Sơn La liên tục động đất, đại thảm họa lơ lửng bên trên Hà Nội

Ba  trận động đất liên tiếp xảy ra trong đêm 19 Tháng Bảy ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La, khiến người ta nhớ đến cảnh báo về đại thảm họa cho Hà Nội cách nay khoảng 15 năm.

Vị trí tâm chấm động đất ở huyện Mường La, Sơn La, nơi có đập thủy điện lớn nhất Đông Nam Á. (Hình: Viện Vật Lý Địa Cầu)

Trận động đất đầu tiên ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La xảy ra vào lúc 19 giờ 14 phút 57 giây tối 19 Tháng Bảy, với cường độ 4.3 độ richter. Trận động đất thứ hai xảy ra vào lúc 20 giờ 23 phút 46 giây, với cường độ 3.2 độ richter. Đến  21 giờ 42 phút 16 giây lại cóthêm một trận trận động đất nữa với cường độ 3.5 độ richter.

Trò chuyện với tờ Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Hồng Phương – Phó Giám đốc Trung tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng thần của Viện Vật lý địa cầu Việt Nam xác nhận, trận động đất đầu tiên gây rung động cấp ba đến khu vực nội thành Hà Nội và cả ba trận động đất đều xảy ra trong đới đứt gãy Mường La – Bắc Yên đang hoạt động.

Từ năm 1999, sau khi Tập đoàn Điện lực Việt Nam có dự định xây dựng thủy điện Sơn La, giới khoa học trong và ngoài nước đã liên tục cảnh báo về “đại thảm họa” do dự định này tạo ra, tác động nghiêm trọng tới kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như tương lai Việt Nam và kêu gọi chế độ Hà Nội gạt bỏ dự định đó.

Thủy điện Sơn La là một phần trong hệ thống thủy điện bậc thang trên sông Ðà. Trước nữa, chính quyền Việt Nam từng cho chặn đoạn giữa của sông Ðà làm thủy điện Hòa Bình. Với dự án thủy điện Sơn La, sông Ðà sẽ tiếp tục bị chặn ở đoạn phía trên thủy điện Hòa Bình để lập nhà máy thủy điện Sơn La.

Về quy mô, thủy điện Sơn La được xem là nhà máy thủy điện lớn nhất Ðông Nam Á (hồ chứa nước có diện tích 224 km2, dung tích 9.26 tỉ khối nước, công suất 2400 MW, sản lượng điện 9.429 tỉ kWh/năm, tổng vốn đầu tư khoảng 2.5 tỉ Mỹ kim). Ðể thực hiện công trình khổng lồ đó, có khoảng 20,000 gia đình, với trên 100,000 dân, cư trú tại ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Ðiện Biên (đa số là người thiểu số) bị buộc phải chuyển đi nơi khác.

Dù được quảng bá rằng sẽ tăng thêm nguồn điện, giảm lũ trong mùa mưa, cấp thêm nước cho đồng bằng sông Hồng trong mùa khô nhưng dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La tạo ra nhiều âu lo hơn là sự vui mừng

Bản vẽ phối cảnh đập thuỷ điện Sơn La. Công trình được dự báo là một “đại thảm hoạ” đang lơ lửng trên đầu dân chúng đồng bằng sông Hồng.(Hình: VNCold)

Theo giới chuyên viên, hồ chứa nước của thủy điện Sơn La sẽ tạo ra vô số tác động bất lợi đến môi trường (thay đổi về vi khí hậu, hệ động vật, hệ thực vật, đất bị trượt, vận tải chất rắn, suy giảm chất lượng nước, cuộc sống, sinh hoạt của hàng trăm ngàn người sẽ bị xáo trộn hoàn toàn).

Họ còn cảnh báo rằng, vì những trung tâm đông dân cư ở vùng châu thổ sông Hồng đều nằm dưới mực nước lũ, do rừng đã mất, biến đổi khí hậu khiến mưa bão càng ngày càng nhiều và càng lớn, Sơn La lại là vùng có động đất thường xuyên và mạnh nhất Việt Nam (trên khu vực có bán kính 200 cây số quanh công trình thủy điện Sơn La đã xảy ra 1,089 vụ động đất), nên đập thủy điện Sơn La rất dễ vỡ.

Nếu đập thủy điện Sơn La vỡ, đập thủy điện Hòa Bình cũng sẽ vỡ theo và như thế hồ chứa nước của thủy điện Sơn La thực sự là một “đại thảm họa”, treo lơ lửng trên đầu châu thổ sông Hồng. Trên báo chí Việt Nam, người ta đã từng công bố những tính toán, theo đó: “Nếu đập Sơn La vỡ, sau 30 phút, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ sẽ bị chìm sâu dưới mực nước từ 4m đến… 60m và sẽ có khoảng 15 triệu người thiệt mạng”.

Tuy nhiên chế độ Hà Nội đã phớt lờ tất cả. Dự án xây dựng thủy điện Sơn La vẫn được tiến hành.

Hồi tháng 9 năm 2008, người ta đã phát hiện vết nứt trên thân đập chính, đến tháng 2 năm 2009, người ta lại phát giác thêm một số vết nứt nữa chạy dọc các đập không tràn ở cả hai bên phải và trái (trong thủy điện, có hai loại đập quan trọng: đập chính để giữ nước, đập không tràn để dẫn nước vào hầm ngầm giúp chạy máy phát điện, các đập không tràn được ví như “trái tim của nhà máy phát điện”) của thủy điện Sơn La. Một số vết nứt trên đập không tràn dài gần 100m, sâu 6m.

Lúc đó, Hội đồng nghiệm thu các công trình xây dựng có tầm vóc quốc gia cho biết, đã thành lập một tổ chuyên gia để thẩm tra báo cáo của chủ đầu tư (Tập Ðoàn Ðiện Lực Việt Nam) về việc xử lý những vết nứt tại đập chính thủy điện Sơn La nhưng kết quả thế nào thì từ đó đến nay vẫn chưa được công bố.

@NguoiViet

 

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

Trọng Nghĩa

imagesSau hơn hai tháng cho giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngoài Biển Đông, khuấy động quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội, ngày 15/07/2014 vừa qua, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam. Quyết định – được Bắc Kinh loan báo một hôm sau đó – đã làm cho tình hình bớt căng thẳng – nhưng cũng làm dấy lên nhiều câu hỏi về dụng tâm thực sự của Trung Quốc.

Giới chuyên gia đều ghi nhận là việc Bắc Kinh « cho rút » giàn khoan diễn ra ít lâu sau khi Thượng viện Mỹ, trong một cử chỉ hiếm thấy, đã bỏ phiếu nhất trí thông qua một Nghị quyết lên án hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và yêu cầu Bắc Kinh trả lại hiện trạng cho khu vực, và sau một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Quyết định rút sớm hơn thời hạn dự trù ban đầu cũng được đưa ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Khối ASEAN và các đối tác tại Miến Điện, đặc biệt là hội nghị thường niên của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), trong bối cảnh có tin là Mỹ sẽ nêu bật các hành động của Trung Quốc.

Còn đối với Việt Nam, việc Trung Quốc hạ nhiệt căng thẳng cũng diễn ra và lúc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị hội nghi bàn về Biển Đông và cân nhắc khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế.

Trong những ngày qua, đã có rất nhiều chuyên gia phân tích về động thái hạ nhiệt của Trung Quốc ngoài Biển Đông. Hôm nay, RFI xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông tại trường Đại Học Maine, Hoa Kỳ.

Đối với Giáo sư Long, tham vọng khống chế toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi, và Việt Nam vẫn là đối tượng cần tấn công để thực hiện ý đồ đó. Theo Giáo sư Long, quyết định rút giàn khoan còn nằm trong một âm mưu lôi kéo Việt Nam vào con dường đàm phán song phương để giải quyết căng thẳng do chính Bắc Kinh tạo ra, đồng thời thúc giục Việt Nam từ bỏ ý định kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về vấn đề Biển Đông.

Đó là những cái bẫy mà Việt Nam không nên rơi vào nếu muốn bảo vệ lợi ích dân tộc.

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn Giáo sư Ngô Vĩnh Long.

Giàn khoan đến và đi đều nhằm mục tiêu chính trị : Uy hiếp Việt Nam

“Ngay từ đầu khi Trung Quốc cắm giàn khoan cách đảo Tri Tôn khoảng 18 dặm, và nói rằng nó hoạt động trong vùng biển không có tranh chấp của quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc, lý do chính là lý do chính trị : Uy hiếp Việt Nam, đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cũng như để dò xét phản ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Nay, động thái dịch chuyển giàn khoan của Trung Quốc cũng là để thử xem phản ứng của Việt Nam và của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, để Trung Quốc quyết định các bước tiếp theo.

Nếu Trung Quốc thực sự rút giàn khoan về đảo Hải Nam, thì đó cũng là để chứng minh rằng Trung Quốc đã hay là đang hạ nhiệt, do đó Việt Nam không nên kiện Trung Quốc nữa mà nên đàm phán tay đôi với Trung Quốc.

Hạ nhiệt để “dụ dỗ” Việt Nam đàm phán tay đôi và không kiện Trung Quốc

Tôi nghĩ rằng đây là việc dẫn dụ, dụ dỗ Việt Nam, và tôi cũng hơi lo là vì ngày 16/07, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Việt Nam cho biết là Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để giải quyết các vấn đề tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông với Trung Quốc. Lẽ dĩ nhiên là trên cơ sở luật pháp quốc tế, và cũng yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan HD-981 quay trở lại.

Nhưng mà nếu Trung Quốc không đưa HD-981 mà đưa 4, 5 cái giàn khoan nhỏ trở lại thì lúc đó Việt Nam làm gì ? Cho nên tôi nghĩ đây là vấn đề Trung Quốc muốn thử xem Việt Nam phản ứng như thế nào.

Nếu Việt Nam đàm phán song phương với Trung Quốc, việc này sẽ giúp cho Trung Quốc biện hộ rằng tranh chấp ở Biển Đông chỉ liên quan đến hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà thôi, và không một nước nào khác được can dự vào.

Trung Quốc đã nhiều lần nói công khai với Mỹ là không được xía vào công việc nội bộ của các nước trong khu vực. Cho nên, nếu Việt Nam cho thế giới biết, hay là thế giới nghĩ lầm Việt Nam muốn thông qua đàm phán song phương để giải quyết vấn đề, thì việc đó sẽ làm hỏng cẳng Mỹ và đồng minh, đặc biệt trong vấn đề họ muốn đưa căng thẳng ở Biển Đông ra Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN, tức là ARF, vào tháng tới ở Miến Điện.

Mưu đồ của Trung Quốc : Làm Mỹ hụt chân

Ngoài việc muốn làm hụt cẳng Mỹ tại Diễn đàn ARF vào tháng tới, thì Trung Quốc cũng muốn làm cho Việt Nam mất đi sự ủng hộ của các nước khác ở trong khu vực nếu đi đàm phán song phương với Trung Quốc, đặc biệt là chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Philippines.

Ngoài ra, vừa qua, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí nói rằng Trung Quốc không nên tiếp tục gây hấn và hy vọng rằng Trung Quốc đưa mọi việc trở về vị trí cũ, tức là trước ngày 02/05. Thì Trung Quốc di chuyển giàn khoan như để nói với Thượng viện Mỹ rằng « tôi đã hạ nhiệt rồi, thì các anh không nên tiếp tục làm áp lực trên tôi »….

Nếu Thượng viện Mỹ thấy rằng không cần phải làm áp lực trên Trung Quốc nữa, thì có thể là chính quyền Obama cũng không làm áp lực trên Trung Quốc nữa. Mà áp lực của Mỹ là quan trọng nhất, Mỹ mà nới tay thì Trung Quốc thấy rằng họ có cớ lấn tới thêm, không những đối với Việt Nam, mà cả đối với Mỹ.

Bài học cho Việt Nam : Trung Quốc mềm nắm rắn buông

Bài học đầu tiên là Trung Quốc có thái độ mềm nắn rắn buông. Trung Quốc hiện tỏ thái độ « buông » trước hết là vì phản ứng của người dân Việt Nam. Tôi nghĩ là Trung Quốc biết phản ứng của các lãnh đạo Việt Nam như thế nào, nhưng họ không ngờ rằng phản ứng của người dân Việt Nam mạnh như thế.

Thành ra lúc này Trung Quốc hạ nhiệt chút xíu để cho giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là thành phần thiên về Trung Quốc – đang trong thế yếu – có tiếng nói mạnh hơn.

Ngoài ra, Việt Nam sắp có Hội nghị Trung ương để bàn riêng về tình hình Biển Đông và về việc có nên kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế hay không. Trung Quốc hạ nhiệt để chính quyền Việt Nam và Hội nghị Trung ương thôi không bàn đến chuyện kiện Trung Quốc nữa, và như vậy, Trung Quốc có thể tiếp tục ép Việt Nam.

Bài học là Việt Nam mà yên lặng hơn, thì Trung Quốc sẽ đẩy tới hơn. Và nếu chính phủ Mỹ, Quốc hội Mỹ và các nước khác Nhật, Úc cũng thấy là vấn đề đã tạm yên rồi thì họ có thể cứ để cho yên và Trung Quốc trước sau gì cũng sẽ quay trở lại, và lần sau sẽ làm mạnh hơn một chút.

Xu hướng thân Bắc Kinh trong giới lãnh đạo Việt Nam

Việc cắm giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam là một chính sách uy hiếp giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ Chính trị chia thành ba nhóm, số đông thân Trung Quốc, số « trung lập » tức là không biết nghiêng về ai, và số ít hơn thì muốn kiện Trung Quốc. Cho nên khi cắm giàn khoan, Trung Quốc muốn thử xem phản ứng của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào…

Phản ứng của Việt Nam cho thấy là Bộ Chính trị chưa có một chính sách đàng hoàng để kiện Trung Quốc.

Đó là trong lúc tình hình đang căng thẳng. Còn bây giờ Trung Quốc hạ nhiệt và làm giảm sự căng thẳng đi, thì có thể là Việt Nam sẽ không quyết định kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, chung với Philippines hay là riêng rẽ.

Nguy cơ mất đi hậu thuẫn của người dân Việt Nam và của quốc tế

Nếu như vậy, Chính quyền Việt Nam không những mất đi sự ủng hộ của dân chúng trong nước, mà cũng sẽ mất sự ủng hộ của các nước trong khu vực và của nhân dân trên thế giới. Việc đó sẽ làm suy yếu các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, và Nhà nước Việt Nam nói chung.

Và nếu như vậy thì Trung Quốc thấy là họ đã kéo thêm được vào quỹ đạo của Trung Quốc, và nếu mà mọi người đều nghĩ rằng Việt Nam đã bị Trung Quốc kéo sâu thêm vào trong quỹ đạo của họ thì có thể là họ sẽ từ bỏ Việt Nam và đi đêm với Trung Quốc…

Vấn đề kiện Trung Quốc không phải là vấn đề thắng hay là thua, mà là vấn đề vận động chính trị. Nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc, tức là Việt Nam đã chứng minh cho thế giới là Việt Nam chịu thua Trung Quốc, và nếu như vậy thì những nước khác họ sẽ suy nghĩ lại và có chính sách riêng của họ…

@RFA

60 năm sau cuộc di cư lịch sử 1954

Những hình ảnh cuộc di cư 1954-1955

This slideshow requires JavaScript.

Trùng Dương
Trong lịch sử Việt Nam có hai cuộc di cư vĩ đại, cả hai cùng để lánh nạn cộng sản, vào năm 1954 và 1975. Cuộc di cư 1975, kéo dài từ những ngày tháng 4, 1975 cho tới năm 1988, là năm đóng cửa các trại tị nạn ở Đông Nam Á với sự ra đời của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) sau bao thảm kịch vượt biên vuợt biển với khoảng 500 ngàn người bỏ mạng trên đường đi tìm tự do, theo một thống kê của Liên Hiệp Quốc. Cuộc di cư này đã có nhiều sách vở tài liệu cùng với hình ảnh đầy dẫy trong các thư viện cũng như trên Internet. Riêng cuộc di cư năm 1954-55 có thể nói là chưa có một tài liệu nào đúc kết lại tương đối đầy đủ, cho tới gần đây.Cuốn “Operation Passage to Freedom – The United States Navy in Vietnam, 1954-1955” (Texas Tech University Press, Lubbock, Texas, 2007), tạm dịch là “Chiến Dịch Đường Tới Tự Do – Hải Quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, 1954-1955”, do Ronald B. Frankum, Jr. biên soạn, có thể nói là cuốn sách đầu tiên đã cho ta một cái nhìn khá đầy đủ và chi tiết về cuộc di tản kéo dài 300 ngày, từ ngày 15 tháng 8, 1954, gần ba tháng sau khi ngày ký kết sau khi Hiệp Định Geneva chia cắt Việt Nam thành hai miền Bắc, Nam, tới ngày 15 tháng 5, 1955, ngày chiếc tầu chở dân di cư cuối cùng rời khỏi mỏm Đồ Sơn.

Cuộc di tản này có sự tham dự của 115 chiến hạm và các loại tầu lớn, nhỏ khác của Mỹ, và đã chuyên chở trên 310,000 người trong số 800,786 tổng số người di cư, kể cả dân lẫn quân sự, từ Bắc vào Nam. Số còn lại do các cơ quan của chính phủ Việt, Pháp và Anh đảm trách, bằng phương tiện vừa tầu thủy vừa máy bay, và khoảng trên 40,000 người tự túc bằng các phương tiện riêng. (Table 10.1. Evacuation Totals, May 1955, tr. 205, và Phụ Lục C, tr. 216)

Cuốn sách dầy 250 trang, bìa cứng, gồm 9 chương và một chương kết, và ba phụ lục, đã hẳn được biên soạn như một phần của lịch sử Hải Quân Hoa Kỳ, đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh đóng góp vào các công tác nhân đạo của binh chủng này. Song đây cũng là một tài liệu quý và có lẽ là độc nhất về cuộc di tản vĩ đại, tuy không bi thảm bằng cuộc di tản năm 1975 và những chuyến vượt biên sau đó, cho những nhà viết sử và những người quan tâm tới lịch sử Việt Nam. Bởi vì tập sách không những chỉ đề cập tới việc di tản người di cư, mà còn kể tới cả những nỗ lực định cư khối gần 1 triệu người tại miền Nam nữa, ít ra là trong thời gian 300 ngày di tản, cho tới khi chuyến tầu chót rời vùng Hải Phòng vào ngày 15 tháng 5, 1955 khi bức màn tre buông xuống ở miền Bắc.

Hành trình của những chuyến tầu chở di cư từ Bắc vào Nam, 1954-1955.
(Bản đồ trích từ National Geographic số ra tháng 6-1955

Sử gia Frankum cho biết sở dĩ ông quan tâm tới cuộc di tản 1954-55 này vì trong khi nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam và các diễn biến khởi thủy dẫn tới việc Mỹ tham dự vào Việt Nam, ông nhận thấy biến cố di này thường chỉ được đề cập tới qua loa ở phần chú thích ở cuối trang. Vào đầu năm 1998, ông kể trong bài tựa, trong lúc đang ngồi duyệt lại một số hình ảnh trong bộ sưu tập của Douglas Pike, một nhân viên Bộ Ngoại Giao đã trải qua nhiều năm làm việc ở và sưu tập các dữ kiện về Đông Nam Á, có một tấm hình đã lôi kéo sự chú ý của ông. Đó là bức hình một bà cụ Việt Nam vẻ khốn khó tiều tùy vây quanh bởi một số thủy thử Mỹ. Chú thích đằng sau tấm hình ghi là hình chụp trong chiến dịch được mệnh danh là Passage to Freedom (Đường TớiTự Do). Bức hình, với nét mặt nói lên một đời khổ cực, niềm bàng hoàng từ kinh nghiệm vừa trải qua, và một thoáng hy vọng của người đàn bà đã lưu lại trong ký ức Frankum dai dẳng cả một, hai năm sau đó. Ông bắt đầu một cuộc tìm hiểu về chiến dịch này. “Điều mà tôi đã học hỏi được sau đó khá sốc, vì rằng một số tài liệu quan trọng về cuộc chiến Việt Nam đã chỉ đề cập qua loa tới chiến dịch Đường Tới Tự Do này.”

Vào đầu năm 2000, ông quyết định dùng chiến dịch này làm nền tảng cho dự án nghiên cứu kế đó của ông. Vào một ngày thứ Sáu, ông lục tìm trên Internet và thấy một số Web sites của các hội cựu chiến binh thuộc một số chiến hạm Mỹ và địa chỉ liên lạc, ông gửi e-mail đi để tìm và xin liên lạc với những người đã từng tham dự vào chiến dịch Đường Tới Tự Do. “Những hồi âm tôi nhận được vào sáng thứ Hai khi tôi trở lại làm việc đã châm ngòi cho tiến trình hình thành cuốn sách này,” ông Frankum, tác giả của nhiều tập sách biên khảo về chiến tranh Việt Nam, cho biết.

“Chiến Dịch Đường TớiTự Do là một biến cố [đáng được đề cập tới nhiều] hơn là chỉ bằng một đoạn ngắn trong cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam,” tác giả viết trong phần dẫn nhập. “Đối với phần lớn người Mỹ, Chiến Dịch Đường TớiTự Do, nếu có nghĩ tới chăng, là một ghi chú trong giai đoạn tham dự khởi thủy của một cuộc chiến sẽ nuốt chửng cả nước Mỹ một thập niên sau đó. Tuy nhiên, đối với các chàng trai trẻ hồi ấy, giờ đã ở tuổi 70 và 80, những người đã di tản cả một quốc gia vào năm 1954 và 1955, Chiến Dịch Đường Tới Tự Do là điểm mấu chốt của đời họ. Ngay cả 50 năm sau, đối với những thủy thủ đã phục vụ trên những con tầu của Task Force 90, biến cố này đã là một trong những điểm quyết định của đời họ.”

Cuộc di tản không những đã gây ấn tượng sâu đậm nơi các thủy thủ đã tham dự vào chiến dịch di tản vĩ đại này, nó còn thay đổi cuộc đời của gần 1 triệu người Bắc di cư, bên cạnh cuộc đời của 11 triệu người sinh quán ở miền Nam, sự ra đời của một quốc gia mang tên Việt Nam Cộng Hoà hừng hực một sức sống và tiềm năng phát triển. Với sự bảo lãnh của Hoa Kỳ, VNCH đã lôi kéo được nhiều hứa hẹn tiếp tay kiến thiết và xây dựng từ các nước tự do trên thế giới. Nếu không vì tham vọng thanh toán miền Nam của Hànội và sự hỗ trợ ồ ạt của khối cộng sản thế giới sau đó và một guồng máy tuyên truyền tinh vi, có thể VNCH đã trở thành một thứ Nam Hàn.

Và, nhìn từ khía cạnh văn hóa, ta đã thấy sự hình thành và phát triển rầm rộ, chưa từng có trong lịch sử về mọi khía cạnh, giáo dục, xã hội, và đặc biệt văn học nghệ thuật, mặc dù chỉ trong một giai đọan ngắn có 20 năm, 1954-1975, thời gian chưa đủ cho một cá nhân trưởng thành. Nền văn học ấy đã nẩy nở, phô sắc muôn mầu muôn vẻ là nhờ được sinh ra trong bầu không khí tự do, lại được tiếp sức, nuôi dưỡng bởi nền văn học tiền chiến trước đó cũng từ Bắc di cư vào Nam (vốn đã bị bức tử ở chính nơi chôn nhau cắt rốn của nó), phối hợp với nền tảng văn học sẵn có bấy giờ của miền Nam vốn vẫn được hưởng một không khí tự do cởi mở hơn ở Bắc trước đó, và bởi việc mở tung cửa ngõ đón nhận các trào lưu tư tưởng và triết lý của phương Tây vô cùng phong phú của thập niên 1950 và 1960.

Trở lại cuốn “Operation Passage to Freedom”, Frankum cho rằng Hoa Kỳ đã hành xử trong tinh thần trách nhiệm: sau khi đã giúp di tản khối người khao khát tự do đông đảo này vào miền Nam (mà nếu để một mình hai chính phủ Pháp và Việt Nam chắc chắn đã không mang được cái biển người muốn rời khỏi miền Bắc vào Nam ấy, trong khi Anh quốc cũng chỉ tiếp tay cầm chừng vì coi đó là vấn đề của Pháp). Để giúp họ ổn định chỗ ở, Hoa Kỳ đã không thể quay lưng coi như đã hoàn tất phần sự và đã tiếp tục hỗ trợ giúp miền Nam xây dựng nên một quốc gia mới trên căn bản dân chủ tự do, điều mà ai cũng phải công nhận. Sự tham dự tích cực này của Hoa Kỳ lại chính là điều mà Hànội đã khôn khéo khai thác tuyên truyền cho chiêu bài chiến tranh giải phóng của họ vài năm sau đó, đồng thời khiến cho nhiều người miền Nam cũng chấp nhận chiêu bài ấy một cách cố tình hay vô thức. Tôi vẫn nghĩ, cũng như với chiến dịch Đường Tới Tự Do ít được đề cập tới một cách chi tiết, công lao định cư cả một biển người của chính phủ Ngô Đình Diệm hình như vẫn chưa được nghiên cứu tìm hiểu tường tận. Và tôi cũng rất tò mò muốn biết báo chí Miền Nam lúc ấy đã tường thuật ra sao về cuộc di cư khổng lồ này, cũng như công cuộc định cư vô cùng phức tạp sau đó.

Đọc “Operation Passage to Freedom” tôi có cái thích thú, ngoài một thỏa mãn về phương diện kiến thức, của người được nghe kể những chuyện chưa hề được nghe hay chỉ nghe biết lõm bõm đây đó mỗi nơi một chút, về một biến cố đã thay đổi cả cuộc đời của bao nhiêu triệu con người, mặc dù chính tôi, hồi ấy còn là một cô bé mới 10 tuổi, có mặt trong cái giòng người xuôi Nam ấy. Những chuyện từ nhỏ tới lớn, quan trọng tới tiểu tiết, mà Frankum đã tìm thấy qua những văn thư chính thức, bản tường trình, thư từ trao đổi giữa các nhân vật trong thời gian liên hệ được lưu trữ trong văn khố của Hải Quân và Thư Viện Quốc Hội, và qua những cuộc phỏng vấn với các cựu thủy thủ hiện còn sống và đã có mặt trên hơn 100 chiến hạm tầu bè đủ loại chở dân di cư suốt 300 ngày ngược xuôi hai miền Bắc Nam. Có những tài liệu ghi lại lời kể của các nhân chứng về những ngăn chặn, tuyên truyền (như việc sẽ bị thủy thủ Mỹ ném xuống biển một khi tầu nhỏ neo ra khơi nếu ghi danh di cư, chẳng hạn), phá hoại, kể cả việc đòi nạp tiền mua giấy tờ di chuyển, của Việt Minh, khiến nhiều vạn người đã bị kẹt lại.

Một trong những chi tiết tôi không khỏi bật cười, bên cạnh những cái nhíu mày không tránh khỏi trước những biến cố lịch sử tưởng đã vùi sâu chôn chặt sau cả hơn nửa thế kỷ: Đó là chuyện (mặc dù Pháp đã hứa sẽ cung cấp thông dịch viên, nhưng đã không đáp ứng) thiếu người trên tàu Mỹ biết tiếng Việt cũng như tiếng Pháp, hoặc biết tiếng Pháp mà là thứ tiếng Pháp học ở trung học chẳng ai hiểu; và không có người biết tiếng Anh bên phía dân di cư. Vậy làm sao để nói chuyện, truyền đi thông tin cần thiết nơi tầu bốc người, trong lúc trên tầu cho chuyến hải hành ba ngày vào Nam, và tại nơi đổ người xuống bến? Bên phía Mỹ chợt có người khám phá ra mấy ông linh mục Việt là những người biết tiếng La tinh, một ngôn ngữ đã chết không còn mấy ai dùng; và trên tầu Mỹ tình cờ có mấy ông tuyên úy đạo Thiên Chúa cũng phải biết tiếng La tinh. Một thủy thủ nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn với Frankum là tiếng La tinh do đấy đã có lúc được xử dụng trong chiến dịch di tản và anh ta nghĩ là thật nực cười khi một tử ngữ đã được dựng dậy để làm phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, không phải tầu nào cũng có cái may mắn xa xỉ có được một ông tuyên úy nói được tử ngữ này. Do đấy nói chuyện bằng tay trở thành ngôn ngữ chung.
Cuốn sách, với lời giới thiệu của Tiến sĩ James R. Reckner, chủ bút nhà xuất bản Texas Tech University Press, được trình bầy theo thứ tự thời gian của các diễn biến của các biến cố và sự việc, nên khá dễ đọc, vớí Chương 1 mang tựa là Đường tới Geneva (Road to Geneva); Chương 2 Khủng Hoảng Gia Tăng (The Growing Crisis); Chương 3 Tổ Chức Di Tản (Organizing the Passage); Chương 4 Một Biển Người, Tháng 8, 1954 (A Mass of Humanity, August 1954); Chương 5 Thách Thức Trên Bộ, Tháng 8, 1954 (Challenges by Land); Chương 6 Từ Hà Nội tới Hải Phòng: Vòng Tròn Khép Lại (Hanoi to Haiphong: The Circle Closes); Chương 7 Cuộc Định Cư Một Quốc Gia (Resettling a Nation); Chương 8 Từ Hà Nội Tới Hải Phòng: Một Đất Nước Trong Chuyển Tiếp (Hanoi to Haiphong: A Country in Transition); Chương 9 Chuyển Tiếp và Đổi Thay (Transitions and Change); và phần Kết Luận Bức Màn Tre Buông Xuống (The Bamboo Curtain Falls).

Trong chương kết, Frankum có viết một đoạn khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi: “Chuyến tầu Mỹ cuối cùng, chiếc General Brewster, rời cảng Hải Phòng đúng hạn vào ngày 13 tháng 5 [1955], hướng về Đồ Sơn để bốc lực lượng an ninh và đồ phụ tùng cuối cùng của Pháp, cùng với nhóm khoảng 10 người tị nạn đã bỏ trốn khỏi vùng Việt Minh. Trong đám 10 người này có một người cha và cô con gái đã phải lưu lại Hà Nội vì người mẹ không chịu bỏ miền Bắc di cư. Hai cha con này, những người di cư chính thức cuối cùng theo Hiệp Định Geneva, đành bỏ lại người mẹ ở Hà Nội hơn là phải sống dưới sự đô hộ của Việt Minh. Sự chia cắt gia đình này tượng trưng cho giai đọan 1954 và 1955 khi Đông Dương bị chia thành Bắc và Nam. Phần lớn những người bỏ miền Bắc ra đi vào Nam đã bỏ lại đằng sau vài người thân trong gia đình hoặc mồ mả tổ tiên họ. Đối với những người này đất nước thực sự bị chia cắt và chỉ có thể trở lại nguyên vẹn khi nào Việt Minh bị đánh bại và họ được trở về nơi chôn nhau cắt rốn. Đối với những người này, giấc mơ hồi hương ấy đã không bao giờ trở thành hiện thực, và đối với những người sống sót cuộc chiến tới ngày 30 tháng 4, 1975, kinh nghiệm di cư Đường Tới Tự Do – ở một mức độ tàn khốc và vô tổ chức hơn nhiều — lại đã tái diễn. Những người Việt Nam bỏ miền Bắc ra đi chỉ bị mất nhà. Năm 1975, họ mất cả quê hương.” (tr. 205)

“Operation Passage to Freedom” hiện có bán tại Amazone.com. [TD, 05/2010, 07/2014]

Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955 (Kết)

Nguyễn Văn Lục
Một vài chứng từ của những người đã di cư vào miền Nam

Kiều Chinh, tháng 8, 2004

Kiều Chinh
Nguồn: viettribune.com

“Là con út trong ba anh chị em, tôi được bố thương nhất. Suốt thời niên thiếu, tôi chi biết có bố. Bố tôi quyết định vào Nam. Nhưng đêm trước ngày ra đi, anh tôi bỏ nhà trốn ra khu theo phong trào thanh niên cứu quốc. Anh Lân là con trai duy nhất của bố, năm đó mới 20 tuổi. Sáng hôm sau, chỉ còn hai bố con ra phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Hàng ngàn người già trẻ lớn bé nằm ngồi la liệt dưới nắng cháy, chờ đợi đển được lên máy bay di cư vào Nam. Mãi tới cuối ngày mới tới lượt bố con tôi. Bố đẩy tôi lên máy bay rồi bất ngờ nói: con vào Nam trước, bố ở lại tìm anh Lân rồi sẽ vào sau. Tôi la khóc cố nhào ra với bố, nhưng bị đám đông xô lấn đẩy lui. Cửa máy bay đóng xập xuống. Đó là lần cuối, tôi được nhìn thấy bố. Lần đầu xa bố, lần đầu xa nhà, lần đầu đi máy bay. Tôi ngồi co rúm trên sàn máy bay vận tải nhà binh Pháp, suốt chuyến bay nôn oẹ khóc sướt mướt giữa đám người chen chúc ngột ngạt… Tôi chờ bố từng giờ. Hy vọng mỏng dần…Tôi đếm từng ngày cho tới buổi phát thanh cuối cùng của đài Pháp Á loan tin thời hạn 300 ngày đã hết…Tôi òa khóc. Bức màn tre đã xập xuống, chia đôi đất nước ngăn cách bố con tôi. Năm mươi năm sau cuộc di cư đã qua. Bố tôi đã chết. Anh tôi đã chết. Nhiều người di cư thời năm mươi năm trước đã ra đi vĩnh viễn.Thế hệ tôi cũng sắp ra đi. Xin thắp một nén nhang cho những người quá cố.(Trích 50 năm Bắc Kỳ di cư 1954-2004, trang 82-83)

Nguyễn Duy Chính

Nguyễn Duy Chính
Nguồn: imageshack.us


“Cho đến giờ phút này tôi vẫn không sao hiểu được tại sao gia đình tôi lại di cư vào miền Nam. Mà nào có phải ra đi một cách thoải mái, dễ dàng gì, trải qua chín chết, một sống, ba bốn đợt mới dắt díu nhau xuống Hải Phòng… hôm đó, cha tôi chở hai anh em trên xe đạp từ làng lên Thạch Thất nói dối là đưa chúng tôi sang làng Nủa ăn giỗ. Mẹ tôi và đứa em út phải ở lại để cho người ta tin rằng chúng tôi không có âm mưu trốn đi. Lên Sơn Tây, chúng tôi lên xe về Hà Nội, có chú tôi chờ sẵn, đợi những đợt sau ra được để thu xếp cho gia đình xuống Hải Dương. Đầu năm 1955, một ít ngày trước khi thời hạn di cư chấm dứt thì mẹ tôi ôm đứa em trai đi thoát. Gia đình tôi phải đi làm nhiều đợt nên mới lâu như thế.

Chúng tôi lại bồng bế nhau xuống tầu há mồm đưa ra tầu lớn đậu xa xa ngoài khơi. Chiếc tầu đó là của nhà binh Pháp đi từ bến Hải Phòng đến bến Sài Gòn mất cả thảy 3 ngày, hai đêm, sau đó có xe cam nhông chở vào trại di cư Phú Thọ cạnh trường đua, xế trường Bách Khoa ngày nay…

Quả thực những người như gia đình tôi không đủ trí tuệ và kiến thức để bảo rằng ra đi nhằm mục đích tìm tư do, hay chọn lựa một chính nghĩa theo lằn ranh Quốc Cộng. Chúng tôi quyết định hoàn toàn do bản năng, theo linh tính như những con thú đánh hơi thấy hiểm nguy, đằng trước là sự sống, đằng sau là sự chết. Hình ảnh đó tôi lại thấy trên khuôn mặt những người dân hoảng hốt di tản năm 1975. (Trích 50 năm Bắc Kỳ di cư, trang 69-70)

Đời tỵ nạn của N.N.T

Cha tôi bị Việt Minh giết. Vâng, bị Việt Minh giết. Anh tôi, vì là người phòng vệ Giám mục Phạm Ngọc Chi nên tính mạng luôn bị đe dọa. Thời gian đình chiến, Việt Minh công khai hoạt động. Chúng lùng bắt người quốc gia gán cho tội theo Tây theo Pháp hay theo Ki tô giáo. Chúng gọi những thành phần này là phản động. Có những lần chúng đem theo giáo mác, súng ống, gậy gộc, xiên nhọn, đi từng nhà lùng bắt, chúng lục lạo từ nhà trên nhà dưới, bụi tre, đống rơm để tìm kiếm. Vào một buổi chiều, đại gia đình tôi gồm 9 người chuẩn bị rời nhà. Từ nhà đến địa điểm của thuyền chờ đợi cách xa chừng bốn cây số. Không ai nói với ai, cứ đi theo người đi trước mình… Thuyền được rời bến ngay sau đó. Chừng hơn 30 thuyền lênh đênh trên sông Hồng. Người thuyền trưởng cho biết đọan đường nguy hiểm đã qua. Nghe thế, mọi nguời trên thuyền đều mừng rỡ. Xa xa, có nhiều ánh sáng như thiên đàng chờ đón ngươòi tỵ nạn chúng tôi. Càng chạy tới thì ánh sáng càng tỏ hiện. Nhiều tầu chiến, nhiều tầu há mồm, ánh sáng tỏa ra như một thành phố trước mặt. Đối với tôi, đó là một thiên đường… (Trích Đời Tỵ nạn, trong 50 năm Bắc Kỳ di cư, trang 64)

Ghi lại một vài chứng từ đối với những người còn ở lại miền Bắc

Phải xin thú thực với lòng mình rằng khi viết về cuộc di cư 1954-1955, tôi chỉ nghĩ đến những kẻ ra đi, đến những người di cư đã rời bỏ miền Bắc vào miền Nam. Nghĩ đến tâm trạng của họ, đến nỗi lo âu khốn khổ cũng như gương can đảm và lòng quyết tâm của họ.
Có nghĩa là coi vấn đề di cư chỉ trực tiếp liên hệ đến kẻ ra đi mà không liên quan gì đến kẻ ở lại.
Sách vở viết về cuộc di cư cũng chỉ viết về kẻ đã ra đi. Không một ai nghĩ đến kẻ ở lại nghĩ gì, sống ra sao, có hệ lụy gì?
Đấy là một thiếu sót cần được bổ khuyết. Nhưng mặt khác, người di cư bỏ miền Bắc ra đi không thể nghĩ hay viết thay cho người ở lại. Vì thế, người viết xin ghi lại một vài tâm tình của một vài người bạn đã ở lại miền Bắc sau 1954.

Chứng từ thứ nhất

“Sau thời hạn 300 ngày, gia đình tôi đã quyết định ở lại Hà Nội. Đúng ra là gia đình tôi có người ở lại, có người ra đi. Phần không nhỏ đã di cư. Chẳng hạn, ông anh tôi là thiếu uý, sĩ quan, cùng khoá 4, Thủ Đức với ông Thiệu nên đã theo quân đội đi vào miền Nam. Sau này lên Trung tá và hiện nay đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Trong gia đình có kẻ đi người ở nên đưa đến cảnh chia lìa Nam Bắc trong mấy chục năm trời.
Đó cũng là bất hạnh của nhiều gia đình.
Mẹ tôi hồi đó 54 tuổi, Bố tôi 56, thấy mình đã già. Vì thế quyết định ở lại. Quyết định ở lại của gia đình tôi không phải vì lý do chính trị gì cả, chỉ là lý do gia đình.
Ông bố tôi thì nghĩ rằng, gia đình mình là dân lao động, chắc ở lại cũng không sao, họ để yên, không làm gì nên ở lại.
Phần cá nhân tôi thì tôi cũng muốn đi vào miền Nam một chuyến, muốn đi để thay đổi vì tò mò muốn biết miền Nam như thế nào. Tôi có người bạn là anh Nguyễn Ngọc Bội, anh và gia đình quyết định đi vào Nam và có rủ tôi đi theo. Nhưng tôi đã quyết định ở lại theo gia đình. Mặc dầu tôi có đủ điều kiện để đi. Lúc đó tôi 15 tuổi rưỡi.
Mặc dầu không đi vào Nam, nhưng như mọi người lúc bấy giờ, chúng tôi rất hoang mang. Trăn trở gữa đi hay ở. Mỗi gia đình lại mỗi trường hợp. Người quyết định ra đi thì lo bán tống, bán táng thứ gì có thể bán được. Chợ trời mọc ra ở nhiều nơi, kẻ buôn, người bán.
Riêng trường hợp tôi còn mê mấy ông Bộ đội thấy họ lý tưởng quá, mời về nhà đãi đằng cơm nước, làm tội bà cụ phải hầu hạ cơm nước. Nhưng đần đần thì bộ mặt cộng sản của họ cũng đã lộ ra.

Cải cách ruộng đất, đấu tố
Nguồn: OntheNet


Các ông bắt đầu đặt loa phóng thanh ở mỗi góc phố. Đó là nỗi phiền và nỗi bực mình cho chúng tôi. Mỗi sáng các loa phóng thanh đó cứ rót vào tai, bắt phải nghe. Đó là lối tuyên truyền của họ, không nghe cũng phải nghe.
Bắt đầu mệt rồi, công an nay có thể xông vào nhà khám xét bất cứ lúc nào. Nhất là sau giai đọạn Tập Trung cải tạo và Hợp tác hóa với chế độ tem phiếu. Họ bắt đầu siết chặt rồi. Người dân cảm thấy mình bị kẹt, bị sa vào cái lưới thiên la địa võng. Nhưng trễ quá rồi. Muốn trốn đi, nhưng không được nữa rồi.
Nghĩ tới thân phận mình và số phận của những người di cư, tôi thấy người di cư là những người may mắn quá. Và chúng tôi thì không được cái may mắn như họ.Tôi ước gì được rơi vào số phận như họ. Tự nhiên là có sự so sánh giữa họ và tôi. So sánh để thấy họ có cơ may mà mình không có được. Từ đó, không khỏi rơi vào tâm trạng tiếc nuối. Cũng chẳng phải chỉ có mình tôi có tâm trạng đó, nhất là ông bà cụ tôi. Ông cụ tôi đau khổ, vò đầu bứt tai vì đã không chịu di cư vào miền Nam.Trong bữa cơm, không ai được nói xa gần đến quyết định sai lầm đã ở lại, đến truyện xưa. Một quyết định làm ông ân hận cả đời, nhất là giết hại cả cuộc đời tuổi trẻ của tôi.
Chẳng phải chỉ có gia đình tôi hoặc ông cụ tôi nuối tiếc.Tôi nghĩ bạn bè tôi hoặc người dân Hà Nội nói chung, họ cũng có tâm trạng như chúng tôi, nhưng không tiện nói ra. Mọi người đều vô cùng đau khổ, nhưng biết trách ai bây giờ. Người ta so sánh và tiếc cái thời tây như một thiên đường. Nghĩ tới đời sống thoải mái, no đủ, mặc dù có làm bồi cho Tây cũng sướng hơn.
Trong khi đó, miền Nam thì xa vời như một thế giới chỉ có trong trí tưởng ttượng. Báo chí Hà Nội hay đài chỉ đưa tin nói cầu Thị Nghè bị xập, chết người vô số. Giáo phái đánh nhau với quân chính phủ của ông Ngô Đình Diệm. Tình hình trong đó rối loạn. Người di cư bị phỉnh gạt, vào đó phải sống khốn khổ. Thanh niên thì bị đưa đi đến các đồn điền cao su lao động, bị bóc lột.
Nhưng trước tình hình mỗi ngày mỗi bị bóp nghẹt, đời sống khó khăn. Nhiều người bàn tính đến chuyện chốn vào miền Nam? Nhưng không dễ gì trốn được. Nói hở ra một tý là bị bắt liền.
Chẳng may, năm 1961, tôi bị đi tù. Trong nhà tù, tôi thấy người ta bị bắt đông lắm, không tưởng tượng nổi là có cả ngàn người, nhất là giới thanh niên bị bắt vì muốn trốn vào miền Nam. Chỉ cần bàn bạc cũng đủ để vào tù và bị ghép vào tội: trốn theo địch.
Nhẹ nhất cũng bị 5 năm tù. Nặng có thể tử hình.
Như trường hợp ông Trần Văn Tửu, ông cướp thuyền để trốn vào miền Nam, nên ông bị lôi ra xử bắn. Và đó là trường hợp mê vào Sài Gòn nên có câu: Sài Gòn ơi, ta chết vì người.
Nhiều lúc ngồi trong tù, tôi nghĩ thà có bị chặt một tay, bị tàn tật mà đi được cũng đi. Chán quá rồi. Cho nên, dù có bị tàn tật vẫn còn là một may mắn hơn là phải ở lại với cộng sản.
Viết ra những điều này, tôi mong mỏi đồng bào mình hiểu rằng, dù may mắn di cư vào được miền Nam hay dù phải ở lại miền Bắc thì tâm trạng của cả hai miền cũng không khác gì nhau. Ai cũng chán ghét cộng sản. Ai đi được thì mừng cho họ. Ai không đi được thì buồn cho họ. Hơn phân nửa cuộc đời tôi đã phải sống dưới chế độ ấy, nay còn lại phần cuối đời, tôi mong mỏi Việt Nam mình thoát khỏi cảnh bạo tàn cộng sản để cho dân chúng hai miền hưởng được tư do, dân chủ. Đời mình đã không đạt được. Hy vọng thế hệ sau, thế hệ con cháu mình có cơ hội hưởng cuộc đời tự do hạnh phúc.

Chứng từ thứ hai

Cuộc Di Cư 54-55 đã ghi dấu ấn trong lịch sử VN không thể phai nhoà. Nó khẳng định ranh giới giữa cộng sản VN với những người Việt quốc gia, để hình thành một nền đệ nhất cộng hoà non trẻ dân chủ, tự do, nhân ái, nhưng cũng còn đầy rẫy nhưng gian lao, hệ lụy ở phiá Nam. Còn ở miền Bắc tôi ở, nhà cầm quyền cộng sản đã tự xé bức màn chiêu bài dân tộc, lột trần bản chất độc tài, khát máu, chuyên chính vô sản theo cộng sản Tàu. Họ phát huy tối đa cao trào cải cách ruộng đất đẫm máu, tàn ác, bất nhân. Đã phá vỡ kiến trúc xã hội ngàn năm từ văn hoá, tôn giáo, tôn ti trật tự khắp nông thôn đến thị thành.
Cuộc di cư vào Nam hồi 54-55 của những người miến Bắc là một sự lưạ chon đúng đắn và dũng cảm. Họ đã đứt ruột rời bỏ quê hương, nơi tổ tiên họ đã bao đời sinh sống. Nơi từng nắm đất, ngọn cỏ, bụi cây cũng chứa đầy máu, nước mắt, mồ hôi của những thế hệ ông cha. Họ ra đi như một khẳng định dứt khoát và quyết liệt. Không thể sống chung với cộng sản. Dẫu trước mắt, có thể còn đầy rẫy khó khăn, chập chững bước đầu nơi đất khách, lập quê hương mới. Nhưng nơi đó, họ được có tự do, hạnh phúc và nhất là nhân thân họ được tôn trọng.
Người đi đã thế. Những thân nhân còn ở lại chịu khổ ải bội phần. Họ bỗng dưng thành những công dân loại hai. Rất nhiều người bị nhà cầm quyền kéo ra đấu tố, tù đày chẳng kém gì những thành phần cường hào đìạ chủ. Tuy họ không giàu, cũng không có chức tước gì trong thôn xã. Nhưng họ bị tội là có thân nhân ruột thịt di cư vào Nam theo giặc.
Những gia đình có thân nhân di cư vào Nam thường không được vào đảng… Không được nâng đỡ, thăng tiến trong công tác. Nhất là sau khi có tin tức về những vụ bắt gián điệp, biệt kích từ trong Nam gửi ra. Thì những gia đình có thân ruột thịt di cư như ngồi trên đống lửa. Vì lúc nào họ cũng bị theo dõi nghi ngờ với những tin đồn có cánh.
Họ sống trong nơm nớp sợ hãi, bất an và nghi kỵ… không kém chi những thành phần địa chủ, cường hào.
Đọc bài Di Cư anh viết, tôi thấy người đi đã vậy mà người ở lại cũng lãnh bao nhiêu hệ lụy. Những hệ lụy dai dẳng suốt mấy chục năm kéo theo bao những cảnh đời cùng khổ. Mà chẳng giấy bút nào viết hết.
Không biết những người ra đi có hiểu cho người ở lại không?
Và như vậy bài Di Cư không đề cập đến hệ lụy của người ở lại là chưa đầy đủ. Phải không anh?
Nhân đây tôi cũng chép lại bài thơ về người con gái có chồng theo giặc vào Nam
(Bài thơ khá được phổ biến, ngân ngợi, hò, vè). Thời đó rất nhiều người thuộc.

Sông Tam Bạc (Hải Phòng)
Nguồn: imageshack.us


CÔ LÁI ĐÒ
Khoan khoan cô lái đò ơi,
Có còn rộng chỗ cho tôi sang nhờ.
Khách đông, thuyền đã rời bờ,
Nể lòng cô gái quay đò, tôi sang.
Nắng thu như dải luạ vàng,
Trên sông Tam Bạc (1) nhịp nhàng chảy xuôi.
Môi cô luôn nở nụ cười
Tay cô thoăn thoắt đưa đôi mái chèo.
Mạn thuyền tiếng sóng êm reo,
Có dòng nước bạc chảy theo con đò.
Thuyền sang tới bến bao giờ,
Bỗng dưng tôi thấy ngẩn ngơ, bàng hoàng.
Ước gì có chuyến đò ngang,
Dài bằng cả một thời gian mười ngày…
Thu qua, rồi đến xuân nay,
Tình cờ qua bến sông này năm xưa.
Vẫn còn nhớ lại trong mơ,
Vẫn sông, vẫn bến đôi bờ xôn xao.
Vẫn con đò của độ nào,
Vẫn cô gái nhỏ, má đào chưa phai.
Nhưng sao cô khẽ thở dài,
Thẫn thờ nhìn khách ngồi hai mạn thuyền.
Nụ cười tươi thắm, hồn nhiên,
Năm xưa, chẳng thấy nở trên môi hồng.
Hỏi dò mấy bạn sang sông,
Biết thêm cô đã lấy chồng thu qua.
Đời đang tươi đẹp như hoa,
Chồng cô theo giặc, bỏ nhà vào Nam.
Đêm thu dưới anh trăng vàng,
Dừng chèo trên bến, đò ngang đợi chờ.
Nước non ngăn cách đôi bờ,
Hờn căm đế quốc bao giờ cho nguôi…

Bài này viết theo thể lục bát. Từ ngữ bình dị mà vần điệu nhuần nhuyễn.

Tôi không biết tên tác giả nhưng thuộc lòng từ thuở lên mười.
Vân Hải 

Phần Kết luận
Bài viết này đã đi được một đoạn đường dài, rảo qua tất cả những đoạn đầy cam go và thử thách của cuộc di cư năm 1954-1955. Chắc chắn còn rất nhiều điều chưa nói hết và chưa nói đủ. Kinh nghiệm khổ đau của hàng trăm ngàn người, bút nào tả cho cùng?
Bỏ ra ngoài những uẩn khúc, những tỵ hiềm, những chuyện cá nhân giữa người với người, ngay cả những mánh mung vặt vãnh hay có tổ chức cũng không tài nào tránh được trong các tổ chức trại tỵ nạn. Rồi khi có nhiều va chạm giữa những kẻ mới tới và dân chúng địa phương. So sánh có, tỵ hiềm có, đố kỵ có, khinh khi có, tránh né nhau cũng có, thù hằn nhau cũng có. Tất cả những điều đó đều có thể.

Cuộc di cư 1954-1955 là cơ hội để con người có cơ may làm người: Rạch Bắp
Nguồn: National Geographic Số tháng 6, 1955


Cũng bỏ ra ngoài chuyện ăn chặn tiền cứu trợ, hoặc có những người di cư khai báo đến hai ba lần để nhận tiền cứu trợ. Những điều như thế chắc không cần viết ra đây làm gì.
Không kể biết bao trở ngại, khó khăn để người tỵ nạn có thể an cư lạc nghiệp. Chẳng hạn, như ở Cái Sắn, người di cư không phải chỉ trông vào ba mẫu tây đất là có thể ngồi đó rung đùi hút thuốc lào. Phải xoay sở, phải chật vật làm thêm đủ thứ để có thêm thu nhập gia đình như trồng rau, hoa mầu, lưới cá, nuôi gà vịt, heo và trăm thứ khác.
Và đó mới là cuộc sống thực, sống đích đáng và đúng nghĩa.
Tôi cũng đã nghĩ tới những thành công về mặt chính trị trong thế đối đầu với cộng sản mà cuộc di cư này như cái tát trái vào mặt người cộng sản. Số lượng người di cư khổng lồ như thế làm thế giới kinh ngạc và nể phục đồng thời tác động mạnh mẽ đến thất bại tinh thần của chủ nghĩa cộng Sản.
Người di cư, những 80% dân nghèo đã bỏ mà đi
(nhấn mạnh của DCVOnline.net), và bài học đó cần phải nhớ.
Về ảnh hưởng của người di cư trên mảnh đất mới cho thấy ở thành thị, chỉ từ 10% đến 20% chất sám, chất sám miền Bắc đã làm nên chuyện lớn.
Nhưng 70% dân nghèo mà 60% là nông dân, 10% là dân thuyền chài đều là những dân làm ăn cần cù, chăm chỉ
(hard-working persons) với một nếp sống giản dị thu vén, liệu cơm gắp mắm nên ăn ít mà làm nhiều.
Chả mấy lúc mà khá giả và góp phần vào sự thịnh vượng của mảnh đất này… Và về mặt xã hội, nó là hiện tượng kích cầu thúc đẩy những thành phần khác trong xã hội cố gắng vươn lên theo.
Nhưng tôi nghĩ đến, từ kinh nghiệm cá nhân những gì tôi đã trải qua để thấy báu vật vô vàn của đời dành cho người di cư: Đó là từ nay, họ có thể sống cuộc đời của họ, tự do tôn giáo của họ, kinh nguyện của họ, bài tụng của họ, nhà chùa của họ, nhà thờ của họ.
Một điều xem ra tầm thường mà những người còn ở lại bên kia bức màn tre không bao giờ có được. Họ có được những điều mà những người còn ở lại vô phúc không có được.
Điều tôi muốn được bày tỏ ở đây, tôi muốn nói cho rõ để thế hệ mai sau thấy rằng cha mẹ, tổ tiên của họ đã có cơ may ngàn vàng có được cơ hội “đổi đời” từ miền đất khô cằn phải lao lực, phải đổ mồ hôi nước mắt mới có hạt cơm vào mồm.
Đời sống dân cư miền Bắc, miền Trung là vô vàn khốn khổ. Thời của tôi, nhiều người chưa bao giờ có cơ hội ngồi trên chiếc xe hàng chạy bằng hơi nước, chưa bao giờ biết miếng bánh mì, chưa bao giờ biết ăn một cái kẹo tây, chưa bao giờ biết đánh răng bằng bàn chải, chưa bao giờ biết xỏ chân vào một đôi dép, chưa bao giờ biết cắt tóc, chưa bao giờ biết xà phòng, chưa bao giờ biết đến xe đạp. Có khi bánh xe đạp là bánh đặc. Chưa bao giờ thong thả, ngồi nghe vọng cổ, chưa bao giờ biết cờ bạc…
Nhiều cái chưa bao giờ lắm. Cả làng chỉ có một trường tiểu học trình độ biết đọc, biết viết. Cả tổng chưa có trường trung học, cả huyện cũng thế, may ra ở tỉnh thì có một trường. Các khu vực theo Thiên chúa giáo có thể khá hơn. Cả làng có thể mù chữ, trừ vài người. Có được vài sào ruộng đã lấy làm tự an ủi. Có dăm ba mẫu ruộng đã nên ông nên bà. Cơm trắng là điều xa xỉ. Ngủ giường là điều không thể xảy ra. Quần áo vá chằng vá đụp như một cái mền rách.
Tôi nghe kể rằng, ngay ở Sài Gòn sau này, có trường hợp sư bà Đàm Hướng ở đường Phan Đình Phùng chăm sóc trẻ mồ côi. Người Mỹ có phân phát cho mỗi em một tube thuốc đánh răng. Nhiều em tưởng ăn được, mút ăn ngon lành. Sinh đau bụng. Phải gọi cấp cứu bác sĩ Mỹ đến.
Hóa ra chỉ vì những tube kem đánh răng, mùi thơm, hơi ngọt nên trẻ con tưởng ăn được

Đời sống người dân quê có được hai ba sào ruộng đã là quý. Nhà ở là túp lều tranh vách đất, trống trước trống sau. Còn nếu không có nổi vài ba sào thì đi cấy rẽ, cấy thuê, hoặc làm thuê làm mướn. Tôi đã thấy những bữa ăn của thợ cấy, thợ cầy. Chỉ có vài quả cà. Khá lắm có chút rau muống luộc thì lấy nước rau muống chan để và vội bát cơm. Cả năm không biết có mấy lần ăn được một miếng thịt. Đi ăn cỗ thường 6 người/một cỗ. Họ bảo nhau ăn vài miếng, thường sau đó chia nhau ăn hết món nấu, rồi cả mâm chia phần còn lại làm sáu phần lấy lá chuối gói về cho vợ con.
Vào trong Nam, tại trại định cư Cái Sắn, mỗi người được chia đến ba mẫu ruộng. Nhà cửa khang trang. Cầy cấy thì có trâu thay cho người. Cấy lúa sạ làm chơi mà ăn thật khỏi phải chân lấm tay bùn, quần quật từ sáng tới tối.
Vào Cái Sắn người di cư phút chốc lên làm người. Kể từ nay, không còn vất vả quần quật nữa.
Tại nơi đây, một sức sống mới đang vươn dạy theo tinh thần Tự lực cánh sinh và dần dần được địa phương hóa.
Trên tờ Nữu Ước thời báo ra ngày 16/02/1956 đã viết như sau về trại định cư này:

“Trên địa hạt con người, đối với những người tỵ nạn, đây có nghĩa là một đời sống sung sướng và có nghĩa lý hơn, vì họ sẽ không cần những sự trợ giúp có tính cách làm phúc nữa. Trên địa hạt kinh tế, điều này có nghĩa là trong một ngày gần đây, Nam Việt sẽ có thể xuất cảng một triệu năm trăm ngàn tấn gạo, cũng như hồi tiền chiến”.

Chưa kể đủ thứ bệnh. Chết lúc nào không hay. Các bệnh như toét mắt, ghẻ lở, bệnh cứt trâu, bệnh tiêu chảy chỉ là bệnh ngoài da, bệnh thông thường. Bệnh nặng thì đành chịu.
Chưa kể lúc chết không có miếng đất để chôn, phải chôn nhờ.
Cho nên cuộc di cư 1954-1955 đối với nhiều người là một sinh lộ giải thoát con người ra khỏi tối tăm và cơ cực.
Cuộc di cư 1954-1955, phải chăng là cơ hội để con người có cơ may làm người?

© DCVOnline