Tiếp theo sẽ là gì?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Tối 15 tháng 7 Trung Quốc tuyên bố chính thức rút giàn khoan HD 981 ra khỏi đảo Tri Tôn thuộc vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam. Động thái này ngay lập tức được phản ứng tích cực từ nhà nước Việt Nam, tuy nhiên để có một chiến lược đối phó cho những gì sắp tới vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ.

Phải đặt trọng tâm chiến lược lâu dài

Sau khi nghe tin, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao và biểu dương các cơ quan chức năng, cơ quan thực thi pháp luật trên biển đã biểu thị thái độ và trách nhiệm cao trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam. Cùng lúc người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lê Hải Bình lên tiếng yêu cầu Trung Quốc không tái diễn đem giàn khoan vào vùng biển Việt Nam trái phép một lần nữa để bảo đảm an ninh trên biển Đông.

Đó là hai phản ứng nhanh nhất của chính phủ về động thái rút giàn khoan HD 981 về Hải Nam với tuyên bố từ Trung Quốc là nhiệm vụ giàn khoan đã hoàn tất chứ không phải do bất cứ áp lực nào từ bên ngoài kể cả cơn bão Thần Sấm đang ầm ầm tiến đến trong 24 giờ sắp tới.

Tuy nhiên, là người có kinh nghiệm rất nhiều trong khi đàm phán biên giới với Trung Quốc, TS Trần Công Trục nguyên Trưởng ban biên giới chính phủ cho rằng không thể đánh giá một cách khái quát về hành động rút giàn khoan mà phải đặt trọng tâm vào chiến lược lâu dài mà Trung Quốc đã và đang theo đuổi:

Tất cả các động thái về giàn khoan này khi họ hạ đặt và hai là di chuyển, rút đi chỉ là động thái tùy theo tình huống để họ xử lý, vì tất cả các điều đó họ đã sắp xếp trong chiến lược đã tính sẵn.
-TS Trần Công Trục

“Có thể nói rằng tất cả các động thái về giàn khoan này khi họ hạ đặt và hai là di chuyển, rút đi chỉ là động thái tùy theo tình huống để họ xử lý, vì tất cả các điều đó họ đã sắp xếp trong chiến lược đã tính sẵn rồi không có gì thay đổi đâu. Theo tôi bản chất của nó cho dù có những biến đổi nào đó cũng chỉ là mang tính ứng phó tạm thời mà thôi.”

Dù tạm thời hay không, vần đề giàn khoan của Trung Quốc sẽ tiếp tục xuất hiện nhiều lần nữa là điều chắc chắn. Những thay đổi có tính chiến thuật không phải là điều đáng mừng nhất là tự ru ngủ mình bằng cách vuốt ve lòng tự ái dân tộc là một hành động không những nguy hiểm đối với dư luận quốc tế mà còn gây ra tâm lý tự mãn không đáng có trong tình hình nguy nan trước mắt.

Chuyên gia về Biển Đông, Giáo sư Carl Thayer, thuộc học viện quân sự Australia cho biết nhận xét của ông:

“Việc rút giàn khoan này có vẻ làm dịu bớt căng thẳng và tôi cho rằng rằng đây là thời điểm mà Bác Kinh và Hà Nội ngồi xuống trao đổi về quan hệ hai nước và đây là tiền đề có ảnh hưởng đến những động thái phải làm trong tương lai. Trung Quốc đã đưa hàng trăm tàu bao gồm tàu chiến vào trong khu vực này là điều mà chỉ một hoặc hai nước có đủ khả năng buộc họ phải dừng lại, vì vậy Việt Nam nên tận dụng cơ hội này để làm dịu tình hình và tìm hiểu thêm về Trung Quốc để có phản ứng thích hợp trong tương lai. Việt Nam cần tìm thêm sự ủng hộ của quốc tế để biến vấn đề thành quốc tế hóa điều mà Trung Quốc không muốn đá động tới.”

Mỹ có thay đổi chiến thuật?

vietnam-ships-2-may-2014-305.jpg
Tàu cảnh sát biển Trung Quốc (phải) sử dụng súng nước tấn công tàu kiểm ngư của Việt Nam trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông hôm 03 tháng 5 năm 2014.

Chiến thuật mèo vờn chuột mà báo chí quốc tế đang nêu ra cho thấy Trung Quốc muốn đặt Việt Nam vào thế chạy theo đuôi và không thể thoát ra sự kềm chế của họ bằng sức mạnh quân sự. Những cuộc gặp gỡ mới nhất giữa hai đô đốc tư lệnh hải quân Trung Mỹ, cộng với cuộc tập trận mang tính quy mô vừa qua tại Hawaii giữa hai nước là một dấu hỏi rất lớn trong giới quan sát Biển Đông. Đến nỗi có người đưa ra câu hỏi liệu có phải Mỹ thay đổi chiến thuật đối với Trung Quốc hay không.

Giáo sư Carl Thayer từng được cho là có lo âu cho một cái bắt tay sau hậu trường trong chính sách mới của hai nước, đã xác định với chúng tôi như sau:

“Tôi tin rằng người ta đã diễn dịch lời của tôi không chính xác. Ý tôi muốn nói nếu nhìn vào những ý kiến của dư luận qua cách mà cả hai nước Mỹ Trung cùng nhấn mạnh tới chính sách “ngoại giao tập trận” (Mil to Mil relation) là một bước tiến của Mỹ kể từ năm 1989 khi họ cố dàn xếp một vụ tập trận song phương nhưng không đạt được. Cho đến vụ va chạm trên không giữa máy bay EP 3 của Mỹ và chiến đấu cơ Trung Quốc vào năm 2001 trên đảo Hải Nam.

Những gì tôi muốn nói là Trung Quốc đưa ra đề nghị tập trận chung nằm trong ý muốn tiếp cận Trung Quốc của Mỹ. Đây là ưu tiên hàng đầu và cũng là mục tiêu Mỹ nhắm tới và vì vậy tôi quan tâm rằng nếu mối quan hệ “tập trận” này được xây dựng chặt chẽ hơn nó có thể sẽ uốn cong những quyết định của Mỹ, đặc biệt trong trường hợp Việt Nam không phải là đồng minh của Hoa Kỳ.”

Trung Quốc đưa ra đề nghị tập trận chung nằm trong ý muốn tiếp cận Trung Quốc của Mỹ. Đây là ưu tiên hàng đầu và cũng là mục tiêu Mỹ nhắm tới.
-GS Carl Thayer

Tình hình tạm dịu là cơ hội để Việt Nam tập trung hơn trong nhiều vần đề mà trước nhất vẫn là cố gắng vận động sự đồng thuận của quốc tế. Tiếng nói nhiều nước sẽ cộng hưởng và hiệu ứng của nó sẽ lớn hơn gấp nhiêu lần của một số ít. Hai nữa là thường xuyên điều động các đơn vị cảnh sát biển, kiểm ngư làm công tác bảo vệ tại khu vực mà giàn khoan vừa rút sẽ vô hiệu hóa ý đồ chiếm giữ bằng sự hiện diện thường xuyên mà Trung Quốc cố tình áp đặt. Về vấn đề này, TS Trần Công Trục cho biết:

“Các đơn vị này được thành lập ra là để làm cái việc đó cho nên không phải vì chuyện Trung Quốc đưa giàn khoan mới phải làm còn khi họ rút rồi thì thôi, lại rút về. Tôi cho là không phải như vậy. Họ phải luôn luôn thường trực để bảo vệ. Dĩ nhiên còn phụ thuộc vào yếu tố, vào khả năng, về trang thiết bị lực lượng nhưng điều quan trọng là nhiệm vụ các đội ngũ này là anh phải luôn luôn thường trực để bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình trên các vùng biển được xác nhận thuộc về vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.”

Tuy nhiên, sự đồng thuận cao nhất của Chính phủ và Đảng cộng sản mới là điều cốt lõi trong việc chống lại sự áp đặt của Trung Quốc. Rất nhiều nhà quan sát quốc tế nhận xét rằng Bộ chính trị Việt Nam hiện nay đang lưỡng lự trước vấn đề Trung Quốc và đây là yếu huyệt của Hà Nội trước sự sống còn của dân tộc. TS Trần Công Trục lý giải những nhận xét này như sau:

“Nói như vậy không phải là một điều đáng ngạc nhiên, bất kỳ một xã hội nào dù có văn minh, tiến bộ đến đâu cũng đều tồn tại điều đó. Vấn đề quan trọng là phải xử lý những mâu thuẫn đó như thế nào và nó phải thể hiện vào lúc chúng ta gặp sự cố, tình huống mà liên quan đến tất cả lợi ích chung của chúng ta cũng như của cộng đồng mà chúng ta đang sống trong khu vực của quốc tế.”

Việt Nam không có một động thái nào ở cấp cao nhất là điều mà Trung Quốc đã dự kiến trong chiến lược lấn chiếm Biển Đông của họ. Cởi bỏ chướng ngại to lớn này không ai khác hơn là đảng và chính phủ Việt Nam trước khi bão đi và giàn khoan khác lại kéo tới.

Sau khi rút giàn khoan, Trung Quốc sẽ làm gì ở biển Đông?

Việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền đã dẫn tới tình trạng đối đầu trên biển.

Việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền đã dẫn tới tình trạng đối đầu trên biển.

Bắc Kinh hôm 16/7 thông báo di dời giàn khoan dầu về vùng biển gần đảo Hải Nam sau hơn hai tháng xảy ra đối đầu với Hà Nội, từng dẫn tới làn sóng bài Trung Quốc khắp Việt Nam.

Các giới chức của Cục Kiểm ngư Việt Nam xác nhận việc Trung Quốc rút ra khỏi vùng biển mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền, đồng thời cho biết rằng hàng chục tàu bè được điều ra để ngăn chặn giàn khoan dầu này sẽ cập bờ để tránh bão.

Chính quyền Bắc Kinh nói việc thăm dò dầu khí đã hoàn tất cùng với việc siêu bão Rammasun thổi tới biển Đông là các lý do dẫn tới việc rút giàn khoan trước thời hạn mà họ đặt ra là 15/8, chứ không phải do áp lực từ bên ngoài.

Ông Vương Chấn, phó giám đốc Phòng Nghiên cứu Chính sách của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia của nước này, được dẫn lời nói rằng bất chấp sự phản đối ở Việt Nam, kế hoạch thăm dò đã được tiến hành ‘trơn tru’ và ‘hoàn thành đúng thời hạn’.

Giới quan sát, trong đó có giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, cho rằng trận bão đã ‘đem lại cơ hội để Trung Quốc lùi bước’, tránh bị mất thể diện.

Trong khi đó, một cựu giới chức ngoại giao Việt Nam lại cho rằng Trung Quốc có quyết định như vậy vì chịu sức ép từ nhiều phía.

Chắc chắn khi mà có dịp thì họ còn giở trò nữa và những bước sau của họ đều nguy hiểm hơn những bước trước. Tôi đã đọc các tài liệu của Trung Quốc và họ nói rằng là họ sẽ chiếm đảo của Việt Nam, và thậm chí có nguồn tin mà tôi đọc trên mạng của Trung Quốc còn nói rõ là chiếm một nửa Việt Nam, chứ không phải là họ để yên đâu.

Ông Dương Danh Dy, cựu tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, nhận định: “Do thái độ của chính phủ và nhân dân Việt Nam rất là cương quyết, đòi Trung Quốc phải rút ra khỏi nơi họ đã lắp đặt giàn khoan và thứ hai là do được sự đồng tình của nhân dân trong khối ASEAN rồi sự đồng tình của nhân dân thế giới, đặc biệt trong đó có một số nước lớn nữa, nên Trung Quốc cảm thấy rằng là việc đó lợi không bù hại thành ra họ phải rút thôi. Trung Quốc thì bao giờ họ cũng có lý do. Theo tôi được biết thì họ nói là họ khoan 2 mũi cơ chứ không phải một mũi. Chuyện này theo tôi, đây chỉ là bước đầu thôi, chứ còn chắc chắn tôi biết rằng là từ nay trở đi Trung Quốc sẽ còn khoan thăm dò các nơi khác thuộc thềm lục địa và thuộc chủ quyền cũng như quyền tài phán của Việt Nam”.

Trung Quốc thông báo đã phát hiện dầu lửa và khí đốt nhưng cần phải đánh giá dữ liệu thu thập được trước khi có quyết định về các bước đi tiếp theo.

Trong cùng ngày Trung Quốc di chuyển giàn khoan, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã lên tiếng  yêu cầu Trung Quốc ‘không tái diễn hành vi đặt trái phép giàn khoan’.

Ông Dũng nói: “Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền bằng sức mạnh tổng hợp và các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế; yêu cầu Trung Quốc không tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan cũng như các hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển của Việt Nam”.

Trung Quốc luôn khẳng định địa điểm đặt giàn khoan dầu gây tranh cãi thuộc chủ quyền và quyền tài phán của nước này.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi hôm 16/7 một lần nữa nói rằng Bắc Kinh mạnh mẽ phản đối việc Việt Nam cản trở hoạt động của giàn khoan.

Trước câu hỏi là liệu căng thẳng Việt Trung có dịu đi sau bước đi mới nhất của Trung Quốc, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy nhận định rằng ‘sẽ còn xảy ra nhiều chuyện còn xấu hơn nữa’ ở biển Đông.

Ông Dy nói: “Chắc chắn khi mà có dịp thì họ còn giở trò nữa và những bước sau của họ đều nguy hiểm hơn những bước trước. Ở biển Đông, trước đây họ làm những chuyện như chỉ cắt cáp và đâm tàu nhưng giờ họ đã đặt giàn khoan vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam”.

Tạm thời tôi cho rằng, việc này cũng có thể giảm áp lực vào Hà Nội trong thời điểm ngắn hạn, và quyết định này (dù là riêng của TQ hay là kết quả của những đàm phán giữa hai bên) rất có thể đã có chính ý định đó. Nhưng, về lâu dài, việc này không thay đổi chút nào thực thế là động thái của TQ đã yêu cầu Việt Nam cần một phương hướng mới.

Học giả này nói thêm: “Tôi đã đọc các tài liệu của Trung Quốc và họ nói rằng là họ sẽ chiếm đảo của Việt Nam, và thậm chí có nguồn tin mà tôi đọc trên mạng của Trung Quốc còn nói rõ là chiếm một nửa Việt Nam, chứ không phải là họ để yên đâu”.

Viết trên trang Facebook, tiến sỹ Jonathan London, nhà nghiên cứu về Việt Nam tại Đại học Thành phố Hong Kong, viết: “Hôm nay nhiều người đang hỏi về ý nghĩa của việc TQ đã rút dàn khoan 981 và ý nghĩa của nó đối với phía Việt Nam. Chịu. Tạm thời tôi cho rằng, việc này cũng có thể giảm áp lực vào Hà Nội trong thời điểm ngắn hạn, và quyết định này (dù là riêng của TQ hay là kết quả của những đàm phán giữa hai bên) rất có thể đã có chính ý định đó. Nhưng, về lâu dài, việc này không thay đổi chút nào thực thế là động thái của TQ đã yêu cầu Việt Nam cần một phương hướng mới”.

Thủ tướng Việt Nam từng tuyên bố có thể kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế, nhưng giờ sau khi Bắc Kinh rút giàn khoan, chưa rõ liệu Hà Nội có còn xúc tiến hành động được coi sẽ làm mếch lòng quốc gia láng giềng ở phương bắc hay không.

Trước những ý kiến cho rằng vụ giàn khoan dầu để lại một vết nhơ khó xóa trong quan hệ Việt – Trung, cựu giới chức ngoại giao Dương Danh Dy nói rằng không phải vậy.

Ông Dy nói: “Trung Quốc họ có thể làm những cái xấu hơn nữa cơ, chứ không phải chỉ có như thế, cho nên là nếu ai đó nói rằng vụ giàn khoan là một vết nhơ khó gột rửa thì theo tôi không phải đâu. Năm 79, nó mang mấy chục vạn quân sang đánh mà rốt cuộc vẫn cứ phải sống hòa hợp với nhau cơ mà”.

@VOA

Giải mã việc TQ rút giàn khoan

Việt Nam và Trung Quốc đã được gì và mất gì sau hơn hai tháng đối đầu trên Biển Đông?

Các học giả trong và ngoài nước có những nhận định khác nhau về động thái của Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa sau hơn hai tháng giàn khoan này được triển khai tại đây.

Vào tối hôm 15/7, phía Trung Quốc thông báo họ đã rút giàn khoan Hải Dương 981 về vị trí gần đảo Hải Nam vì lý do ‘mùa mưa bão đã đến’, theo Tân Hoa Xã.

Một nhà nghiên cứu từ trong nước cho rằng đây có thể được xem là ‘thắng lợi ngoại giao’ của Việt Nam trong khi một học giả nước ngoài nhận định Trung Quốc có ‘mưu tính chính trị’ đằng sau hành động này.

Trao đổi với BBC, Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Anh, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông của Học viện Ngoại giao Việt Nam, nói rằng việc Trung Quốc rút giàn khoan sớm hơn một tháng so với kế hoạch là ‘nhờ tiếng nói của Việt Nam cũng như dư luận thế giới’.

“Dù trực tiếp hay gián tiếp thì rõ ràng hành động này của Trung Quốc không thể không tính đến phản ứng từ phía Việt Nam và thế giới,” bà giải thích.

“Việt Nam đã làm tất cả mọi việc cần thiết về ngoại giao và dư luận thế giới cũng có những phản ứng thể hiện quan điểm về việc Trung Quốc đặt giàn khoan,” Tiến sỹ Lan Anh nói thêm.

Theo bà thì Việt Nam đã ‘thắng lợi về mặt ngoại giao’ bằng ‘sự kiên trì, tuân thủ luật pháp quốc tế và thiện chí hòa bình’.

Nếu mục tiêu lớn hơn là áp đặt đường lưỡi bò thì có thể nói là thất bại. Trung Quốc đã nhận được phản ánh rất mạnh mẽ từ các quốc gia ven biển. Trung Quốc đã mất đi hình ảnh thân thiện và trỗi dậy hòa bình mà họ gầy dựng bấy lâu nay và thế giới đã biết rõ hơn về tham vọng của Trung Quốc.

Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Anh, Học viện Ngoại giao Việt Nam

Về việc Trung Quốc tuyên bố họ rút giàn khoan ‘vì mưa bão’, bà cho rằng chính quyền Trung Quốc ‘muốn giải thích với dư luận trong nước’ và ‘giữ thể diện một nước lớn’.

Tuy nhiên, Tiến sỹ Lan Anh đánh giá cao động thái này của Trung Quốc.

“Quan trọng là kết quả và tác động với tình hình hiện nay,” bà nói và cho rằng việc rút giàn khoan đã làm ‘giảm bớt căng thẳng và giữ thể diện cho tất cả các bên’.

“Cả hai bên được coi là đã thắng lợi,” bà nói.

Trung Quốc mất hình ảnh?

Về lâu dài, bà Lan Anh phân tích rằng thông báo của phía Trung Quốc có nói là ‘chưa có ý định khai thác thương mại’ nên có thể trong tương lai gần Trung Quốc ‘sẽ không có động thái leo thang’.

Điều này, theo bà, sẽ ‘mở đường cho thỏa thuận ổn định hơn cho Biển Đông’.

Có phải Trung Quốc rút giàn khoan là vì bão?

“Động thái vừa rồi của Trung Quốc cho thấy phản ứng quyết liệt của Việt Nam nên tôi không nghĩ là họ sẽ manh động tiến hành khai thác trong tương lai gần.”

Về biện pháp pháp lý mà Việt Nam đang tính toán trước Trung Quốc, bà Lan Anh cho rằng động thái rút giàn khoan ‘có thể chưa tạo ra áp lực lớn hay mối nguy cơ lớn khiến Việt Nam phải cân nhắc áp dụng ngay lập tức’.

Tuy nhiên, bà cho rằng biện pháp này ‘đòi hỏi quá trình cân nhắc kỹ lưỡng’ và đây là ‘một trong những biện pháp Việt Nam đã cân nhắc lâu nay’.

Khi được hỏi Trung Quốc có đạt được mục tiêu hay không với việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981, Tiến sỹ Lan Anh nhận định:

“Nếu mục tiêu như Trung Quốc tuyên bố là thăm dò khảo sát thì coi như là đã đạt được.

Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam đã hành động quyết liệt trước giàn khoan Trung Quốc

Còn nếu mục tiêu lớn hơn là áp đặt đường lưỡi bò thì có thể nói là thất bại. Trung Quốc đã nhận được phản ánh rất mạnh mẽ từ các quốc gia ven biển. Trung Quốc đã mất đi hình ảnh thân thiện và trỗi dậy hòa bình mà họ gầy dựng bấy lâu nay và thế giới đã biết rõ hơn về tham vọng của Trung Quốc.”

‘Lý do chính trị’

Trong khi đó, Giáo sư Carlyle Thayer, một chuyên gia của Học viện Quốc phòng Úc chuyên theo dõi tình hình Việt Nam, nhận định rằng Trung Quốc ‘có lý do chính trị’ đằng sau việc rút giàn khoan và lý do thời tiết họ đưa ra ‘chỉ là cái cớ’.

“Lý do chính trị là đặc biệt quan trọng,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn với BBC.

Ông phân tích rằng Trung Quốc đưa ra quyết định này trong bối cảnh giàn khoan của họ ‘gây tác dụng ngược’ trong khu vực trong lúc Hoa Kỳ ‘tỏ dấu hiệu sẽ khởi động chiến dịch phản công chính trị’, Việt Nam đe dọa dùng biện pháp pháp lý và một số ‘thành phần ở Việt Nam đang kêu gọi phải tìm kiếm liên minh’ trong khi chuyến thăm Mỹ vào tháng Chín của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh vẫn còn treo lơ lửng.

Trung Quốc muốn ‘dụ’ Việt Nam đừng nhờ vả Mỹ với việc họ rút giàn khoan?

Với việc rút giàn khoan thì Trung Quốc đã hóa giải những thách thức này, theo Giáo sư Thayer.

Theo đó, Trung Quốc muốn gửi thông điệp là ‘chúng tôi không còn khủng hoảng hay đối đầu nữa, căng thẳng đã hạ nhiệt’.

“Trung Quốc muốn lôi kéo Việt Nam vào con đường đàm phán song phương, ngăn chặn những thành phần trong Bộ Chính trị Việt Nam muốn tìm kiếm sự trợ giúp, tránh khả năng Việt Nam có hành động pháp lý, tạo cơ hội và bầu không khí thuận lợi cho Diễn đàn An ninh khu vực (ARF) sắp diễn ra,” ông phân tích.

Theo Giáo sư Thayer, nếu như Mỹ đến hội nghị ARF lần này với ý muốn gây sức ép để Trung Quốc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong hành động của mình thì Trung Quốc sẽ có thể nói rằng: “Đây không phải là chuyện của Mỹ. Vấn đề giờ đây đã được thảo luận song phương với Việt Nam và sự can thiệp của Mỹ chỉ làm mọi chuyện thêm phức tạp”.

‘Từ đối đầu sang chính trị’

“Cả nước Việt Nam với 90 triệu dân chỉ bằng một tỉnh cỡ trung của Trung Quốc,” ông nói, “Việt Nam có rất ít chọn lựa và khả năng xoay sở.”

“Nếu Trung Quốc muốn đặt giàn khoan ở đó vô thời hạn thì Việt Nam cũng không làm gì được.”

“Tuy nhiên, Trung Quốc muốn tránh hậu quả của việc đối đầu không có điểm dừng với việc cân nhắc bối cảnh quốc tế và các cuộc đàm phán cấp cao với Hoa Kỳ.”

“Việc Trung Quốc thả 13 ngư dân Việt Nam là một dấu hiệu nữa cho thấy Trung Quốc giờ đây đang chuyển từ đối đầu sang bàn cờ chính trị,” ông nói thêm.

Về phía các nước Asean, ông Thayer cho rằng họ đều ‘thở phào’ khi thấy căng thẳng hạ nhiệt vì họ ‘không muốn đi theo Mỹ để gây sức ép với Trung Quốc’.

Về việc Trung Quốc vẫn giữ nguyên lập trường trong tranh chấp chủ quyền với Việt Nam trên Biển Đông, ông cho rằng ‘đây là điều rất rõ ràng’.

Tuy nhiên, với việc Trung Quốc muốn khẳng định chủ quyền bằng cách triển khai giàn khoan thì ông Thayer cho rằng ‘họ đã không thành công’ bởi vì gặp phải ‘phản ứng hàng ngày của Việt Nam’.

“Cả hai đều có thể cho rằng mình đã thắng,” ông nói. “Trung Quốc thì nói họ đã hoàn tất việc thăm dò cho mục đích thương mại còn Việt Nam thì nói rằng sự phản đối của họ đã khiến Trung Quốc phải dời giàn khoan.”

@bbc

Ls. Lê Công Định: Anh Huỳnh Anh Trí nói chính xác về nhà tù cộng sản

Huyền Trang thực hiện
“Tôi không có trải nghiệm về điều này vì chưa từng bị cùm trong thời gian ở tù. Tuy nhiên, hầu hết tù nhân mà tôi tiếp xúc khi ở các trại giam khác nhau đều kể với tôi đúng như anh Huỳnh Anh Trí tố cáo, vì họ đã trải qua trường hợp bị cùm do vi phạm kỷ luật của trại giam. Họ rất e ngại các cùm dính máu như vậy, nhưng không ai dám đề nghị thay đổi hay phản đối, vì sợ bị quy chụp là chống đối cán bộ quản giáo và do đó sẽ mất cơ hội được xét giảm án. Thật ra, tình trạng này có thể tránh được vì chỉ cần làm vệ sinh các cùm đó mỗi khi đã sử dụng, song dường như đấy không phải là mối bận tâm của các cán bộ quản giáo”. Luật sư Lê Công Định bình luận về câu chuyện của ông Huỳnh Anh Trí bị nhiễm HIV/AIDS trong trại giam và đã quan đời vào ngày ngày 05.07.2014, tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch – Sài Gòn.

Sau đây xin mời Quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn giữa Pv. VRNs với Luật sư Lê Công Định.

VRNs: Thưa Ls Lê Công Định, trên trang facebook cá nhân của ông, Luật sư đã viết: “Tôi xác nhận có tình trạng sử dụng một dao lam cạo râu và hớt tóc cho rất nhiều tù nhân ở các trại tạm giam và trại cải tạo mà tôi từng trải qua”. Luật sư có thể nói rõ hơn về tình trạng này được không ạ? Và ông nhận định như thế nào về việc làm này?

Ls Lê Công Định: Tôi đọc bài phỏng vấn anh Huỳnh Anh Trí về sự việc đó thấy anh nói chính xác, vì tôi đã chứng kiến tình trạng như vậy trong thời gian ở tù. Nội quy của các trại giam đều cấm sử dụng vật dụng bằng sắt trong buồng giam, đồng thời cũng cấm tù nhân nam để râu và tóc dài. Do vậy, tại các trại giam, quản giáo thường buộc tù nhân cạo râu chung để tiện quản lý, từ đó đưa đến tình trạng nhiều tù nhân phải sử dụng cùng một dao lam do trại cung cấp. Riêng ở khám Chí Hòa, nơi tôi ở trong 2 năm rưỡi, không có tình trạng này, vì dao lam bị cấm tuyệt đối, nên tù nhân phải nhổ râu bằng các dụng cụ tự chế hoặc bằng cách se chỉ, tôi nghe nói rất đau rát.

Tất nhiên, việc cấm sử dụng vật dụng bằng sắt trong buồng giam có lý do chủ yếu là tránh trường hợp tù nhân thanh toán lẫn nhau khi bất hòa, nhưng điều đó không thể biện minh cho việc duy trì tình trạng sử dụng chung một dao lam cho nhiều tù nhân, vốn nguy hiểm vì nguy cơ lây lan cao các bệnh truyền nhiễm qua đường huyết như AIDS. Ai có lương tâm cũng dễ dàng nhận thấy rằng nhiễm bệnh hiểm nghèo nhiều khi nguy hiểm hơn bị thương tích vì bạo hành, và đương nhiên người quản lý có lòng nhân đạo phải ngăn ngừa cả hai mối nguy hại như vậy cho tù nhân. Sở dĩ quản giáo của các trại giam chỉ tập trung ngăn ngừa tù nhân thanh toán lẫn nhau là vì họ không muốn chịu trách nhiệm về tình trạng mất trật tự trong trại giam, còn việc tù nhân nhiễm bệnh hay không thì dường như họ chẳng bận tâm.

VRNs: Thưa Luật sư, Ông Huỳnh Anh Trí cũng tố cáo về các cùm dơ còn rướm máu thì ông nghĩ như thế nào về điều này? Luật sư có trải nghiệm ra sao về điều này?

Ls Lê Công Định: Tôi không có trải nghiệm về điều này vì chưa từng bị cùm trong thời gian ở tù. Tuy nhiên, hầu hết tù nhân mà tôi tiếp xúc khi ở các trại giam khác nhau đều kể với tôi đúng như anh Huỳnh Anh Trí tố cáo, vì họ đã trải qua trường hợp bị cùm do vi phạm kỷ luật của trại giam. Họ rất e ngại các cùm dính máu như vậy, nhưng không ai dám đề nghị thay đổi hay phản đối, vì sợ bị quy chụp là chống đối cán bộ quản giáo và do đó sẽ mất cơ hội được xét giảm án. Thật ra, tình trạng này có thể tránh được vì chỉ cần làm vệ sinh các cùm đó mỗi khi đã sử dụng, song dường như đấy không phải là mối bận tâm của các cán bộ quản giáo.

VRNs: Thưa Luật sư, ông là đã từng trải qua các nhà tù cs VN thì quan điểm của ông như thế nào về câu chuyện của ông Huỳnh Anh Trí bị nhiễm HIV/AIDS trong trại giam?

Ls Lê Công Định: Thật ra việc anh Huỳnh Anh Trí bị nhiễm HIV/AIDS trong trại giam chưa thể xác quyết về phương diện bằng chứng vì nhiều lẽ, nhất là trong thời gian bị giam cầm anh không được chăm sóc y tế đầy đủ và không được xét nghiệm cần thiết để phát hiện và chữa bệnh. Nên bây giờ người ta có thể nêu nhiều giả thuyết về khả năng nhiễm bệnh để chối phăng đi. Tuy nhiên, theo tôi việc anh Trí bị lây nhiễm trong khi ở tù có thể tin được, nếu xét thời gian phát bệnh, ra tù và qua đời.

Khi ở trong tù tôi cũng e ngại việc lây nhiễm bệnh xảy ra với mình và ngay từ đầu tôi luôn để tâm ngăn ngừa mọi khả năng như thế. Sau khi ra tù, điều đầu tiên tôi làm là kiểm tra sức khỏe và thực hiện mọi xét nghiệm cần thiết tại một bệnh viện tin tưởng. May mà sức khỏe tôi tốt, thậm chí hơn cả thời gian trước khi bị bắt, do tôi ăn uống điều độ, thường xuyên tập luyện thể dục và điều quan trọng là sống ung dung tự tại trong tù.

Nói như vậy không có nghĩa là tôi đã được chăm sóc y tế tốt hay đặc biệt trong tù. Khi bị bệnh tôi cũng chỉ được cấp thuốc như các tù nhân khác, mà thuốc được cấp thì chất lượng không bảo đảm và thường bị thiếu, muốn nhờ gia đình gửi riêng vào thì họ không cho với lý do không rõ nguồn gốc. Chỉ riêng thuốc trị cao huyết áp mà tôi uống hàng ngày gia đình mới được phép gửi, do trại giam không có loại phù hợp với tôi, nhưng việc gửi vào lại rất phiền toái bởi lắm thủ thủ tục này nọ nhằm gây khó khăn. Vì vậy, cách duy nhất bảo vệ mình là tập thể dục và giữ vệ sinh.

VRNs: Để tránh những chuyện đau lòng khác có thể xảy ra, vậy thưa Luật sư, chúng ta nên làm gì để có thể cải thiện chế độ lao tù cũng như chế độ chăm sóc y tế cho các tù nhân, tù thường phạm là những người đang bị đối xử ngược đãi, bị mất nhân quyền và nhân phẩm?

Ls Lê Công Định: Thật khó có thể làm gì để cải thiện chế độ lao tù cũng như chăm sóc y tế cho các tù nhân, đơn giản vì chính quyền kiểm soát việc này mà không ai có quyền góp ý kiến. Chẳng hạn, hồi tôi sống tại trại Chí Hòa, buồng giam tôi ở đặt ngay gần một ống dẫn nước thải hôi thối nồng nặc 24/24 giờ. Có nhiều đêm đang ngon giấc tôi đã phải bật dây vì mùi xú uế độc hại xông thẳng vào mũi khiến mình có cảm giác chết ngạt. Tôi nhiều lần yêu cầu cán bộ quản giáo sửa chữa, thì họ viện lý do cơ sở vật chất đã cũ và xuống cấp nên không thể khắc phục. Mãi đến khoảng hơn 1 tháng trước khi tôi được trả tự do, họ mới cho sửa chữa lấy lệ, nhưng mùi hôi thối thì đâu vẫn hoàn đấy. Trong 2 năm rưỡi hít thở bầu không khí ô nhiễm suốt ngày đêm và gần 4 năm tắm giặt bằng nước giếng không qua xử lý, tôi tự hỏi phải chăng sức chịu đựng bền bỉ đã giúp tôi vượt qua nghịch cảnh ấy? Vậy nhưng lúc nào người ta cũng “leo lẻo” rằng tôi đã được đối xử đặc biệt và nhiều ưu ái.

Ngoài ra, cần phải nói đến việc tù nhân bị chửi mắng và đánh đập. Tất cả các trại giam mà tôi trải qua đều có tình trạng này ở mức độ nghiêm trọng. Có hay không lý do, tù nhân đều có thể bị đánh chửi. Chẳng hạn, tôi từng chứng kiến điều tra viên và cán bộ quản giáo đánh người khi không cung khai đầy đủ hoặc vi phạm kỷ luật. Tù nhân đang thi hành án bị bệnh đề nghị khám sức khỏe có thể bị mắng là kiếm cớ trốn lao động. Ở khám Chí Hòa, việc sỉ nhục tù nhân là “trâu”, “chó” là điều bình thường mà tôi thường xuyên nghe thấy, thậm chí có cán bộ, mà tôi không tiện nói tên, gọi tù nhân là những “con thú tù”. Có lần tôi phản ứng trước việc một cán bộ quản giáo trẻ tuổi đánh chửi một tù nhân lớn tuổi, thế là từ đó có chỉ đạo ngầm từ ban chỉ huy rằng quản giáo không nên đánh chửi tù nhân trước mặt tôi. Nhìn tù nhân bị chửi mắng và đánh đập, tôi không nghĩ họ được đối xử như con người khi sa chân vào chốn lao tù. Riêng tôi chưa bị đối xử như vậy vì thái độ cư xử của tôi luôn ôn hòa, từ tốn và không dễ bị khiêu khích một cách cố ý từ ai.

Cám cảnh thân phận của các tù nhân nói chung mà tôi từng trải qua, chứng kiến và nghe kể lại, tôi đã làm bài thơ sau đây để diễn đạt nỗi lòng và nỗi xót thương tận cùng của mình:

Phận mọn “thú tù” thua thú vật,

Đổi cơm cày nặng ách trâu bò.

Cãi lời quản giáo ngang nhiên đánh,

Phạm lỗi gia đình tốn kém lo.

Ngã bệnh cắn răng đau mắng chửi,

Muốn yên học nhẫn chịu dày vò.

Giữa trần địa ngục nay tin có,

Vàng mã nhân quyền giấy hóa tro!

(Làm tại khám Chí Hòa năm 2012)

VRNs: Xin chân thành cám ơn Ls Lê Công Định

Xin nhắc lại, trước khi Tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí qua đời, ông đã can đảm công bố cho công luận biết ông đã bị nhiễm HIV/ AIDS trong thời gian bị giam cầm. Ông Trí khẳng định, ông bị nhiễm HIV/ AIDS qua đường máu với các bằng chứng sống động và thực như các cán bộ trại giam bắt các tù nhân, tù thường phạm phải sử dụng chung 1 con dao lam để cạo râu, cắt tóc… đặc biệt là các tù nhân, tù thường phạm bị “kỷ luật” mà “không biết điều” thì sẽ bị cùm những cùm dơ bẩn, vẫn còn rướm máu thịt của những người bị nhiễm HIV/AIDS đã bị cùm trước đó.

Ông Trí mãn hạn tù vào tháng 12.2013. Thời gian này, sức khỏe ông càng ngày càng nguy kịch. Vào tháng 5.2014, ông Trí đi xét nghiệm máu ở bệnh viện Pasteur cho kết quả dương tính với HIV/ AIDS và đã chuyển sang giai đoạn cuối là giai đoạn AIDS.

Ông Trí khẳng định, trước khi vào nhà tù, ông là một người khỏe mạnh nhưng sau khi mãn hạn tù ông đã mắc căn bệnh thế kỷ này. Ông Huỳnh Anh Trí quả quyết, ông bị nhiễm HIV/ AIDS là do sự ác ý và cố tình của nhà tù cs VN với chủ trương hủy diệt tính mạng các tù nhân lương tâm chính trị của nhà cầm quyền cs VN.

Huyền Trang, VRNs đặt câu hỏi

Ls Lê Công Định viết trả lời