Tuấn Khanh – Di chúc Bắc Kỳ tự do

25/07/2014 Để lại bình luận

60 năm nhìn lại

Nhạc sĩ Tuấn Khanh
Cho C. và những người bạn đất Bắc của tôiCâu chuyện kỷ niệm 60 năm về hành trình đến miền Nam của hơn một triệu người trôi qua lặng lẽ. 20 tháng 7, 1954 trở thành lịch sử thế giới, nhưng chưa bao giờ đủ với những câu chuyện kể về số phận và suy nghĩ của riêng người Việt. Tôi chờ đọc một áng văn nào đó, nói về suy nghĩ của những người miền Nam khi nhìn thấy dòng người Bắc Kỳ này, khi họ đến đồng bằng, chảy về thành phố, nhưng không thấy. Tràn ngập những bài viết chỉ là nỗi nhớ tha hương, là ký ức và lòng kiêu hãnh của những người tìm tự do từ phía Bắc. Vì vậy, tôi muốn ghi ra chút ít ở đây, về cái nhìn của một người miền Nam, về cha mẹ, ông bà của bạn bè Bắc Kỳ, dù họ còn hay đã mất.

Hai tiếng “Bắc Kỳ” xuất hiện trên miệng trẻ con miền Nam, và cả của tôi, suốt một thời gian dài, chỉ là sự trêu chọc ban bè cùng lứa, vì một kiểu ngữ âm rất khác mình. “Bắc Kỳ” trong ký ức từng là một tâm cảm bị ám thị, thiếu thiện cảm hơn cả khi so sánh với “Ba Tàu”. Chỉ khi tạm đủ chữ trong đầu, biết thêm về đất nước này, hai chữ “Bắc Kỳ” trong tôi mới thật sự thay đổi. Có lẽ cũng giống như tôi, nhiều người miền Nam hời hợt kỳ thị đã tự làm cho mình bớt xấu hổ bằng cách lập ra những hạng mục khác như Bắc kỳ 9 nút (54), Bắc kỳ 2 nút (75)… để bày tỏ rõ hơn trong nhìn nhận.

Nhưng không đủ.

Phải mất đến hơn nửa đời người, tôi mới nhận ra rằng không hề có một giai cấp nào trong đồng bào miền Bắc của đất nước mình, mà chỉ có một cuộc sống không được chọn lựa nào đó đã phủ chụp lên từng miền, từng vùng đã ảnh hưởng cùng cực đến họ, tạo ra những điều khó tả nhưng vậy. Ở mọi miền, Nam hay Trung hay Bắc, người ta cũng đều có thể nhìn thấy kẻ vô lại trong giống nòi, nhưng sự khó khăn nhìn nhận luôn thường dành cho phía Bắc, như một ám chỉ về một vùng đất phải chịu sự khác biệt về chính trị trong nhiều năm, như đã ám toán mọi sinh lực sống bình thường của con người.

Tôi nhận ra điều đó, ở một ngày khi thấy chung quanh mình có rất nhiều bạn, kể cả thầy cô, là những người Bắc mà tôi tin cậy. Họ đại diện cho những người “Bắc kỳ” mạnh mẽ, vượt qua số phận và hoàn cảnh của mình để không bị đè bẹp, không hèn hạ hoặc chết, như F. Nietzsche đã viết “những gì không giết được chúng ta, sẽ làm chúng ta lớn mạnh hơn” (That which does not kill us makes us stronger).

60 năm của những người Bắc di cư vào Nam, cho tôi và thế hệ của mình được nhìn rõ họ hơn, nhắc tôi phải nói về một bản di chúc lớn, một bản di chúc vĩ đại mà hơn một triệu người từ bến tàu Hà Nội, Hải Phòng… mang đến cho cả đất nước. Bản di chúc cũng được lưu giữ trong mắt, trong lời nói của từng người Việt tha hương khắp thế giới: bản di chúc về tự do.

Cả miền Nam sau 1954 cần phải có một lời cám ơn văn chương Bắc Kỳ, âm nhạc Bắc Kỳ, báo chí Bắc Kỳ… đã góp tay dựng lên một nền văn hóa của cả đệ nhất và đệ nhị cộng hòa của miền Nam. Nền văn hóa ngắn ngủi nhưng đủ trường tồn và mạnh mẽ vượt qua một chướng ngại, tồn tại trong lòng người từ sau 1975 đến nay, ở Việt Nam và trên cả thế giới. Cùng với những người anh em từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, những người Bắc đó đã làm tất cả để bù đắp, để dựng xây… cho thỏa sức, việc họ rời bỏ rất xa quê nhà, thậm chí trơ trọi, chỉ để đổi lại hai chữ tự do.

Rất nhiều năm sau đó, con cháu của những người bắc 54 cũng lớn lên ở miền Nam hay vượt đại dương đến nơi nào đó, không ít người trong họ vẫn âm thầm mang theo một bản di chúc có thể sống mãi đến nhiều thế hệ sau về tự do, và chọn lựa vì tự do. Trong một lần ở Mỹ, tôi nghe phát thanh viên của một đài radio người Việt bình luận về một nỗi nhớ quê nhà Hà Nội. Nhớ con đường quanh Hồ Gươm, nhớ con hẻm có bán canh bún nhỏ… Giọng Bắc của anh ta trầm buồn như mới ngày hôm qua còn nhìn thấy những thứ đó, trong khi tôi biết rõ anh chưa về Việt Nam một ngày nào kể từ sau 1975. Sau lần phát thanh đó, gặp anh, tôi trêu là sao anh nói cứ như là cứ vừa ở Việt Nam về. Đột nhiên giọng anh trầm lại “Phải cố gắng nhớ dù chỉ là tưởng tượng lại. Phải nhớ như nhớ lời của ông bà mình xua mình xuống tàu, trối dặn mình phải sống với tự do”. Tim tôi như thoáng ngừng đập trong tíc tắc. Dòng người mờ ảo trong những cuốn phim tài liệu trắng đen về số phận Việt Nam chia cắt ập về. Tôi cũng nhận ra rằng bản di chúc tự do đó, không phải những người Bắc Kỳ chia cho nhau, mà chia lại cho tôi, cho bạn, cho cả dân tộc này. Từng người chúng ta được nhận. Chọn lựa mình hôm nay khốn nạn hay tử tế, là do mình đã không chịu nhìn thấy di sản của cha ông gửi lại qua bản di chúc không thành văn này.

Tôi nhìn thấy người bạn trẻ của tôi, con một người Bắc di cư, nay sống ở Biên Hòa, đưa một tấm ảnh kỷ niệm 60 năm người Bắc xuống tàu vào Nam. Khi bên ngoài người ta nói về những điều lớn lao như hiệp định Genève và các chính quyền, thì cũng có một dòng người không nhỏ đưa lại những hình ảnh thuộc về con người. Có những tấm ảnh khiến mình phải lặng đi khi thấy cụ già bước gấp vào Nam, hành lý trên tay quý nhất chỉ là tấm hình Đức Mẹ. Người bạn trẻ của tôi đưa lên tấm ảnh người ta chen chúc chia tay nhau ở một bến tàu. Khó mà biết được ông bà hay cha mẹ của anh đã có mặt ở đó hay không, trong những chấm li ti như cát bụi. Bản thân người bạn trẻ đó thì giờ cũng là phần li ti trong hàng triệu người Bắc 54 đã lớn lên, đã thành đạt ở miền Nam này hôm nay.

Và tôi nhận ra rằng, bản di chúc tự do đó cũng vẫn đang âm thầm trong anh, như bao phần li ti đang trỗi lên, trên đất nước này.

Ngắm làng nhà sàn trăm tuổi giữa đồng bằng Hà Nội

– Ở hai huyện Thạch Thất, Quốc Oai (Hà Nội), nhà sàn được đại gia mua về chơi trong trang trại nghỉ dưỡng. Nhưng những nếp nhà này được các đại gia tô điểm thêm, tạo nên một diện mạo khác hẳn với nguyên bản. 

lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Nếp nhà sàn này được gia chủ bê nguyên từ trên bản Mai Châu – Hòa Bình về đất Thạch Thất – Hà Nội.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Gia chủ muốn giữ nguyên màu sắc hoang sơ theo thời gian của ngôi nhà từ khi mang về để được cảm nhận đúng với vẻ cổ kính, mộc mạc.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Được mua từ Sơn La về dựng tại đất Phú Cát – Quốc Oai, ngôi nhà sàn này được tôn tạo lại, bóng bẩy hơn so vớn nguyên bản để phù hợp với lối sống hiện đại ở Hà Nội.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Hàng trăm nếp nhà sàn lấp ló sau những hàng cây, đó là điểm đặc trưng của vùng đồng quê Phú Cát, Hòa Thạch (Quốc Oai – Hà Nội).
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Phong cách đơn sơ của nhà sàn tạo cảm giác gần gũi thiên nhiên
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Nằm trên Km 24 Đại Lộ Thăng Long, ngôi nhà tuy nhỏ nhưng có lối kiến trúc độc đáo hơn so với kiến trúc nhà sàn thông thường, với mái hiên đua ra phía trước nhà.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Ngôi nhà sàn (Thôn 3 – Hòa Thạch – Quốc Oai), mua về với bản mộc, được cách tân theo kiến trúc hiện đại, không còn nhiều bóng dáng của ngôi nhà sàn cổ.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Nhìn tổng thể sân vườn khá đẹp, nhưng khó nhận viết  được bản sắc văn hóa dân tộc ở đâu.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Ngôi nhà sàn (Thôn 4 Hòa Thạch, Quốc Oai), được xây dựng trong khuôn viên rộng, cây cối rậm rạp, cảm nhận ngôi nhà này như được quay lại với núi rừng Tây Bắc.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Ngôi nhà sàn tại Km 6 quốc lộ 21 đi Xuân Mai, bê nguyên từ trên bản về xuôi. Mầu gỗ mộc, mái lợp bằng lá cọ được gia chủ giữ nguyên phong cách dân tộc.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Ngôi nhà sàn dân tộc Mường của ông Nguyên Văn Hinh (Thôn 6  Hòa Thạch, Quốc Oai) mua về từ vùng Tây Bắc năm 2002 với giá 70 triệu đồng. Ông bố trí rất nhiều cây bóng mát xung quanh.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Hồ được đào trước nhà, giữa hồ là một hòn đảo nhân tạo có chiếc cầu bắc qua.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Một nhà hàng kinh doanh đặc sản gà ri, thịt thú rừng nằm trên đường 21 đi Sơn Tây lấy nếp nhà sàn làm không gian kinh doanh rất hiệu quả.
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Ngôi nhà sàn được chủ nhân bày trí rất cầu kỳ từng chi tiết
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Cũng năm trên đường 21 đi Sơn Tây, một nếp nhà sàn được chủ quán làm không gian kinh doanh cà phê
lâu-đài, biệt-thự, Tây-bắc, Phủ-lý, đại-gia, dinh-thự, nhà-sàn, quan-chức
Các chủ nhân nhà sàn còn tạo cảnh quan cho hợp với phong cách

Tuấn Linh / Vef.vn

Trần Trung Đạo – Tượng đài Cộng Sản, một gia tài không ai muốn nhận

Trần Trung Đạo
dostoprimechatelnosti.jpg

Memento Park, Budapest, Hungary

Tổng Bí Thư CS Nguyễn Văn Linh và quốc tổ Hùng Vương, ai đáng kính trọng hơn? “Đó là câu hỏi ngu!” Những người có chút ít nhận thức chính trị và lịch sử, chẳng những không trả lời mà còn mắng ngược kẻ đặt ra câu hỏi.

Làm thế nào Nguyễn Văn Linh, một trong những người đã ký mật ước Thành Đô quy thuộc Trung Cộng lại có thể đem so với vị vua đã sáng lập nên nước Văn Lang của dòng giống Lạc Việt.

Làm thế nào một lãnh đạo của chỉ ba triệu đảng viên CS lại đem ra so sánh vua Hùng, sáng tổ của cả dân tộc, và đừng quên không có vua Hùng đã không có một nước tên gọi Việt Nam trên bản đồ thế giới trong khi nếu không có đảng CSVN lại một điều vô cùng may mắn cho dân tộc Việt Nam.

Sự thật khó tin nhưng chính các lãnh đạo CSVN, có văn bản đàng hoàng, cho rằng TBT CSVN Nguyễn Văn Linh đáng kính trọng hơn Quốc Tổ Hùng Vương.

Theo nội dung Quyết Định số 1063/QĐ-TTg do Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 2 tháng 7 vừa qua phê duyệt kế hoạch tổ chức các ngày lễ trong hai năm 2014 và 2015, ngày sinh của Nguyễn Văn Linh 01/07 được đảng CSVN được xem như ngày lễ “Quy Mô Cấp Quốc Gia” trong khi này Giổ Tổ Hùng Vương Mùng 10 tháng 3 năm Ất Mùi 2015 chỉ là lễ địa phương và bị đưa xuống hàng cấp tỉnh. Theo Quyết Định này, vua Hùng bị xếp ngang hàng với Trần Phú, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Chí Thanh.

Nguyên văn: “Ngày lễ lớn do Ban Tổ chức cấp quốc gia chủ trì tổ chức, giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì xây dựng Đề án trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt gồm: Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (01/7/1915 – 01/7/2015)”.

Nguyên văn: “Bao gồm kỷ niệm ngày sinh của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu; phong trào cách mạng; sự kiện tiêu biểu và ngày truyền thống, ngày thành lập ngành; ngày giải phóng, ngày thành lập tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 1. Kỷ niệm 55 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh (19/5/1959 – 19/5/2014). Bộ Quốc phòng đã tổ chức. 2. Giỗ Tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 năm Ất Mùi – 2015). Giao tỉnh Phú Thọ chủ trì tổ chức…..”

Quyết định của lãnh đạo CSVN phát xuất nhiều lý do như người viết đã trình bày trong các bài viết, nhiều nhất trong bài Bàn về tẩy não, xin tóm tắt lần nữa dưới đây:

Tiếp tục tẩy não các thế hệ Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ. Một khi chính sách tuyên truyền tẩy não không còn tác dụng, đảng CS sẽ tắt thở. Đó là trường hợp của Liên Xô.

Trong lúc “bóng ma chủ nghĩa cộng sản” mà Karl Marx dùng để thách thức quyền lực của các nhà nước tư sản giữa thế kỷ 19 trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản, đã chìm vào quá khứ và đại đa số nhân loại đang hăng say tiến bước trên con đường dân chủ hóa. Việt Nam thì chưa. Tại Việt Nam, hàng triệu học sinh, sinh viên mỗi ngày vẫn phải học thuộc một cách từ chương những khái niệm, những định nghĩa sai lầm và lỗi thời. Tại Việt Nam, bịnh sùng bái cá nhân, tôn thờ lãnh tụ vẫn còn đang chế ngự trong hầu hết các lãnh vực của đời sống văn hóa và tinh thần đất nước. Không một giáo án, giáo trình, diễn văn, tham luận, tuyên ngôn, tuyên cáo nào mà không trích dẫn vài câu nói của các lãnh tụ CS. Sự nô lệ tri thức như là một loại vi trùng sinh sôi và lan rộng trong từng con người, qua nhiều thế hệ, xói mòn và tàn phá tính khai phóng, làm thui chột tính sáng tạo trong con người.

Đồng nghĩa lịch sử đảng CS và lịch sử dân tộc. Lãnh đạo đảng CSVN đang cố gắng tuyệt vọng để vực dậy những xác chết, những tên tuổi đang bị lãnh quên,vùi lấp trong làn sóng văn minh dân chủ thời đại và đồng nghĩa họ với các anh hùng dân tộc thật sự khác.

Tuy nhiên, những lãnh đạo CS đã chết, từ chết trẻ như Lý Tự Trọng, Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Phú, chết già như Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, chết trong chiến tranh như Nguyễn Chí Thanh v.v.. chỉ là đảng viên CS, không có liên hệ một chút gì đến lịch sử Việt Nam.

Có người có thể sẽ phản biện rằng, họ là người CS nhưng đồng thời là người yêu nước. Không. Những người kể trên là đảng viên CS, đã sống và chết như những người CS. Mục tiêu CS hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Bằng chứng rõ ràng. Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Tự Trọng và nhiều đảng viên CS khác khi bước lên máy chém đều hô lớn “Đảng cộng sản Đông Dương muôn năm”, không ai trong số họ hô “Việt Nam vạn tuế” hay “Việt Nam muôn năm” như các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã hô tại Yên Bái sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 1930.

Một người sắp chết thường nghĩ về cội nguồn. Đó là cha mẹ, quê hương, dân tộc, tổ quốc. Người CS chỉ biết nghĩ về đảng vì đảng là cội nguồn của họ.

Như người viết đã phân tích trước đây, đó cũng là điểm khác biệt chính giữa các đảng cách mạng thật sự chiến đấu vì tự do, độc lập của dân tộc và đảng CSVN. Với những người yêu nước chân chính, đảng cách mạng chỉ là chiếc ghe để đưa dân tộc Việt Nam qua bờ tự do độc lập trong khi với Đảng Cộng sản chiếc ghe lại chính là dân tộc.

Các nước cựu CS Đông Âu và thế giới xử trí sao với những “Nguyễn Lương Bằng”, “Hoàng Quốc Việt”, “Nguyễn Chí Thanh”, “Nguyễn Thị Minh Khai” … của họ?

Ngày lễ kỷ niệm những người này tại các nươc cựu CS rất dễ giải quyết. Tên tuổi họ tức khắc bị gạch ra khỏi lịch và nhanh chóng rơi vào quên lãng. Nhân dân các nước Cộng Hòa non trẻ quá bận tâm lao vào cuộc chạy đua với nhân loại để hiện đại hóa đất nước, chẳng còn ai có thì giờ nghĩ đến chuyện xưa, mới đó nhưng chừng già hơn trái đất.

Tuy nhiên, việc phá hủy các tượng đài là cả một vấn đề vì phải tốn nhiều công sức và tranh luận.

Các nhà sử học Đông Âu gọi tượng đài các “anh hùng CS” là gia tài không ai muốn nhận (unwanted heritage) hay như hai tác giả W. Logan và K Reeves gọi là gia tài nan giải trong tác phẩm Những nơi đau nhức và nhục nhã, đương đầu với một “gia tài nan giải” (Places of pain and shame: dealing with “difficult heritage”).

Chẳng hạn việc phá hủy bức tượng khổng lồ của Enver Hoxha (Lê Duẩn của đảng CS Albany) đã gây nhiều tranh cải. Một số sử gia cho rằng nên giữ tượng Enver Hoxha để các thế hệ sau khi học về một chế độ độc tài tàn bạo sẽ đến ngay đó để xem mặt mày của y ra sao. Nhiều nơi vẫn còn giữ lại một số tượng đài trong ý nghĩa đó. Một số tượng đài khác bị bỏ hoang. Số phận của chúng giống như những lô cốt thời thực dân còn lại. Quốc kỳ cũng vậy, tất cả quốc gia cựu CS không dùng lá cờ dưới chế độ CS trước đây bị gọi là “cờ tổ quốc”, trong trường hợp Việt Nam là cờ đỏ sao vàng, làm quốc kỳ cho kỷ nguyên Cộng Hòa mới của đất nước họ.

Riêng chính phủ Hungary có một sáng kiến hay. Họ muốn nhắc nhở các thế hệ mai sau một quá khứ hãi hùng, đau thương của đất nước, một bài học mà các thế hệ trẻ phải học để tránh, nên thay vì phá hủy, đã tập trung các “Bác Hồ”, “Lý Tự Trọng”, “Nguyễn Thị Minh Khai”, “Lê Hồng Phong”, “Phan Đăng Lưu” v.v. của nước họ vào một công viên gọi là Memento Park, địa chỉ 1223 Budapest Balatoni road, Szabadkai street corner, Hungary. (www.mementopark.hu).

Công viên này là trung tâm du lịch nổi tiếng ở Budapest. Phải mua vé mới được vào xem mặt các “anh hùng”. Bộ trưởng Giáo Dục Hungary Zoltán Pokorni phát biểu “Tôi nghiên cứu các kế hoạch của đề án Memento Park với một quan tâm rất lớn. Tôi thấy đây là một kế hoạch đầy hứa hẹn để giữ ký ức lịch sử còn sống và tăng cường ý thức của công dân về trách nhiệm và cam kết để giữ gìn nền dân chủ… Công viên sẽ được sinh viên học sinh, những em không có kinh nghiệm và ký ức riêng tư, thăm viếng thường xuyên, nhờ đó có cái nhìn sâu xa và ấn tượng của một thời đại được biểu hiện trong công viên”.

Việt Nam rồi cũng thế. Một ngày những thế hệ trẻ Việt Nam sẽ đến những nơi tương tự không phải để thưởng ngoạn hay thăm viếng nhưng để học về sự chịu đựng vô bờ bến của ông bà họ trên đoạn đường đầy máu và nước mắt mà dân tộc Việt đã phải đi qua.

Trần Trung Đạo

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chuyện Kể Năm 2014

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Nói dại: lỡ mà ngày mai ông Thủ Tướng, ông Chủ Tịch Nước, ông Tổng Bí Thư hay ông Chủ Tịch Quốc Hội… chuyển sang từ trần chắc (chắn) tất cả đều không được mọi người “tiếc thương” đến thế – nếu chưa muốn nói là ngược lại.

Có lần, tôi nghe, ông Vũ Thư Hiên “xúi” một người bạn đồng nghiệp

– Hay là mở một cái quán cà phê lấy tên Già Đô đi, bảo đảm là đông khách.

Người bị xúi, nhà văn Bùi Ngọc Tấn, lắc đầu cùng với một nụ cười hiền:

– Thôi, chả “trêu” chúng nó làm gì cho nó thêm rách việc ra. Mình còn nhiều chuyện cần phải có thời giờ để viết.

Già Đô là một người bạn cùng tù, và cũng là một nhân vật (nguyên mẫu) trong Chuyện Kể Năm Hai Ngàn của Bùi Ngọc Tấn:

Già là một lính thợ Pháp quốc trong đại chiến thế giới thứ hai. Từ Pháp già đã tới Algérie, Maroc (cái lý lịch ấy thật tai vạ cho già). Già đã là thợ đốt lò dưới con tàu Commerce Maritimes thuộc hãng Đầu Ngựa. Hải Phòng – Marseille là hành trình những năm tuổi trẻ của già. Làm được hai năm già thôi việc. Chỉ vì già không chịu được những lời mắng nhiếc của chủ…

Già bỏ tàu lên thành phố Marseille. Vào quán rượu quen. Uống. Uống nhiều. Và không trở về tàu nữa. Lang thang ở Marseille cho đến đồng frăng cuối cùng, già tìm được việc làm trong một xưởng sửa chữa xe có động cơ. Từ xe gắn máy, các loại ô-tô tới xe nâng, cần cẩu. Tại đây già bị động viên vào một đơn vị cơ giới. Già sang Maroc, Algérie, vẫn làm nhiệm vụ sửa xe.

Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc. Già trở về Marseille. Trở về xưởng cũ. Lấy vợ. Cô Jeannette bán hoa quả ở gần bến cảng lớn bổng lên khiến già ngỡ ngàng, xao xuyến. Hai vợ chồng vay vốn mở một tiệm rượu nhỏ. Khách là những người phu pooc-tê, những thuỷ thủ, những người thợ nhan nhản ở thành phố Marseille.

Rồi già biết quê nhà đã được độc lập. Niềm sung sướng lớn lao và nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu biệt xứ bỗng cồn cào trong lòng không chịu nổi. Càng không chịu nổi khi biết tin hiệp nghị Genève đã ký kết. Một nửa đất nước được độc lập. Lại thêm thôi thúc vì chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đất nước là người từng lâu năm ở Pháp, cũng từng là một mạch-lô.

Già về nước. Khi đó bà Jeannette đã sinh cho già một cô con gái xinh đẹp, có nước da trắng của bà, có mái tóc và đôi mắt đen của già Đô. Mặc bà vợ khóc can ngăn, già nhất định về nước. Rồi già sẽ sang đón bà về. Độc lập rồi, xây dựng sẽ rất nhanh. Đất nước sẽ phát triển rất nhanh. Dân tộc ta thông minh, cần cù, chiu khó lại được bao nước giúp đỡ. Đất nước đang cần những bàn tay như già…” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập II. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Nói tóm lại, và nói một cách ví von: Già Đô là một Nguyễn Mạnh Tường hay Trần Đức Thảo của giới công nhân nhưng trung vận (cũng như hậu vận) đen đủi hơn nhiều. Tuy không chết rục trong tù nhưng Già Đô cũng sống không nổi trong lòng Cách Mạng, vẫn theo như lời của Bùi Ngọc Tấn:

“Già đi bới rác. Già lê la ở các cửa hàng mậu dịch, khách sạn. Dồn dịch những bát phở, vét đĩa, nhặt những mẫu bánh mì thừa… Rồi đến một ngày già không đi được nữa. Già thấy mình đang phiêu diêu…

Già chọn cho mình chỗ nằm để phiêu diêu: Một ngôi đình đổ nát và bị bỏ quên… Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một dấu vết thờ phượng… Thực là một chỗ nằm yên tĩnh lý tưởng để phiêu diêu. Chẳng ai quấy rầy già. Phiêu diêu là một cảm giác sung sướng lạ lùng. Chẳng nhớ được một điều gì, chỉ thấy mình đang tan đi và đang bay…

Đó là mùa xuân năm 1975, cũng đang mùa mưa dầm, hắn đã ra tù được hai năm, đã được gặp ông Trần và quân ta ta sắp đánh Buôn Mê Thuột mở đầu công cuộc giải phóng toàn thể miền Nam, thu giang sơn về một mối.” (sđd 224-226).

Gần bốn mươi năm sau (sau khi giang sơn đã thu về một mối) Việt Nam lại xuất hiện những Già Đô mới, cũng rất đậm nét bi hài – theo như tường thuật của biên tập viên Mặc Lâm:

Vào thời khắc gần đón giao thừa năm Giáp Ngọ, công an bao vây nhà bà Bùi Thị Minh Hằng đe dọa chủ nhà không được chứa chấp hai người tù vừa được trả tự do là hai anh em Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Minh Trí.”

Hai hôm sau, ký giả Trương Minh Đức cho biết thêm:

Hơn 20 công an đã ập vào nhà tôi (Trương Minh Đức) tại đường N3 khu phố 04 thị trấn Mỹ Phước 1, huyện Bến Cát Tỉnh Bình Dương kiểm tra hộ khẩu vào lúc 0 giờ 55 phút, rạng sáng ngày mồng 03 tết (02/01/2014) trong lúc kiểm tra có hai anh Huỳnh Anh Tú và Huỳnh anh Trí vừa ghé qua thăm gia đình tôi vào lúc 21 giờ, vì đêm quá tối nên hai anh đã nghĩ lại qua đêm.”

Nhửng mẩu tin trên dễ khiến độc giả của Chuyện Kể Năm 2000 thốt nhớ đến tình cảnh của Già Đô, khi mới ra tù, lúc đang sống chui rúc và lén lút tại căn nhà (20 mét vuông) của người bạn cùng tù Bùi Ngọc Tấn:

Khi hắn chợp được một lúc mà hắn tưởng như đã lâu lắm rồi, có tiếng đập cửa và tiếng gọi to như ra lệnh:

– Mở cửa nhé! Kiểm tra hộ khẩu đây.

Đó là điều hắn vẫn chờ đợi. Và hắn đã chuẩn bị sẵn câu trả lời. Hắn bật điện, mở cửa…

– Ai kia?

Cái nhìn hướng vào lùm chăn ở góc nhà, góc trong cùng cạnh chỗ thằng Hiệp. Cái chăn lùng nhùng cọ quậy và một người ngồi nhỏm dậy. Già Đô râu dài, tóc xoã, dăn deo, sợ sệt, mắt nheo nheo vì chói ánh đèn.

Người ta nhìn vào hắn. Ngọc cũng đã ngồi dậy. Nàng cố chỉnh đốn y phục, vuốt tóc tai cho đỡ bù xù, bước ra:.

Dạ thưa các anh, đây là bạn nhà tôi ạ.

– Có đăng ký tạm trú không?

– Dạ, chưa ạ.

– Bác khách có giấy tờ gì không?

Già Đô hất hẳn chiếc chăn bông ra. Già tìm trong đống bùng nhùng chăn màn, áo, túi, lấy ra một tờ giấy. Đó là tờ lệnh tha… (sđd, trang 219-220).

Bà Bùi Minh Hằng, và ông Trương Minh Đức – rõ ràng – đều không dễ bắt nạt như ông bà Bùi Ngọc Tấn ngày nào. Họ không ngại “ăn thua đủ” với lực lượng công an để bảo vệ hai người bạn tù vừa mới được tha: Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Anh Trí. Tuy nhiên, lòng quả cảm và sự bảo bọc của họ – tiếc thay – đã không giúp được cho người bạn tù của mình toàn mạng.

Vào ngày 6 tháng 7 năm 2014 vừa qua, không ít người bàng hoàng khi đọc được một bản tin ngắn (“Tù Nhân Lương Tâm Huỳnh Anh Trí Đã Qua Đời Sau Một Thời Gian Ngắn Mãn Hạn Tù”) trên diễn đàn Dân Luận:

Nửa năm sau khi được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do sau 14 năm tù giam vì bị khép vào tội khủng bố chống chính quyền nhân dân, tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí đã qua đời vào lúc 13:30 phút ngày hôm nay (05/07/2014) tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (quận 5, Sài Gòn), hưởng dương 43 tuổi.

Anh Huỳnh Anh Trí sinh năm 1972 mới được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do vào ngày 29 tháng 12 năm 2013 đã qua đời vì bị mắc căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS trong thời gian bị tù giam. Truyền hình Đức Mẹ trực thuộc Truyền Thông Chúa Cứu Thế Việt Nam (VRNs) đã làm một phóng sự gồm 4 phần, để vạch trần một tội ác khủng khiếp của chế độ CSVN đối với những người bất đồng chính kiến. Sau cái chết gây xúc động lòng người của Thầy Giáo Đinh Đăng Định cách đây hơn 3 tháng, đây là Tù Nhân Lương Tâm thứ hai chết sau một thời gian ngắn ra tù trong năm 2014 này.

Được biết, hai anh em Tù Nhân Lương Tâm Huỳnh Anh Trí và Huỳnh Anh Tú liên tục bị Công An xách nhiễu, đe dọa sau khi được trả lại tự do, thậm chí chị Bùi Thị Minh Hằng – hiện đang bị nhà cầm quyền Việt Nam vô cớ bắt giam từ nhiều tháng qua – đã phải phản ứng bằng cách để hàng chục can xăng bao quanh nhà sẵn sàng tử thủ, để đáp trả hành động công an dùng xe ủi sập một phần cổng nhà, khi chị Bùi Hằng cưu mang hai anh em Huỳnh Anh Trí và Huỳnh Anh Tú ngày mới ra tù, không chốn nương thân.

Thành kính phân ưu cùng gia đình anh Huỳnh Anh Trí.

Tương tự như Già Đô, anh em Huỳnh Anh Tú, Huỳnh Anh Trí không còn có thân nhân nào còn ở Việt Nam. Gia đình họ đã phiêu tán đâu đó (*) từ lâu. Khác với Già Đô, người tù Huỳnh Minh Trí đã không phải nằm chết dấm dúi trong một “ngôi đình hoàn toàn hoang phế.”

Ông đã trút hơi thở cuối trong vòng tay than ái của bằng hữu và giữa sự tiếc thương của tất cả mọi người. Hình ảnh vô số những lẵng hoa chia buồn trên mạng, cũng như những vòng hoa phúng điếu trong đám tang của ông – xem được trên trang FB Huỳnh Công Thuận – là một hiện tượng rất hiếm hoi, chỉ thấy vào tháng trước trong đám tang của nhà giáo Đinh Đăng Định.

Ảnh chụp từ xa nên tôi chỉ xem đọc được những giòng chữ phân ưu của Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam, Hội Thánh Tin Lành Mennonite, Đồng Bào H’ Mong Phía Bắc. Nói dại: lỡ mà ngày mai ông Thủ Tướng, ông Chủ Tịch Nước, ông Tổng Bí Thư hay ông Chủ Tịch Quốc Hội… chuyển sang từ trần chắc (chắn) tất cả đều không được mọi người “tiếc thương” đến thế – nếu chưa muốn nói là ngược lại.

Chuyện Kể Năm 2000 đã cũ. Những vòng hoa tiễn biệt, cùng với những đoàn người lũ lượt trước linh cửu Huỳnh Minh Trí và Đinh Đăng Định – hy vọng – giúp cho những kẻ hiện đang nắm quyền ở VN hiểu ra được một điều giản dị: đã đến lúc họ phải ra đi, trước khi quá muộn.

Tưởng Năng Tiến

(*) Sau khi bài viết này đã hoàn thành, chúng tôi mới đọc được bản tin ngắn “Tường Thuật Lễ Tang Anh Anphong Huỳnh Anh Trí” trên trang VRNS và được biết thêm đôi diều:

– Từ Thái Lan, ông Huỳnh Kim Sơn – thân phụ của Huỳnh Minh Trí – đã đến kịp để nhìn mặt con lần cuối, sau hơn ba mươi năm xa cách.

– Ngoài những hội đoàn kể trên, trong tang lễ còn có sự hiện diện của thành viên Hội Nhà báo Độc Lập VN, Truyền Thông Dòng Chúa Cứu Thế, Văn phòng Công Lý và Hòa Bình DCCT, Nhóm No U Sài Gòn, Phật giáo Hòa Hỏa, bà con Dân Oan, Khối 8406, Con Đường VN…

Từ trái sang: Thân phụ anh Trí (ngồi), anh Tú, người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, Thượng tọa Thích Thiên Minh, vợ chồng anh Nguyễn Bắc Truyển tham dự thánh lễ tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn. Nguồn ảnh và chú thích VRNS