ đặt giàn khoan HD.981 để khoan thăm dò dầu khí sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN mà ta lại không dám nhân cơ hội này kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như Philippines đã làm ? Do ta chưa chuẩn bị kịp hồ sơ pháp lý hay vì một nguyên nhân nào khác? Trong vụ giàn khoan này TQ đã không chỉ chà đạp luật pháp và chủ quyền của VN mà còn vi phạm thô bạo Công ước Luật biển 1982 (UNCLOS) của LHQ. Dư luận rộng rãi trên toàn thế giới phản đối,lên án TQ và đồng tình,ủng hộ VN. Rất tiếc ta lại không tận dụng thời cơ và lợi thế này để vạch mặt bọn “vừa ăn cướp vừa la làng!” Trung Quốc không chỉ ngang ngược mà họ còn phi lý và trịch thượng nữa! Qua hang thông tấn chính thứcTân Hoa Xã, họ đưa ra ” 4 yêu sách VN không được làm” trong đó họ đề cập xa gần và bóng gió đến thỏa thuận Thành Đô 1990!
– v.v…
Xung quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà VN đã ký với TQ ở Thành Đô có nhiều phân tích,đánh giá, nhận định,thông tin trái chiều, thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm,bất lợi về mặt dư luận… làm người dân hoang mang,bán tín bán nghi,không biết đâu là hư,đâu là thực ! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ Việt-Trung,đặc biệt là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với TQ ở Thành Đô.
Là chủ nhân ông của đất nước,nhân dân có quyền được biết và phải được biết về những vấn đề trọng đại của quốc gia, trong đó có sự thật về quan hệ VN-TQ trong những năm qua, đặc biệt là các thỏa thuận đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô năm 1990. Hơn nữa, Điều 4 Hiến pháp 2013 đã ghi rất rõ: “ĐCSVN… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân,phục vụ Nhân dân,chịu sự giám sát của Nhân dân,chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.” Do vậy việc Lãnh đạo Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối bang giao Việt-Trung và các thỏa thuận đã ký với TQ ở Thành Đô là một việc nên làm,cần làm và phải được làm vì điều này chỉ có lợi cho Nhân dân và Đất nước .
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI sẽ sớm nhóm họp Hội nghị Trung ương lần thứ 10 trong thời gian tới để duyệt xét mối quan hệ VN-TQ và đưa ra các quyết sách liên quan . Nhân dân rất kỳ vọng một trong các quyết sách này là Đảng sẽ báo cáo cho toàn dân biết sự thực về mối quan hệ với TQ trong 1/4 thế kỷ qua trong đó có các thỏa thuận mà lãnh đạo Đảng ta đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô năm 1990 kèm theo một lời tạ lỗi chân thành ! Nếu đúng thì đây sẽ là một trong các quyết định dũng cảm, hợp lòng dân và quan trọng nhất trong lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mong lắm thay !
Hà Nội, 3/8/2014.
NĐQ.
Tác giả gửi cho NTT blog

TNS John McCain quay lại Việt Nam

Hai thượng nghị sỹ Hoa Kỳ John McCain và Sheldon Whitehouse có chuyến thăm Việt Nam bắt đầu từ thứ Sáu 8/8.

Nội dung chuyến đi, hiện chưa rõ lịch trình, được nói chung chung là để thúc đẩ̀y quan hệ giữa hai bên.

BBC được biết chiều 8/8 hai ông sẽ có cuộc họp báo ở Hà Nội để nói về quan hệ Mỹ-Việt, các vấn đề song phương và khu vực.

Chuyến thăm của hai vị thượng nghị sỹ diễn ra ngay sau chuyến công du của một thượng nghị sỹ khác, ông Bob Corker, thành viên cao cấp thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ.

Trong khi ở Việt Nam, ông Corker bày tỏ lạc quan rằng Washington sẽ dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam trong tương lai gần.

Giới chức Việt Nam trong các tiếp xúc cấp cao với chính giới Mỹ gần đây đều đề cập tới vấn đề này.

Thượng nghị sỹ John McCain, người được cho là ủng hộ bỏ cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam, ngay từ mấy năm trước đã tuyên bố một cách lạc quan rằng “đây là chủ đề mà tôi cho là hai nước có thể giải quyết một cách tích cực”.

Là nhân vật có ảnh hưởng trong Ủy ban Quân vụ của Thượng viện Hoa Kỳ, việc ông McCain có mặt ở Hà Nội tuần này làm nổi lên câu hỏi liệu Việt Nam và Mỹ đã đến rất gần một thỏa thuận mới trong chủ đề này?

Món quà của ủy viên Bộ Chính trị

Ông Phạm Quang Nghị tặng ông John McCain ảnh chụp tấm bia có hình ông

Năm 1994, Mỹ đã bỏ cấm vận kinh tế với Việt Nam, nhưng vẫn cấm bán các loại vũ khí sát thương cho quốc gia cựu thù.

Để dỡ bỏ lệnh cấm vận này, Washington đòi hỏi Hà Nội thực hiện một số điểm, trong đó có chủ đề nhân quyền.

Năm 2013, trong chuyến thăm Mỹ, Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã xác lập quan hệ đối tác toàn diện giữa hai bên.

Ông John McCain từng là ứng viên tổng thống của Đảng Cộng hòa và ông có nhiều duyên nợ với Việt Nam, từng thăm Việt Nam nhiều lần.

Ông từng tham chiến ở Việt Nam và bị cầm tù sau khi máy bay của ông bị bắn hạ trên bầu trời Hà Nội.

Hôm 23/7, trong chuyến đi Hoa Kỳ của mình, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSVN, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị cũng hội kiến ông McCain ở trụ sở Quốc hội Mỹ.

Thật tình, tôi không biết ngài có muốn có nó hay không? Nếu ngài không thích thì ngài có thể không công bố cho bất kỳ ai được biết.

Ông Phạm Quang Nghị nói với ông John McCain

Vào cuối cuộc tiếp xúc, ông Nghị tặng ông McCain hai tấm ảnh khổ A4, chụp tấm bia tại đường Thanh Niên bên hồ Trúc Bạch trên có hình ông McCain bị bắt làm tù binh 47 năm trước.

Phóng viên Việt Nam đi theo đoàn thuật lại rằng ông Nghị nói với ông McCain lúc đó: “Thật tình, tôi không biết ngài có muốn có nó hay không? Nếu ngài không thích thì ngài có thể không công bố cho bất kỳ ai được biết. Còn ngài thích, thì tùy ngài”.

Đáp lại, ông McCain chỉ vào tấm ảnh và than phiền rằng ông là “thiếu tá hải quân chứ không phải là thiếu tá không quân. Tôi thuộc lực lượng không quân của hải quân. Các ngài đã ghi vào tấm bia này không đúng”.

Hành động của ông bí thư Hà Nội đã thu hút khá nhiều bình luận trên các diễn đàn mạng, trong đó một số ý kiến chê trách ông ‘thiếu nhạy cảm’.

Tuy nhiên sau đó, ông John McCain vẫn tình nguyện dẫn đoàn của ông Phạm Quang Nghị đi tham quan trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ.

@bbc

Lao Động Việt công khai ra tuyên cáo tại Việt Nam


Cùng với việc ra tù trước thời hạn của Đỗ Thị Minh Hạnh, buổi họp mặt của các tổ chức xã hội dân sự độc lập hôm 5/8/2014 đã chứng kiến sự công khai hóa các hoạt động của Phong trào Lao Động Việt tại Việt Nam sau 6 năm hoạt động bí mật.Phong trào Lao Động Việt được thành lập ngày 29/10/2008 tại Việt Nam. Sau khi 3 sáng lập viên là Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương bị chế độ cộng sản bỏ tù, PT Lao Động Việt đã buộc phải lui vào hoạt động bí mật để tiếp tục các công việc hỗ trợ công nhân và bảo toàn lực lượng.

Tại bàn tròn xã hội dân sự do Mạng Lưới Blogger Việt Nam tổ chức vào hôm 5/8/2014 tại Sài Gòn, lần đầu tiên sau 6 năm thành lập, đại diện PT Lao Động Việt là cô Đỗ Thị Minh Hạnh đã chính thức công khai ra tuyên cáo khẳng định tiếp tục các hoạt động xây dựng, phát triển Nghiệp đoàn Độc lập tại Việt Nam; đòi trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương và tất cả các tù nhân lương tâm khác.

Phong Trào Lao Động Việt là thành viên của Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do. Ngày 17/1/2014, một đại hội được tổ chức tại Thái Lan đã công khai tuyên bố thành lập Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, gọi tắt là Lao Động Việt. Đây là một liên minh với sự tham gia của 4 tổ chức, gồm: Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, Phong Trào Lao Động Việt và Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam.

Dưới đây là toàn văn bản tuyên cáo của Phong trào Lao Động Việt do Đỗ Thị Minh Hạnh đọc hôm 5/8/2014 tại Sài Gòn:

TUYÊN CÁO CỦA PHONG TRÀO LAO ĐỘNG VIỆTTại Việt Nam, lương bổng, quyền lợi và điều kiện làm việc của công nhân không được đáp ứng đúng mức. Tình trạng bóc lột, ức hiếp, xúc phạm nhân phẩm, tai nạn nghề nghiệp, môi trường làm việc tồi tệ, tai nạn và ngộ độc xảy ra thường xuyên và kéo dài nhiều năm trên phạm vi cả nước.

Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam trên danh nghĩa là tổ chức đại diện cho quyền lợi của công nhân. Trong thực tế, cán bộ công đoàn được giới chủ trả lương và tổ chức này đã kiềm tỏa, giám sát mọi sinh hoạt của công nhân, hoạt động nhắm vào mục tiêu bảo vệ quyền lợi của giới chủ nhân.

Từ năm 1995 đến nay trên đã có trên 5 ngàn cuộc đình công, nhiều cuộc đình công có trên 20 ngàn công nhân. Tuy nhiên, mọi cuộc đình công đều bị nhà nước xem là bất hợp pháp và sử dụng lực lượng an ninh để can thiệp, đàn áp và dập tắt. Tổng liên đoàn Lao Động Việt Nam hoàn toàn đứng về phía chủ nhân, nhà nước và lực lượng an ninh trong hơn 5 ngàn cuộc đình công này.

Từ năm 2006 đến nay, đã có những nỗ lực tranh đấu bênh vực và bảo vệ quyền lợi của công nhân và người lao động Việt Nam. Một trong những nỗ lực đó là sự ra đời của Phong trào Lao Động Việt vào ngày 29 tháng 10 năm 2008.

Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam đã sử dụng Điều 79, 89 Bộ Luật hình sự để bắt giam, xét xử và bỏ tù những người vận động thành lập và phát triển “Nghiệp Đoàn Độc Lập”. Vào tháng 10 năm 2010, ba thành viên sáng lập Phong Trào Lao Động Việt là Nguyễn Hoàng Quốc Hùng đã bị kết án 9 năm tù, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương mỗi người 7 năm tù vì đã hướng dẫn và giúp đỡ cuộc đình công của hơn 10 ngàn công nhân nhà máy giày Mỹ Phong đòi quyền lợi khi bị giới chủ không trả lương nhiều tháng.

Cuộc tranh đấu không ngừng nghỉ đòi trả tự do cho ba nhà hoạt động nghiệp đoàn này bởi các tổ chức người Việt trong và ngoài nước, các tổ chức nhân đạo quốc tế, chính phủ các nước dân chủ, các cơ quan truyền thông và nhiều cá nhân đã tạo sức ép đối với nhà nước Việt Nam, buộc họ phải trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh.

Việc trả tự do trước thời hạn và vô điều kiện cho Đỗ Thị Minh Hạnh vào ngày 26 tháng 6 năm 2014 – 2 năm 8 tháng trước thời hạn – chứng tỏ nhà nước Việt Nam đã công nhận Đỗ Thị Minh Hạnh vô tội, bản án tù dành cho Đỗ Thị Minh Hạnh là phi lý, phi pháp. Điều này phải được áp dụng với Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương là hai người có cùng hoạt động và bị kết án giống như Đỗ Thị Minh Hạnh.

Từ nhu cầu thực tế của công nhân Việt Nam và quyền được tự do hoạt động độc lập trong lãnh vực công đoàn, Phong trào Lao Động Việt với sự đồng tình hỗ trợ của các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập tại Việt Nam tuyên bố:

– Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển Nghiệp Đoàn Độc Lập tại nhằm tranh đấu cho quyền lợi của công nhân và người lao động tại Việt Nam;

– Cùng nhau tranh đấu và kêu gọi sự hỗ trợ của chính phủ các quốc gia đối tác với Việt Nam, các tổ chức công đoàn thế giới, các tổ chức nhân quyền quốc tế yêu cầu nhà nước Việt Nam trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương như đã trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh.

Việt Nam, ngày 5 Tháng 8 Năm 2014

Lao Động Việt