Đọc cuối tuần – Alexander Solzhenitsyn – Đừng sống bằng sự dối trá

Alexander Solzhenitsyn
Alexander Solzhenitsyn

Tạp chí Phía Trước

Đã có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ thì chúng ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Viện Khoa Học hút thuốc gặp nhau thì cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng: Chúng đang giở trò gì đây? Chúng còn xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ trụ. Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ – rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.

Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?

Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế – miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí.

Chúng ta chỉ sợ tụt lại phía sau đàn và phải bước đi một mình và đột nhiên thấy mình không có bánh mì ăn, không có lò sưởi ấm và không có một đăng ký hộ khẩu Moscow. Chúng tai đã được tuyên truyền trong các khóa học chính trị, và theo cùng một cách giống hệt nhau, đã được bồi dưỡng các ý tưởng sống yên thân, và mọi thứ sẽ tốt đẹp trong phần còn lại của cuộc đời. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội. Cuộc sống hàng ngày định hình ý thức. Cái đó có liên quan gì với chúng ta? Chúng ta có thể làm gì với nó?

Được chứ, được tất cả là đàng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.

Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đã thấy rùng mình: ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.

Bây giờ cái rìu đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối. Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chú

Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.

Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối tra về làm đồng minh – vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.

Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.

Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.

Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.

Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.

Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.

Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.

Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.

Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:

• bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;

• không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;

• không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;

• không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;

• không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;

• không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;

• không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;

• lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;

• không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.

Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.

Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.

Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần.

Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.

Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.

Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao?

Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.

Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.

Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.

Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:

“Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”

Thái Phục Nhĩ dịch
Alexander Solzhenitsyn, The Washington Post

Nhường vấn đề tranh chấp biển Đông cho… Mỹ

Mạnh Kim
10522057_662129500508736_5346951400862329546_n.png
Việc Thượng viện Mỹ thông qua Nghị quyết “S.Res.412” ngày 10-7-2014, xảy ra trong bối cảnh Ngoại trưởng John Kerry vừa đến Bắc Kinh dự cuộc họp Đối thoại Kinh tế và Chiến lược Hoa Kỳ-Trung Quốc, là bằng chứng nữa cho thấy mức độ rắn tăng dần của Mỹ đối với Trung Quốc. Cần nói rõ, “S.Res.412” là nghị quyết được đưa ra trình Thượng viện ngày 7-4-2014 và nó được soạn trên tinh thần nhấn mạnh sự ủng hộ của Chính phủ Mỹ về tự do hàng hải cũng như việc tuân thủ luật pháp quốc tế về việc sử dụng vùng biển và không gian tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chứ chẳng phải “chờ” đến sự kiện giàn khoan HD-981 (1-5-2014) mới bắt đầu được soạn, dù rằng nội dung “S.Res.412” đã được điều chỉnh vào ngày 20-5-2014 trong đó có cập nhật sự kiện giàn khoan. Nói vậy để thấy nhân tố Trung Quốc đã làm nóng nghị trường Mỹ lâu nay rồi, bất chấp có sự kiện giàn khoan hay không. Diễn giải rằng Thượng viện Mỹ “ủng hộ Việt Nam” bằng “S.Res.412” là không đúng. Mỹ chẳng việc gì “ủng hộ Việt Nam” cả khi Việt Nam không hề có vẻ gì cần đến Mỹ!“S.Res.412” chỉ là một bước tiếp theo trong tiến trình Mỹ “đánh” Trung Quốc bằng ngoại giao. Đó là một thể hiện nữa của cuộc so găng tranh giành vị thế khu vực giữa hai anh lớn Mỹ-Trung. Các động thái leo thang ào ạt bằng chiến lược đánh chiếm cực nhanh khiến khu vực lẫn Mỹ không kịp thở của Trung Quốc đã buộc Washington phải đạp ga tăng tốc. Diễn biến từ đầu năm đến nay, về việc Mỹ liên tiếp cáo buộc Trung Quốc bằng ngôn ngữ dứt khoát hơn, đã cho thấy điều đó. Nói cách khác, làm gì thì làm, Mỹ không thể bỏ châu Á-Thái Bình Dương cho Trung Quốc.Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ, nhiều nước khu vực, nắm được tâm lý này, đã lợi dụng chính sách trên của Mỹ để đẩy một phần chính sách đối ngoại của quốc gia mình, đặc biệt vấn đề tranh chấp biển Đông, cho… Mỹ! Chẳng việc gì phải nghiêng hẳn về phía Mỹ cho rách việc! Trước sau gì Mỹ nóng ruột quá thì cũng nhào vô! Lối hành xử như vậy thật ra chỉ giúp “mua thời gian” trong ngắn hạn thôi. Đến lúc “quỹ thời gian” cạn rồi thì làm gì? Cần phải nhấn mạnh rằng, chính sự không dứt khoát của nhiều nước khu vực đã khiến Trung Quốc có quá nhiều thuận lợi để thực hiện chính sách bành trướng. Nước Mỹ đã báo động lâu rồi, từ khi Obama mới lên ghế tổng thống kìa, nhưng sự phản hồi từ nhận thức mối đe dọa Trung Quốc mà Mỹ nhận được của khu vực là quá ít. Trong khi đó, chính sách Obama là quá rõ: chỉ chơi với những tay có thái độ rõ ràng, như Myanmar hoặc Philippines. Gút lại, Mỹ không thể và không bao giờ bỏ châu Á. Họ đang cần sự ủng hộ khu vực để làm được điều đó. Một liên minh chống Trung Quốc đang hình thành. Thậm chí Washington còn có thể đang mượn tay Nhật để móc cả Bắc Triều Tiên về phía mình. Một khi liên minh đó trở nên gắn kết rộng và sâu hơn, Mỹ sẽ chẳng còn cần những anh trước nay chỉ đứng vòng ngoài dòm ngó xem tình hình thế nào. Lúc đó, cần Mỹ thì đã muộn, hoặc phải trả bằng cái giá khác hơn bây giờ!

Trung Quốc cố tình quên vai trò chủ đạo của Mỹ trong khu vực

 Hội thảo quốc tế lần thứ 4 về biển Đông tại Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu quốc tế ở Washington DC bắt đầu ngày 10 tháng 7 năm 2014. RFA photo   Mở đầu ngày thứ hai buổi hội thảo biển Đông tại Trung Tâm Chiến lược Ảnh RFA

Hội thảo quốc tế lần thứ 4 về biển Đông tại Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu quốc tế ở Washington DC bắt đầu ngày 10 tháng 7 năm 2014.
RFA photo
Việt Hà, phóng viên RFA
2014-07-11

Mở đầu ngày thứ hai buổi hội thảo biển Đông tại Trung Tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế là bài phát biểu quan trọng của Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ, ông Michael Fuchs. Bài phát biểu của đại diện chính phủ Mỹ một lần nữa nhấn mạnh sự quan tâm của Mỹ tới khu vực này và vai trò dẫn dắt của Mỹ nói chung. Ông Michael Fuchs cũng cho rằng Trung Quốc đã dường như quên mất vai trò chủ đạo quan trọng của Mỹ khi Trung Quốc cố tình thực hiện những hành động mà ông gọi là gây hấn:

Có người gọi Hoa Kỳ là kẻ bên ngoài và bảo chúng tôi là không nên can thiệp vào các vấn đề khu vực. Nhưng họ quên mất một thực tế là nhiều thập kỷ qua Hoa Kỳ đã là một cường quốc khu vực Thái Bình Dương. Sự ổn định thống nhất của khu vực này là quyền lợi của chúng tôi. Những gì diễn ra ở đây cũng ảnh hưởng đến Mỹ. Họ lờ đi nhu cầu ngày một tăng từ các đồng minh và đối tác của Mỹ trong khu vực đối với sự hiện diện và can thiệp của Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương. Mỹ muốn tham gia một cách sâu hơn vào khu vực này trong tương lai.

Hoa Kỳ không thể áp đặt giải pháp với vấn đề này. Những nước có liên quan cần phải tìm ra cách tốt nhất để giải quyết vấn đề một cách hòa bình và theo đường lối ngoại giao.
– Ông Michael Fuchs

Theo ông Michael Fuchs, việc Mỹ can dự vào tranh chấp biển Đông, khiến các nước tuân thủ luật quốc tế cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ quyền lợi của Mỹ tại khu vực này. Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ cũng nói đến những việc mà Mỹ đã thực hiện trong suốt thời gian qua để góp phần làm giảm căng thẳng tại khu vực này bao gồm đối thoại và hợp tác với Trung Quốc, ASEAN, giúp đỡ các nước như Philippines, Việt Nam xây dựng khả năng bảo vệ biển, củng cố vị thế của Mỹ trong khu vực, thúc đẩy các bên tiến tới đạt được bộ quy tắc về ứng xử của các bên trên biển Đông (COC).

Biện pháp giải quyết tranh chấp được ông Michael Fuchs đưa ra bao gồm việc ngưng ngay lập tức các hành động đang tiến hành và không thực hiện thêm bất cứ hành động nào khác để giữ nguyên hiện trạng. Theo ông đây là biện pháp cần thiết đầu tiên để giảm căng thẳng trước khi tiến tới những bước tiếp theo.

Vị đại diện chính phủ Mỹ, Michael Fuchs, cũng khẳng định Mỹ chỉ đóng vai trò là người đưa lời khuyên và không thể là người áp đặt các giải pháp:

Hoa Kỳ không thể áp đặt giải pháp với vấn đề này. Những nước có liên quan cần phải tìm ra cách tốt nhất để giải quyết vấn đề một cách hòa bình và theo đường lối ngoại giao. Nhưng trách nhiệm của chúng tôi và một số nước khác là thúc đẩy một môi trường phù hợp, những đối thoại có lợi dẫn đến giải pháp hòa bình cho vấn đề này.

Trung Quốc nói Mỹ là người gây bất ổn

_nh_1-250.jpg
Chuyên gia Bonnie Glaser thuộc Trung Tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế

Trong phần thảo luận về vai trò của Mỹ ở biển Đông, chuyên gia Bonnie Glaser thuộc Trung Tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế cho rằng thời gian qua Hoa Kỳ đã cho các nước thấy sự quan tâm của mình với những căng thẳng trong khu vực bằng những hành động cụ thể mà điển hình là tại bãi Second Thomas Shoal (hay còn gọi là bãi Cỏ Mây) do Philippines kiểm soát và tại khu vực đặt giàn khoan dầu HD 981 gần quần đảo Hoàng Sa. Chuyên gia Bonnie Glaser nói:

Một điểm cần phải chú ý là sự sẵn sàng đang tăng lên từ phía Mỹ trong việc triển khai vũ khí của mình khi căng thẳng lên cao ở khu vực Thái Bình  Dương. Chúng ta thấy trường hợp điển hình ở bãi Cỏ Mây nơi máy bay do thám của Hải quân Mỹ được triển khai đến. Gần đây nhất là vụ giàn khoan dầu của Trung Quốc gần quần đảo Hoàng Sa, Mỹ đã cho máy bay do thám P3 bay qua đây. Cho nên theo tôi đây là tín hiệu cho thấy Mỹ muốn giải pháp hòa bình và cố gắng ngăn chặn các hành động xâm lấn.

Theo bà Bonnie Glaser, vai trò quan trọng của Mỹ tại đây chính là giúp định hình việc thay đổi chính sách của Trung Quốc, qua đó làm giảm căng thẳng trong khu vực.

Một điểm cần phải chú ý là sự sẵn sàng đang tăng lên từ phía Mỹ trong việc triển khai vũ khí của mình khi căng thẳng lên cao ở khu vực Thái Bình  Dương.
– Chuyên gia Bonnie Glaser

Học giả Trung Quốc, Tiến sĩ Chu Shulong thuộc trường đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh tóm lược những ý kiến của người Trung Quốc cho rằng thực sự những căng thẳng đang diễn ra tại biển Đông là do những hành động từ Hoa Kỳ, không phải từ Trung Quốc:

Hoa Kỳ đã khiến căng thẳng lên cao tại biển Đông trong những năm gần đây….đặc biệt căng thẳng tại biển Đông đã lên cao trong 4 năm qua sau khi Hoa Kỳ chuyển trục chiến lược… Trung quốc cho rằng Hoa Kỳ đang tìm cách gây rắc rối ở biển Đông bằng việc chuyển trục chiến lược.

Theo ông Chu Shulong, Hoa Kỳ đã không công bằng khi đối xử với các nước trong khu vực, cụ thể là Hoa Kỳ đã bệnh vực Philippines và Việt Nam trong việc quốc hội Việt Nam thông qua luật biển vào năm 2012. Ông Chu Shulong cũng nói Mỹ là nước gây nhiều cuộc chiến tranh gần đây, mà điển hình là cuộc chiến Iraq còn Trung Quốc không phải là nước gây ra những cuộc chiến trên thế giới.

Trung Quốc đang có ý đồ gì tại Hoàng Sa và Trường Sa

Đáng chú ý trong ngày hội thảo cuối là bài phát biểu của cựu Phó đô đốc hải quân Nhật, Yoji Koda. Phó đô đốc Koda trình bày bài thuyết trình của mình kèm bản đồ về khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và bãi Scarborough Shoal. Theo ông, hành động xây đường băng trên đảo Gạc Ma của Trung Quốc thời gian gần đây và việc lấy bãi Scarborough Shoal từ Philippines vào năm 2012 nằm trong một chiến lược quân sự lâu dài của Trung Quốc.

Theo Phó đô đốc Yoji Koda, bãi Scarborough shoal ở một vị trí và diện tích thích hợp cho toàn bộ tàu chiến của Trung Quốc. Với việc kết hợp bãi này với sân bay và căn cứ quân sự trên đảo Phú Lâm và sân bay đang xây dựng trên đảo Gạc Ma, Trung Quốc có thể tiến tới kiểm soát toàn bộ biển Đông về mặt quân sự, kinh tế và chiến lược.

Phó đô đốc Yoji Koda nhận định Hoa Kỳ và Nhật bản đã chậm trong việc nhận ra ý đồ này của Trung Quốc nên đã không có hành động kịp thời từ năm 2012 để ngăn chặn hành động lấy bãi Scarborough Shoal của Trung Quốc.

Khía cạnh pháp lý trong vụ kiện của Philippines

paul-reichler-itlos-20131204-250.jpg
Luật sư Paul Reichler, người tư vấn pháp lý trong vụ kiện của Philippines

Luật sư Paul Reichler, người tư vấn pháp lý trong vụ kiện của Philippines cũng có một bài phát biểu được chú ý trong ngày hội thảo cuối. Luật sư Reichler lần lượt đưa ra các điểm phản bác lại những lập luận của Trung Quốc về vụ kiện này. Theo luật sư, lập luận của Trung Quốc cho rằng tòa trọng tài quốc tế không có quyền xét xử vụ kiện là không đúng vì Philippines không kiện Trung Quốc liên quan đến việc phân chia ranh giới trên biển mà chỉ liên quan đến việc giải thích những yếu tố đi kèm liên quan đến các đảo và bãi đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippine.

Mặc dù những đảo, bãi đá này nằm trong vùng lưỡi bò mà Trung Quốc vẽ ra nhưng không nằm trong vùng chồng lấn của hai nước ở phía bắc của Philippines. Vì vậy luật sư Paul Reichler tin tưởng hoàn toàn về quyền phán quyết của tòa liên quan đến vụ kiện, bất luận Trung Quốc có tham gia hay không. Theo dự kiến, phán quyết sẽ được đưa ra vào khoảng thời gian từ ngày 7 đến 18 tháng 7 năm 2015.

Sự tin tưởng và những lợi thế của Philippines trong vụ kiện cũng được nói đến trong mối tương quan với một vụ kiện tương tự khác giữa Bangladesh và Ấn Độ trong tranh chấp trên vịnh Bengal. Tòa Quốc tế hôm thứ ba đã ra phán quyết có lợi cho Bangladesh, và Ấn độ sau đó cũng đã lên tiếng hoan nghênh, chấp nhận phán quyết của tòa. Vụ kiện này được cho là một ví dụ tương tự và gần nhất với vụ kiện của Philippines với Trung Quốc, và là minh chứng cho việc giải quyết một tranh chấp lâu dài trên biển giữa hai nước láng giềng một cách hòa bình.

Hội thảo lần thứ 4 về biển Đông khép lại vào buổi trưa ngày 11 tháng 7 với phần thảo luận về các biện pháp xây dựng lòng tin. Các học giả một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của ASEAN trong việc góp phần xây dựng lòng tin giữa các bên trong tranh chấp biển Đông.

Bill Hayton – Hội chứng nhớ lầm của Trung Quốc – “China’s false memory syndrome”

     Quyển sách The South China Sea and the struggle for power in Asia (Biển Đông và cuộc đấu tranh giành quyền lực ở châu Á) của Bill Hayton sẽ được Đại học Yale xuất bản vào tháng 9-14

(Bài này (trên một tạp chí uy tín hàng đầu của Anh)  Bill Hayton là cựu phóng viên của BBC mà nhà nước Việt Nam cấm nhập cảnh vào Việt Nam
bill   vn1
Bill Hayton became a journalist by accident in 1995. He has worked for BBC News since 1998. He was the BBC’s reporter in Vietnam during 2006-7 until the Vietnamese authorities decided not to renew his visa. He then returned to the UK where he wrote his first book – Vietnam: rising dragon. Before working in Vietnam he reported from Europe and the Middle East including Iran, Yemen and the Balkans.
*********************
Bill Hayton
Huỳnh Phan chuyển ngữ

Cả nước đã được dạy sai, rằng người Trung Quốc đã phát hiện và đặt tên các đảo ở biển Đông

Biển Đông là nơi mà tham vọng của Trung Quốc (TQ), nỗi âu lo của châu Á và sức mạnh của Mỹ hội tụ nhau. Trong vùng biển của mình, TQ đã từ bỏ mọi giả vờ về “trỗi dậy hòa bình” để ngã về kiểu ngoại giao pháo hạm. Tàu cảnh sát biển vũ trang của TQ đã đâm vào tàu của đối phương Việt Nam, phong tỏa các tiền đồn của Philippines, ngăn trở các tàu khảo sát dầu của Malaysia và doạ nạt các tàu Indonesia đang bảo vệ ngư trường quốc gia. Đáp lại, tất cả các nước này đang mua vũ khí nhiều hơn và cải thiện quan hệ quân sự với chính phủ các nước khác, lo lắng với sự quyết đoán ngày càng tăng của TQ – chủ yếu là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia.

Cội rể của tất cả các rắc rối này là điều mà Bắc Kinh gọi là “yêu sách lịch sử không thể tranh cãi” chiếm tới đến 80% biển Đông: chạy thẳng từ cảng Hồng Kông tới gần sát bờ biển Borneo cách xa 1.500 km. Vấn đề với yêu sách này là không có bằng chứng đáng tin cậy nào làm chỗ dựa cho nó. Tuy nhiên, mẫu chuyện hư cấu lịch sử này đe dọa hòa bình và an ninh ở châu Á và cung cấp sàn diễn cho một cuộc đấu tranh giữa TQ và Mỹ với những tác động mang tính toàn cầu. Dường như rất khó có thể tin rằng cuộc đối đầu tiềm năng có tính huỷ diệt này lại có gốc rễ là tranh chấp về những đảo rải rác gần như hoàn toàn không thể sinh sống được.

Có hai nhóm “đảo” chính ở biển Đông. (Chỉ có một số rất ít là đảo thực sự, phần lớn chỉ là rạn san hô, bãi cát hoặc đá). Trong cụm phía bắc, quần đảo Hoàng Sa đang có tranh chấp giữa TQ và Việt Nam. Ở phía nam quần đảo Trường Sa rộng hơn nhiều do TQ, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines đòi hỏi chủ quyền. Hầu hết những chỗ hoang vắng này đều có tên tiếng Anh, thường do các tàu và các nhân viên trên tàu vẽ ra bản đồ các đảo này tặng cho tên riêng. Richard Spratly là một thuyền trưởng tàu săn cá voi đã phát hiện hòn đảo có tên ông vào năm 1843, tàu HMS Iroquois cho tên của mình cho đá Iroquois (bãi Amy Douglas) trong khi làm công việc khảo sát trong thập niên 1920, và cứ thế tiếp tục…

Khi một ủy ban của chính phủ TQ lần đầu đặt tên tiếng Trung cho các đảo vào năm 1935, mọi việc họ làm là dịch hoặc phiên âm các tên tiếng Anh đang có. Ví dụ, ở quần đảo Hoàng Sa, đá Antelope Reef (Hải Sâm) trở thành Lingyang (羚羊: linh dương = antelope) và ở quần đảo Trường Sa, North Danger Reef (đá Bắc) trở thành Beixian (北崄: bắc hiểm [nguy hiểm phía bắc = north danger], đảo Spratly (Trường Sa đã trở thành Si-ba-la-te-li – 斯普拉特利phiên âm tên tiếng Anh)(1). Uỷ ban TQ chỉ việc sao y các bản đồ, các sai sót và mọi thứ của Anh. Các tên này sau đó được xem xét chỉnh lại hai lần. Bãi cạn Scarborough, được đặt tên theo tên một tàu của Anh vào năm 1748, được phiên âm là Si ka bo lei jiao (斯卡伯勒礁 –Tư ca bá lặc tiều) vào năm 1935, đổi tên thành Min’zhu Jiao (民主礁- Dân chủ tiều [đá Dân chủ]) của nước THDQ vào năm 1947 và sau đó được CHNDTH đặt tên ít nhạy cảm chính trị hơn là Huangyan (黄岩岛 – Hoàng Nham [đá màu vàng]) vào năm 1983.

Hiện nay, chính quyền TQ dường như hoàn toàn không biết về điều này. Việc biện hộ khuôn mẫu chính thức về chủ quyền “không thể tranh cãi” của TQ đối với biển Đông bắt đầu bằng cụm từ “người TQ là những người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo Nam Sa”. Trên thực tế, “người TQ” chỉ sao chép các tên này từ người Anh. Ngay cả từ “Nam Sa” (có nghĩa là “cát phía Nam”) cũng đã chạy vòng quanh trên bản đồ TQ. Năm 1935 tên này đã được sử dụng để mô tả các khu vực biển cạn, được biết tên tiếng Anh là “Macclesfield Bank” (lại theo tên một tàu khác của Anh). Năm 1947, tên Nam Sa đã được chuyển về phía nam trên bản đồ TQ để chỉ quần đảo Trường Sa.

Một cuộc xem xét đầy đủ mỗi biện minh mà phía TQ đưa ra sẽ tốn nhiều trang giấy nhưng đủ để nói rằng chưa hề thấy có bằng chứng khảo cổ học nào về việc có tàu TQ chạy trên biển này trước thế kỷ 10. Cho đến thời điểm đó, tất cả việc giao thương và khai thác đều do các tàu thuyền Malaysia, Ấn Độ và Ả Rập thực hiện. Các tàu này có thể, vào lúc này lúc khác, có chở khách TQ. Các chuyến đi được bàn luận nhiều của các “đô đốc thái giám” TQ kể cả Zheng He (Trịnh Hoà), kéo dài tổng cộng khoảng 30 năm, cho đến thập niên 1430. Sau đó, mặc dù các thương nhân và ngư dân chạy tàu thuyền tới lui vùng biển này, nhà nước TQ không bao giờ đến các vùng biển sâu lần nào nữa cho mãi đến khi chính phủ Quốc dân đảng được Mỹ và Anh tặng cho một số tàu thuyền vào cuối Đệ Nhị Thế chiến.

Lần đầu tiên quan chức chính phủ TQ đặt chân lên một đảo thuộc quần đảo Trường Sa là ngày 12 tháng 12 năm 1946, vào thời điểm đó cả hai đế quốc Anh và Pháp đã đưa ra các tuyên bố chủ quyền ở vùng biển này. Một phái đoàn TQ cấp tỉnh đã đến quần đảo Hoàng Sa một vài thập niên trước đó vào ngày 6 tháng 6 năm 1909, thực hiện điều có vẻ như là một cuộc thị sát trong một ngày, nhờ hai thuyền trưởng Đức mượn của hãng buôn Carlowitz dẫn đường. Nhiều đối đầu quốc tế phát xuất từ tuyên bố đơn sơ này.

Đây là bức tranh toàn cảnh lịch sử hiện ra từ các nghiên cứu độc lập tốt nhất. Nhưng khi nói điều này cho bất kỳ người TQ nào nghe, thì họ sẽ phản ứng với sự ngờ vực. Từ phòng học đến sảnh đường ngoại giao, một ký ức chính thức về chủ quyền của TQ trên biển đã trở thành một thực tế được xác lập. Làm sao mà một ý thức quốc gia về quyền được hưởng đối với biển Đông lại phát triển rất mạnh từ một nền móng lung lay như vậy?

Câu chuyện có thể bắt đầu với cuộc chiến tranh nha phiến lần một vào năm 1840 và điều mà bây giờ người TQ gọi là “thế kỷ quốc sỉ (thế kỷ nhục nước)” tiếp sau đó. TQ rõ ràng gánh chịu đau thương dưới bàn tay của đế quốc phương Tây và Nhật Bản. Hàng ngàn người bị giết, nhiều thành phố đã bị thuộc địa hoá và chính phủ rơi vào vòng nợ nần các ngân hàng quốc tế.

Nhà địa lý William Callahan và những người khác đã vạch ra cách mà phe Quốc dân đảng (QDĐ) và Cộng sản, như là một phần của cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài, đã cố tình gieo trồng một ý thức về vi phạm lãnh thổ để động viên nhân dân như thế nào. Từ những năm 1900 trở đi, các nhà địa lý của TQ như Bai Meichu (Bạch Mi Sơ), một trong những người sáng lập Hội Địa lý TQ, bắt đầu vẽ các bản đồ cho công chúng TQ thấy các nước đế quốc đã xâu xé lãnh thổ TQ tới mức nào.

Những “bản đồ quốc sỉ” này cho rằng lãnh thổ hợp lẽ của TQ bao gồm tất cả các nước chư hầu trước kia đã từng triều cống hoàng đế Trung Hoa. Các bản đồ này bao gồm bán đảo Triều Tiên, nhiều vùng rộng lớn của Nga, Trung Á, Hymalaya, và nhiều khu vực Đông Nam Á. Các đường được vẽ trên các bản đồ để đối chiếu các khu vực rộng lớn của đế quốc xưa với tình trạng teo lại của đất nước này. Tai hại là sau khi ủy ban chính thức của TQ đổi tên các đảo trên biển Đông vào năm 1935, một trong những đường này đã được vẽ ra vòng quanh biển này. Đây là điều mà bây giờ được gọi là đường “chữ U” hoặc “9 vạch” choán 80% biển Đông và tất cả các đảo bên trong nó. Tai nạn bản đồ đó, dựa trên việc đọc sai lịch sử Đông Nam Á, lại là cơ sở cho yêu sách chủ quyền hiện tại của TQ.

TQ rõ ràng gánh chịu sự sỉ nhục dưới bàn tay của người nước ngoài độc đoán nhưng nhà nước hiện đại nổi lên từ đống đổ nát của nhà Thanh và các cuộc nội chiến sau đó đã tìm thấy niềm an ủi trong những ghi nhớ sai lầm vốn ít liên quan đến những gì thực sự xảy ra. Như bất kỳ người nào đi xem triển lãm “Con đường hồi sinh” mới tại Bảo tàng Quốc gia TQ ở quảng trường Thiên An Môn sẽ thấy ra, hội chứng nhớ lầm này là một thành phần cốt lỏi trong huyền thoại làm nên tính chính đáng của Đảng Cộng sản: huyền thoại đảng cứu đất nước thoát khỏi sỉ nhục.

Các viện nghiên cứu và các ủy ban của chính phủ Quốc dân Đảng trong nửa đầu thế kỷ 20 đã để lại Đảng Cộng sản một “lịch sử chính thức” sai lầm có thể chứng minh được. Chính điều này, chứ không phải là mối đe dọa của đám đông theo chủ nghĩa dân tộc trên đường phố làm cho tranh chấp Biển Đông rất khó giải quyết và nguy hiểm. Nhưng nếu thừa nhận sự sai trái của nó, sẽ loại bỏ một nền tảng cốt lỏi vị thế của Đảng trong đỉnh cao của xã hội TQ.

Rủi thay, không có cách dễ dàng nào khác cho xung đột đang tiếp diễn trên biển Đông. Không bên nào muốn kích động một cuộc xung đột hoàn toàn nhưng không ai sẵn sàng giảm bớt căng thẳng bằng cách điều chỉnh yêu sách lãnh thổ phải chăng hơn. Một số quan chức TQ đã bí mật thừa nhận sự vô lý về pháp lý của việc duy trì yêu sách “đường chữ U” này. Nhưng cũng chính những quan chức này lại nói rằng họ không thể chính thức điều chỉnh yêu sách này vì những lý do chính trị (sự chỉ trích trong nước sẽ rất lớn). Thế thì làm thế nào để có thể thuyết phục người dân TQ có một cái nhìn khác về lịch sử biển Đông?

Có lẽ câu trả lời nằm ở Đài Loan. Các cơ hội cho một cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử TQ ở Đài Loan lớn hơn ở đại lục rất nhiều. Hiện đã có một số học giả “bất đồng chính kiến” đang xem xét lại các khía cạnh của lịch sử thế kỷ 20. Đài Loan cũng là nơi các văn thư của THDQ, chính phủ vẽ nên “đường chữ U” lần đầu, được lưu trữ. Một cuộc kiểm tra thấu đáo và mở rộng quá trình lộn xộn mà theo đó đường này được vẽ ra có thể thuyết phục những người làm ra dư luận phải xem xét lại một số huyền thoại của Quốc dân Đảng mà từ lâu họ đã tuyên bố như là chân lý trong kinh.

Có lẽ lý do mạnh nhất để bắt đầu tại Đài Loan là chính quyền Bắc Kinh sợ rằng bất kỳ sự nhượng bộ nào họ có thể đưa ra, sẽ bị lớn tiếng chỉ trích tại Đài Bắc. Nếu nhà chức trách ở đó muốn xuống thang sự xung đột do việc chép sử trên biển Đông, thì sẽ dễ dàng hơn nhiều để chính quyền Bắc Kinh làm tương tự như vậy. Chìa khóa cho một tương lai hòa bình ở châu Á nằm trong việc xem xét trung thực và có tính phê phán quá khứ.

_______________

(1) Lưu ý rằng đối với âm R người Hoa thường chuyển thành âm L (ví dụ: Roma –> Luó Mă [La Mã], Rousseau–> Lú Suō [Lư Thoa]… mới thấy Si-pu-la-te-li [tư phổ lạp đặc lợi – 斯普拉特利] là phiên âm của S-p-ra-t-ly, hoặc Pai-la-su [phách lạp tô – 柏拉苏] là Pa-ra-cel… Qua đó cũng thấy khi chuyển thêm qua âm Hán Việt thì thường là cách biệt quá xa so với âm gốc như mấy ví dụ vừa nêu