Vai trò của kiều hối trong tinh tế Việt Nam

Hình Ngân hàng thế giới

Kiều hối là ngoại tệ chuyển về Việt Nam do những người sinh sống ở nước ngoài như những người tị nạn Cộng Sản hay những người làm việc ở nước ngoài như những công nhân xuất khẩu lao động. Kiều hối giúp cải thiện mức sống của người dân và giữ một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế sở tại.

Bài phân tách này sẽ lần lượt trình bầy về một số vấn đề như số lượng kiều hối Việt Nam nhận được và tầm quan trọng của kiều hối trong nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, bài viết này cũng sẽ phân tách lý do giúp cho số lượng kiều hối gia tăng và việc sử dụng kiều hối ở Việt Nam.

Số lượng kiều hối

Số lượng kiều hối tăng không ngừng trong hơn 10 năm qua, từ 1.3 tỉ Mỹ kim vào năm 2000 lên đến 11 tỉ Mỹ kim vào năm 2013, ngoại trừ năm 2009 bị sút giảm 11.5% so với năm trước do cuộc khủng hoảng tài chánh 2008-2009 theo báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới. Trong ba năm vừa qua, số lượng kiều hối vào Việt Nam tăng khoảng 1 tỉ Mỹ kim mổi năm. Theo một dự đoán của chi nhánh Ngân Hàng Nhà Nước tại Saigon, kiều hối sẽ có thể gia tăng 20% trong năm 2014. 1/ Hiện nay có 4.5 triệu người Việt đang sinh sống tại trên 100 quốc gia trên thế giới. Ngoài ra có khoảng nửa triệu công nhân Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, đặc biệt là Mã Lai, Đài Loan, Nhật và Đại Hàn qua chương trình xuất khẩu lao động.

Phần lớn số lượng kiều hối Việt Nam nhận được phát xuất từ Hoa Kỳ, Canada, và Pháp và chuyển về cho những người sanh sống ở thành thị, đặc biệt là Saigon. 2/ Một nghiên cứu khác cho thấy rằng khoảng trên 50% số lượng kiều hối gửi về Việt Nam phát xuất từ Hoa Kỳ. 3/ 4/

Phần đông công nhân xuất khẩu lao động xuất thân từ thôn quê. Do đó, số lượng kiều hối do công nhân gửi từ các nước Á châu về thôn quê tương đối ít so với số lượng kiều hối do Việt kiều chuyển từ các nước Tây phương về thành thị. Nhưng số lượng này có khuynh hướng gia tăng. Các vùng nhận kiều hối được mở rộng đến các tỉnh nhỏ và khu vực thôn quê nơi tập trung gia đình có công nhân xuất khẩu lao động như Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, v.v.

Tầm quan trọng của kiều hối

Trong 12 nước có số lượng kiều hối từ 10 tỉ Mỹ kim trở lên vào năm 2013, Ấn Độ dẫn đầu với 70 tỉ Mỹ kim, tiếp theo là Trung Quốc với 60 tỉ Mỹ Kim, Phi Luật Tân với 25 tỉ Mỹ Kim. Việt Nam đứng hạng 10 với 11 tỉ Mỹ kim, tương đương khoảng 7.1 % của tổng sản phẩm nội địa, bằng 1/3 số lượng ngoại hối dự trữ của Việt Nam vào năm 2013 (33 tỉ Mỹ kim), lớn hơn cả vốn đầu tư nước ngoài (10.5 tỉ Mỹ kim) và tiền viện trợ chinh thức để phát triển ODA thực (net official Development Assistance) (4.1 tỉ Mỹ kim cho năm 2012). 5/ Số lượng kiều hối xem ra nhập vào Việt Nam đều đặn hơn là vốn đầu tư nước ngoài. Kiều hối một nguồn ngoại tệ quan trọng, một số tiền viện trợ lớn không phải hoàn lại và không phải chịu một chi phí nào cả.

Hình (CAMSA): Công nhân bị bóc lột ở Jordan trở về Việt Nam.

Vào năm 2011, cán cân vãng lai (current account balance) của Việt Nam từ tình trạng thiếu hụt lần đầu tiên trở nên trở nên thặng dư với con số khiêm nhường là 236 triệu Mỹ kim. Con số này đã tăng lên đến 2.6 tỉ Mỹ kim vào năm 2013. Một phần nhỏ nhờ vào thặng dư về cán cân thương mại (trade balance) 3.3 tỉ Mỹ kim, nhưng phần lớn hơn nhờ thặng dư về tài khoản chuyển nhượng vãng lai dòng (net current transfer) 9.1 tỉ Mỹ kim trong đó có 11 tỉ kiều hối chuyển vào Việt Nam. 6/

Số lượng ngoại tệ do kiều hối mang về rất cần thiết đối với Việt Nam để thanh toán hàng hóa nhập khẩu và các dịch vụ thương mại. Ngoài ra nó còn giúp ổn định tỷ giá (hối suất). Nếu ngoại tệ khan hiếm, đồng bạc Việt Nam sẽ mất giá, tỷ giá của VNĐ đối với ngoại tệ sẽ lên cao và làm tăng lạm phát.

Mặc dầu ngoại tệ có giá trị hơn đồng Việt Nam, nhưng không phải những người nhận đều lãnh ngoại tệ. Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam cho biết, tỉ lệ kiều hối chuyển sang VNĐ tại ngân hàng này lên đến 25% trong 2013, một phần vì tỷ giá của VNĐ ổn định.

Lý do giúp cho kiều hối gia tăng

Một yếu tố giúp cho sự gia tăng kiều hối là số người Việt vẫn tiếp tục ra nước ngoài qua chương trình đoàn tụ gia đình và qua chương trình xuất khẩu lao động. Số công nhân Việt Nam làm việc ở nước ngoài từ khoảng 30,000 người vào năm 2000 đã lên đến 500,000 người vào năm 2013. Kể từ năm 2015, công nhân trong các nước thuộc khối Động Nam Á (Association of South East Asian Nations – ASEAN) có thể tự do đi lại và làm việc ở trong vùng, do đó sẽ làm số kiều hối tăng lên. 7/

Một yếu tố quan trọng khác là sau nhiều năm đầu thử nghiệm Việt Nam đã rút tỉa ra một chính sách cởi mở nhắm thu hút kiều hối bao gồm một số biện pháp cần thiết như không hạn chế số lượng kiều hối, cho phép nhận và trả bằng ngoại tệ. Người nhận không bị bắt buộc phải gửi vào chương mục tiết kiệm hay bán ngoại tệ cho ngân hàng và không phải trả thuế thu nhập trên số kiều hối. Ngoài ra, sự chênh lệch về lãi suất áp dụng đối với tiền Việt Nam và ngoại tệ ở Việt Nam cũng là một yếu tố thu hút kiều hối.

Yếu tố thứ ba là người Việt ở nước ngoài về thăm Việt Nam, mua nhà ở hay đầu tư được dễ dàng hơn trước. Dịch vụ chuyển tiền phát triển rộng rãi ở trong nước cũng như ở hải ngoại với nhiều công ty và chi nhánh chuyển tiền với sự cộng tác của các ngân hàng, một phần nhờ chánh sách cho phép mọi thành phần kinh tế được tham gia vào việc chuyển tiền. Thủ tục chuyển tiền khá giản di và nhanh chóng. Thông thường chỉ trong vòng 24 giờ là người ở Việt Nam nhận được tiền kể cả ở vùng quê. Chi phí chuyển tiền qua công ty thương mại và ngân hàng tiếp tục giảm do cạnh tranh rất cao. Thí dụ lệ phí chuyển 100 Mỹ kim từ Hoa Kỳ qua một công ty chuyển tiền ở vủng Virginia về Việt Nam là 2 Mỹ kim và từ 300 Mỹ kim lệ phí là 1.5 Mỹ kim cho mỗi 100 Mỷ kim chuyển đi.

Kiều hối được sử dụng như thế nào?

Theo cuộc nghiên cứu của Nguyễn Việt Cường và Daniel Mont xuất bản vào 2012 đã đề cập đến ở trên, phần lớn kiều hối chuyển vào Việt Nam được dùng vào việc mua bán nhà, đất, trả nợ và tiết kiệm. Một phần nhỏ được dùng để mua những sản phẩm công nghiệp. Ngoài ra, cuộc nghiên cứu tìm thấy rằng kiều hối không được dùng vào việc sản xuất cũng như tiêu thụ hàng ngày và ảnh hưởng đối với giảm nghèo về mặt tiêu thụ rất giới hạn, ít nhất trong ngắn hạn.

Một cuộc nghiên cứu khác của Vân Phượng Hoàng và Elisabetta Magnani thuộc University of New South Wales xuất bản vào 2012 cũng có một kết luận tương tự rằng số lượng kiều hối từ nước ngoài do Việt kiều gửi về không có ảnh hưởng đến việc phát triển thương mại. Trái lại, những số tiền của công nhân sống ở Việt Nam nhưng xa gia đình hay làm việc ở nước ngoài trong chương trình xuất khẩu lao động gửi về quê quán đã giúp cho thân nhân xây dựng cơ sở làm ăn. 8/

Một phúc trình của Ủy Ban Giám Sát Tài Chánh Quốc Gia dựa trên việc khảo sát 4,000 hộ nhận kiều hối vào năm 2011 cho thấy 52% lượng kiều hối được đầu tư vào bất động sản. Tiếp theo là tiết kiệm và tiêu dùng. Theo thống kê của chi nhánh Ngân Hàng Nhà Nước tại Saigon, số lượng kiều hối đầu tư vào bất động sản đã giảm xuống 23% vào năm 2012 và 21% trong 10 tháng của năm 2013. Ngược lại, tỉ lệ kiều hối đầu tư vào lãnh vực kinh doanh gia tăng. 9/

Kết luận

Kiều hối là một nguồn ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả khi có cuộc khủng hoảng kinh tế, so với những nguồn tài chánh khác như đầu tư ngoại quốc trực tiếp và tiền viện trợ. Kiều hối chứng tỏ là một yếu tố quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Nó giúp cân bằng cán cân vãng lai, tăng cường ngoại tệ dự trữ, và giúp cải thiện đời sống của người nhận.

Việt Nam cần phải tiếp tục duy trì chánh sách cởi mở về kiều hối. Cải thiện chính sách xuất khẩu lao động là một ưu tiên để có sự cạnh tranh lành mạnh trong việc tuyển dụng nhân công ra nước ngoài và giảm lệ phí tham gia chương trình xuất khẩu lao động. Việt Nam cần tiếp tục gửi công nhân đi nhiều nước khác nhau, thay vì một vài nước, để tránh những biến động địa phương bất ngờ.

Công nhân làm việc ở nước ngoài cần phải được bảo vệ đầy đủ chống lại sự bóc lột của giới chủ nhân. Nhiều trường hợp như vậy đã xẩy ra trong quá khứ trước sự làm ngơ của các sứ quán Việt Nam hoặc tệ hơn với sự tiếp tay của các viên chức này như trong trường hợp 1,600 công nhân Việt Nam ở Malaysia và gần 200 công nhân Việt Jordan vào 2008. Gần đây hơn vào đầu năm 2013 tại Nga, 15 nữ công nhân Việt Nam bị lường gạt và bán vào ổ mãi dâm với sự tiếp tay của một công ty xuất khẩu lao động ở Việt Nam và nhân viên của Tòa Đại Sứ của Việt Nam tại thủ đô Moskova. 10/ Vậy nhà nước có trách nhiệm phải kiểm tra những công ty xuất khẩu lao động và phải có biện pháp trừng phạt nặng nề những kẻ chủ mưu ám hại ngay cả người đồng hương thân cô thế cô ở xứ người.

Việc sử dụng kiều hối ở Việt Nam chưa được thỏa đáng. Việt Nam cần phải hoạch định một chính sách để khuyền khích việc sử dụng kiều hối vào những dự án đầu tư sản xuất ngắn hạn và dài hạn và vào công việc kinh doanh thay vì vào thị trường địa ốc và tiêu thụ.

Tiềm năng đầu tư của người Việt ở nước ngoài rất đáng kể. Để khai thác được tiềm năng này, nhà nước Việt Nam không những phải cải tổ môi trường kinh doanh ở trong nước để có sự bình đẳng, minh bạch, và tự do thông tin đa chiều mà còn phải loại bỏ tệ nạn tham nhũng. Cải tổ chính trị cần phải thực hiện song song với cải tổ kinh tế. Có tự do dân chủ mới có thể tận diệt được tham nhũng và giảm thiểu những lãng phí tài nguyên quốc gia như hiện nay. Trong chính trị cũng cần có cạnh tranh như trong thị trường kiều hối và trong kinh tế nói chung mới có sự trong sạch và tiến bộ.

Ông Nguyễn Quốc Khải nguyên là tham vấn và chuyên viên nghiên cứu kinh tế tại Ngân Hàng Thế Giới. Ông cũng từng làm tham vấn cho Đài Á Châu Tự Do và là giáo sư thỉnh giảng (professorial lecturer) tại Johns Hopkins University.

——————————————————————

Chú thích:

1/ Thùy Vinh, “Kiều Hối Năm 2014 Dự Báo Tăng 20%.” Báo Đầu Tư, 27-1-2014.
2/ Nguyen Viet Cuong, Daniel Mont, “Economic Impacts of International Migration and Remittances on Vietnam’s Development,” Emerald Group Publishing, United Kingdom, 2012.
3/ Hải Nguyễn, “Kiều Hối Là Gì?,” http://www.truclamyentu.info.
4/ Pfau Wade Donald & Giang Long Thanh, “The Growing Role of International Remittances in the Vietnamese Economy: Evidence from the Vietnam (Household) Living Standard Surveys,” 2010.
5/ Tuổi Trẻ, “ODA năm 2013 đạt trên 7 tỷ USD.” 18-10-2013.
6/ Theo thống kê của Ngân Hàng Phát Triển Á châu (Asian Development Bank – ADB).
7/ Hà Thu & Anh Quân, “Việt Nam thuộc top nhận kiều hối nhiều nhất thế giới,” VNExpress, 15-4-2014.
8/ Van Phuong Hoang, Elisabetta Magnani, “Remittances and Household Business Start-Ups in Vietnam: Evidence from Vietnam Household Living Standard Surveys,” Uiversity of New South Wales, Sydney, 2012.
9/ Tô Hà, “Kiều Hối Tăng Mạnh, Chuyển Động,” Người Lao Động, 24-1-2014.
10/ CAMSA, “Để giải cứu nạn nhân ở Nga,” Mạch Sống, 7-4-2013.

@VOA

Việt Nam liệu có ‘thoát Trung’ được không?

Xe tải xếp hàng tại cửa khẩu Tân Thanh vào Trung Quốc từ Lạng Sơn, Việt Nam (D. Schearf / VOA). Bộ Công thương Việt Nam đã nêu một giải pháp cụ thể, đó là đưa vải thiều vào tiêu thụ tại các tỉnh phía nam để giúp loại trái cây nổi tiếng của miền Bắc này tránh bị phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.‘Cơ hội thoát Trung ngàn năm có một’, ‘Muốn thoát Trung Quốc, phải vượt qua chính mình’… Đó là các hàng tít trên báo chí Việt Nam những ngày qua. Mới đây, Bộ Công thương Việt Nam đã nêu một giải pháp cụ thể, đó là đưa vải thiều vào tiêu thụ tại các tỉnh phía nam để giúp loại trái cây nổi tiếng của miền Bắc này tránh bị phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Để tìm hiểu xem liệu Việt Nam có thể thoát khỏi cái bóng quá lớn của Trung Quốc hay không, VOA Việt Ngữ đã hỏi chuyện Tiến sỹ kinh tế người Mỹ gốc Việt Alan Phan, người từng có nhiều năm hoạt động kinh doanh tại cả Việt Nam lẫn Trung Quốc.

Trước hết, kinh tế gia này nói về sự áp đảo của kinh tế của nước láng giềng phương Bắc của Việt Nam:

Thực tình thì sự áp đảo này đã kéo dài lâu rồi vì có nhiều lý do: một là họ ở rất gần, hai là họ rất quen thuộc với thị trường và thứ ba là nhà nước Việt Nam đã dành cho họ rất nhiều ưu đãi.

Điều quan trọng nhất là cái hệ thống pháp luật của Việt Nam dễ bị trục lợi nếu mà vấn đề tham nhũng hiện diện gần như là khắp nơi. Trong các vấn đề chính này, Trung Quốc đã lợi dụng tối đa thành ra họ có một cái ưu thế so với các nhà đầu tư hay các doanh nhân khác trên thế giới thì họ gần như là có một lợi thế gần như tuyệt đối trong vấn đề giao thương với Việt Nam, và đo đó cái kinh tế Việt Nam tùy thuộc rất nhiều vào Trung Quốc.

Có thể nói cái quan trọng nhất là vấn đề là gần như là nền kinh tế Việt Nam hiện nay tùy thuộc rất nhiều vào vấn đề xuất khẩu qua những xí nghiệp FDI. Và cái quan trọng nhất, tất cả các nguyên liệu, phụ liệu cũng như là máy móc dùng cho việc xuất khẩu này nó đều là, phần lớn là từ Trung Quốc. Thì đó tôi cho là một cái điều sẽ gây ra những hệ lụy nếu mà Trung Quốc có áp dụng các biện pháp này kia. Hiện bây giờ vẫn chưa thấy nhưng có thể trong tương lai, đó là một vũ khí bén nhọn của họ.

VOA: Như vậy, có nghĩa là trong tương lai gần, Việt Nam khó mà thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Trung Quốc về kinh tế đúng không, thưa ông?

Tiến sỹ Alan Phan: Đúng rồi, bởi vì ngoài vấn đề họ đang nắm giữ một lợi thế rất là quan trọng thì lại thêm một cái là cái thu nhập của người Việt Nam, người tiêu dùng Việt Nam quá thấp thành ra họ ưa chuộng cái hàng rẻ tiền và những cái hàng này thì đặc biệt là Trung Quốc có thể nói là họ có lợi thế không những tại Việt Nam mà gần như khắp toàn cầu về các đồ rẻ tiền, kém chất lượng.

Dĩ nhiên là người Việt Nam thì họ vẫn thích những hàng hóa từ Âu – Mỹ nhưng mà họ không có thể nào trả giá được, thành ra đó là vấn đề tại sao hàng Trung Quốc tràn ngập Việt Nam, nhất là tại những vùng quê. Nói về số lượng thì nó khủng khiếp lắm.

Một điều quan trọng hơn nữa là doanh nhân Trung Quốc họ rất khôn khéo nếu so với doanh nhân Việt Nam. Các chiến lược về thị trường hay mô hình kinh doanh cũng như cách thức để mà đem hàng Trung Quốc vào Việt Nam thì họ rất thành công.

VOA: Thưa ông, vừa qua các nhân sỹ, trí thức ở Việt Nam có đề cập tới điều họ nói là ‘thoát Trung’, theo ý kiến của ông, tính khả thi của lời kêu gọi này như thế nào?

Tiến sỹ Alan Phan: Vấn đề thoát Trung, ngay cả kinh tế, chính trị cũng như quân sự, thì tôi cho là hiện bây giờ cái khả thi gần như là 0 bởi vì thứ nhất, trên thượng tầng của lãnh đạo Việt Nam, vẫn còn một sự liên kết khá bền chặt với lại chính trị của Trung Quốc.

Vấn đề là ngay cả chính phủ, dù họ nói bất cứ điều gì, thì cái quyền lợi, quyền lực của họ dựa rất nhiều vào chính trị của đảng Cộng sản Trung Quốc. Thành ra tôi nghĩ là ngay cả người cầm đầu cũng không muốn làm gì để ảnh hưởng tới cái đó thì những chuyện khác sẽ tùy thuộc vào quyết định đó.

Còn vấn đề thoát ra khỏi kinh tế thì cũng là một điều khó bởi vì như tôi nói, nó đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện về cách thức làm ăn, về những cái doanh nghiệp nhà nước, về những người đã được hưởng thụ rất nhiều từ Trung Quốc mà hiện bây giờ đang nắm nền kinh tế Việt Nam. Bảo họ thay đổi thì tôi nghĩ đó là điều không thể có. Và điều sau cùng như tôi nói, thị trường Việt Nam với một cái thu nhập quá thấp thì họ khó có thể đi tìm hàng hóa từ những nơi khác để mà thay thế, và xuất khẩu Việt Nam cũng tùy thuộc rất nhiều vào giá rẻ của nguyên liệu Trung Quốc nên thành ra bây giờ bảo họ thay đi, họ sử dụng nguyên liệu của Ấn Độ hay của những nơi khác thì tôi nghĩ đó là một cái chuyện họ không muốn làm.

VOA: Giới quan sát cho rằng trong khi tình hình ở biển Đông hiện vẫn chưa lắng dịu, có lẽ trong thời gian tới, những khó khăn mà kinh tế Việt Nam sẽ vấp phải cũng không phải là nhỏ. Ông nghĩ sao về nhận định này?

Tiến sỹ Alan Phan: Đương nhiên khi mà đã có những trục trặc xảy ra từ cái vấn đề chính trị. Trung Quốc dĩ nhiên họ là một nước lớn, họ muốn trở thành một cường quốc và họ muốn có một nguồn tài nguyên chắc chắn, ổn định, muốn một láng giềng có thể nói là lệ thuộc hoàn toàn với họ thành ra họ có vẻ cứng rắn trong vấn đề biển Đông.

Đồng thời, Việt Nam có nhu cầu chính trị về địa phương, về dân tộc thì tức là các lãnh đạo Việt Nam cũng không muốn tỏ ra là quá lệ thuộc vào Trung Quốc. Nhưng mà tất cả những chuyện này tôi nghĩ nó cũng giống như là ‘a storm in a teacup’, tức là quậy lên vậy thôi, chứ còn đâu cũng vào đấy. Tôi nghĩ về lâu về dài nó không thay đổi gì lắm. Còn hiện tại, trong một thời gian ngắn, nó có thể gây ra bất cập cho nền kinh tế Việt Nam.

Trung Quốc có là thần tượng của những nền kinh tế đang phát triển?

Khương Việt chuyển ngữ và giới thiệu

THUYẾT TRÌNH CỦA TIẾN SĨ DAMBISA MOYO TẠI DIỄN ĐÀN TED tháng 11 năm 2013

https://www.ted.com/talks/dambisa_moyo_is_china_the_new_idol_for_emerging_economies

(Sau khi mở link, nếu không muốn nghe tiếng Anh, xin nhìn xuống ở phía dưới bên phải có chữ Subtitles, nhắp chuột vào đó, xong rồi chọn Vietnamese)

Đề tài:

Trung Quốc có là thần tượng của các nền kinh tế đang phát triển?

Dambisa MoyoNữ tiến sĩ Moyo sinh ra ở Zambia năm 1969. Tốt nghiệp Cao học ở Havard và ở American Universtity, Washingtong, D.C Mỹ; hoàn tất luận án tiến sĩ kinh tế ở Oxford University, Anh quốc. Bà từng là kinh tế gia của Goldman Sachs trong hơn mười năm, và là tư vấn viên của World Bank ở Washington, D.C. Hiện tiến sĩ Moyo là Giám Đốc Điều Hành của Mildstorm Group, một cơ quan phân tích kinh tế vĩ mô toàn cầu và thị trường tài chánh thế giới, giúp hoạch định các chiến lược đầu tư.

TED, viết tắt của Technology, Entertainment, và Design, là một diễn đàn vô vị lợi với mục đích truyền bá những ý tưởng mới, dưới hình thức những thuyết trình không dài quá 18 phút. Lập ra từ năm 1984, lúc đầu chỉ giới hạn trong các đề tài về Kỹ thuật, Nghệ thuật và Thiết Kế . Hiện nay diễn đàn mở rộng ra hầu hết mọi đề tài, từ khoa học, doanh nghiệp, y tế, giáo dục, và các vấn đề toàn cầu, v.v… với hơn 100 ngôn ngữ…

* * *“Tự Do hay là Chết”!Khi Patrick Henry, thống đốc Virginia, nói câu đó năm 1775, ông ta đã không tưởng được là câu đó đã vang vọng nhiều đến các thế hệ người Mỹ về sau.

Vào thời đó, câu nói được dùng để nhằm chống lại người Anh, nhưng hơn hai trăm năm qua, những lời đó đã trở thành tín niệm của nhiều người ở Phương Tây rằng Tự Do là giá trị được trân quý hơn hết, gắn liền với những hệ thống kinh tế chính trị tốt nhất.

Có nên trách họ đã tin tưởng như vâỵ?

Suốt hơn trăm năm qua, sự phối hợp của tự do dân chủ và tư bản tư nhân đã giúp Hoa Kỳ và Tây Phương đạt tới những trình độ phát triển kinh tế mới.

Suốt thời gian đó, lợi tức ở Hoa Kỳ gia tăng gấp 30 lần, nhiều trăm ngàn người đã thoát ra khỏi cảnh nghèo cực.

Trong khi đó, tài năng và sự sáng tạo đã thúc đẩy kỹ nghệ hoá, giúp sản xuất ra đồ gia dụng như tủ lạnh, máy truyền hình, xe hơi, và cả điện thoại di động.

Không đáng ngạc nhiên, khi ngay trong lúc khủng hoảng kinh tế, Tổng thống Obama vẫn cho rằng “vấn đề trước mắt chúng ta không phải là kinh tế thị trường là tốt hay xấu. Vì khả năng của thị trường trong việc tạo ra sự thịnh vượng và mở rộng sự tự do là vô song”.

Và như vậy, có một sự giả định giữ người Tây phương rằng toàn thế giới sẽ quyết định tiếp nhận chủ nghĩa tư bản tư nhân như là mẫu mực của nền dân chủ tự do và của sự phát triển kinh tế, và sẽ đặt các quyền chính trị ưu tiên trước các quyền kinh tế.

Tuy nhiên, đối với nhiều người ở những nền kinh tế đang lên, thì điều vừa nói đó chỉ là một ảo tưởng, và dù rằng Tuyên Ngôn Nhân Quyền, được ký năm 1948, được công nhận rộng rãi, nhưng nó che đậy hố cách biệt giữa những quốc gia đã phát triển với những quốc gia đang phát triển, và giữa niềm tin ý hệ của một bên là quyền chính trị và bên kia là quyền kinh tế. Sự cách biệt ấy ngày càng rộng.

Ngày nay, nhiều người sống ở những quốc gia đang phát triển, nơi có đến 90% dân số thế giới, tin rằng nỗi ám ảnh của Tây phương về các quyền chính trị là lạc điệu, và điều thật sự quan trọng là việc cung cấp lương thực, nhà ở, giáo dục, và y tế. “Tự Do hay Chết” sẽ là một khẩu hiệu hay nếu người ta có khả năng để hiện thực nó, nhưng nếu một người chỉ sống với chưa đến 1 dollar thu nhập/ một ngày, thì anh ta sẽ quá bận rộn với sự sinh tồn và nuôi sống gia đình để có thì giờ lo toan việc tuyên xưng và bảo vệ dân chủ.

Ngay lúc này, tôi biết nhiều người trong hội trường này và trên thế giới sẽ nghĩ rằng, “Hừm! Điều đó khó hiểu quá”, vì tư bản tư nhân và dân chủ tự do là những gì từ lâu đã được xem là thiêng liêng. Nhưng xin hỏi quý vị, nếu bị buộc phải lựa chọn giữa một mái nhà che mưa nắng và quyền bầu cử, quý vị sẽ chọn cái nào?

Trong suốt thập niên vừa qua, tôi có may mắn đi thăm trên 60 nước, phần nhiều là các nước đang phát triển, ở Châu Mỹ Latin, Á Châu, và Phi Châu của tôi. Tôi đã gặp các vị tổng thống, các nhà bất đồng chính kiến, giới làm chính sách, các luật sư, giáo giới, các y sĩ, và thường dân, và qua những cuộc chuyện trò đó tôi nhận ra rằng phần đông người ở các quốc gia đang phát triển nghĩ rằng thực ra có một sự ngăn cách sâu xa về niềm tin ý hệ đối với các vấn đề chính trị và kinh tế giữa người ở Tây Phương và người ở những vùng khác của thế giới.

Nhưng, ở đây, xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi không cho rằng dân chúng ở các nước đang phát triển không hiểu dân chủ, tôi cũng không bảo rằng họ không mong ước để tự chọn các tổng thống hay những người lãnh đạo của mình. Tất nhiên họ muốn chứ. Nhưng tôi muốn nói rằng, theo độ ưu tiên, dân chúng ở các nước đó quan tâm nhiều đến việc do đâu mức sống của họ sẽ được cải thiện và làm cách nào để chính quyền có thể thực hiện được điều đó, hơn là việc chính quyền đó có được bầu theo lối dân chủ hay không.

Sự thật thì đây là lần đầu tiên mà ý hệ Tây Phương về chính trị và kinh tế đang gặp phải một thách thức tạo ra bởi hệ thống hiện nay của Trung Quốc. Thay vì theo chủ nghĩa tư bản tư nhân, họ thiết lập chủ nghĩa tư bản nhà nước. Họ đã không ưu tiên hoá vấn đề dân chủ. Trái lại, họ đã quyết định đặt các quyền kinh tế ưu tiên hơn các quyền chính trị. Xin thưa với quý vị rằng chính là hệ thống ở Trung Quốc đang khiến người dân các quốc gia đang phát triển nghĩ rằng đó là hệ thống đáng noi theo, vì càng ngày họ càng tin rằng hệ thống đó sẽ hứa hẹn đem lại sự cải thiện nhanh và tốt nhất cho mức sống của họ trong thời gian ngắn nhất. Nếu quý vị rộng lượng cho phép, tôi xin được giải thích, trông chốc lát, vì sao, về mặt kinh tế, họ đang đi đến một niềm tin như vậy.

Trước hết, là thành quả kinh tế của Trung Quốc trong 30 năm qua. TQ đã có thể tạo ra một mức tăng trưởng kinh tế kỷ lục và đã đưa một số lượng đáng kể người dân ra khỏi cảnh nghèo đói; một cách cụ thể đã giảm bớt sự nghèo khổ bằng cách đưa hơn 300 triệu người ra khỏi sự cùng cực. Không chỉ về mặt kinh tế, nhưng nói chung cả các mặt khác của mức sống. Chúng ta thấy rằng năm 1970 chỉ có 28% dân được vào cấp hai; ngày nay đến 82%. Như vậy, về tổng thể, mức cải thiện kinh tế là rất đáng kể.

Kế đến, Trung Quốc đã có thể cải thiện đáng kể mức bất bình đẳng lợi tức mà không phải thay đổi cơ cấu chính trị. Ngày nay, Hoa Kỳ và Trung Quốc là hai nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Nhưng hai nước lại có hai hệ thống chính trị và kinh tế khác biệt rất nhiều, một bên với chủ nghĩa tư bản tư nhân, bên kia tổng quát là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tuy nhiên hai nước lại có chỉ số GINI, là chỉ số về mức bất bình đẳng lợi tức, giống hệt nhau. Điều có lẽ hơi khó chịu là mức bất bình đẳng lợi tức ở Trung Quốc hiện đang được cải thiện, trong khi đó mức bất bình đẳng ở Mỹ lại gia tăng!

Thứ ba là, dân chúng các nước đang phát triển nhìn vào mức gia tăng thần kỳ và đáng kinh ngạc của cơ cấu hạ tầng của Trung Quốc. TQ không chỉ xây dựng đường sá, bến cảng, và xa lộ trong nội địa cho mình – xây mạng lưới 85,000 km đường sá – nhưng còn giúp cho Phi Châu xây dựng tuyến đường dài 9,000 dặm từ Cape Town tới Cairo. Những điều đó đập vào mắt dân chúng. Có lẽ không phải ngạc nhiên khi năm 2007 cơ quan PEW thăm dò thấy rằng 98% dân chúng 10 nước ở Phi Châu nghĩ rằng Trung Quốc đang làm những điều kỳ diệu để cải thiện đời sống của họ.

Sau cùng, Trung Quốc cũng đưa ra những giải pháp cho những vấn đề xã hội từ lâu thế giới đang phải đương đầu. Nếu quý vị du lịch từ Mogadishu, qua Mexico city, hay Mumbai, quý vị sẽ chứng kiến cảnh những cơ cấu tiếp vận và hạ tầng bị xuống cấp đang tiếp tục trở nên chướng ngại cho việc đưa thuốc men và săn sóc y tế đến các vùng thôn quê. Trong khi đó, thông qua mạng lưới doanh nghiệp nhà nước, người Trung Quốc đang có thể, dùng các công ty của mạng đó, để giúp chuyển các dịch vụ y tế đó.

Thưa quý vị, không ngạc nhiên rằng, quanh thế giới, người ta đang chỉ vào những gì TQ đang làm và bảo rằng: “Chúng tôi thích điều đó. Chúng tôi muốn điều đó. Chúng tôi muốn có thể làm được những gi TQ đang làm. Đó là một hệ thống có vẻ làm được việc.” Tôi cũng muốn thưa với quý vị rằng đang có nhiều sự chuyển hướng xảy ra quanh những gì TQ đang làm liên quan đến quan điểm về dân chủ. Đặc biệt, có sự ngờ vực ngày càng tăng giữa dân chúng các nước đang phát triển, khi họ tin rằng dân chủ không còn được xem là yêu cầu tiên quyết cho sự tăng trưởng kinh tế. Sự thật thì, không chỉ TQ, những nước như Đài Loan, Singapore, Chi-Lê đã chứng tỏ rằng thật ra chính sự tăng trưởng kinh tế mới là yêu cầu tiên quyết cho nền dân chủ. Trong một nghiên cứu mới đây, bằng chứng cho thấy lợi tức là quyết tố lớn nhất tuổi thọ của một nền dân chủ. Nghiên cứu ấy khám phá ra rằng nếu lợi tức đầu người $1000/năm, nền dân chủ sẽ kéo dài chừng 8.5 năm. Nếu lợi tức đầu người trong khoảng $2,000 đến $4,000/năm nền dân chủ sẽ có thể kéo dài chừng 33 năm. Và chỉ khi lợi tức bình quân đầu người trên $6,000/năm thì nền dân chủ mới có cơ lâu dài.

Những điều trên đây cho chúng ta thấy rằng trước hết cần hình thành một giai cấp trung lưu có khả năng quy trách chính quyền. Nó cũng khuyên chúng ta không nên lo lắng chạy quanh thế giới để cưỡng hành dân chủ, vì cuối cùng chúng ta có thể gặp phải sự rủi ro là kết thúc với những loại dân chủ giả hiệu, một loại dân chủ không chừng còn tệ hại hơn cả những chế độ chuyên đoán mà chúng tìm cách thay thế.

Chứng cứ về các loại giả hiệu thì rất đáng ngại. Cơ quan Freedom House khám phá ra rằng mặc dù ngày nay có 50% các quốc gia trên thế giới được xếp vào loại dân chủ, nhưng 70% trong số đó là dân chủ giả hiệu trong ý nghĩa là dân chúng không có tự do ngôn luận và đi lại. Chúng tôi cũng tìm ra từ Freedom House rằng trong suốt 7 năm qua sự tự do đã suy giảm theo từng năm.

Những điều vừa nêu cho thấy rằng những người, cũng như tôi, quan tâm về dân chủ tự do cần phải tìm ra một phương cách khả thi bảo đảm một hình thái vững bền cho một nền dân chủ chính hiệu, có gốc rễ của nó trong nền kinh tế. Nó cũng cho thấy rằng khi TQ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, điều mà các chuyên gia mong đợi là sẽ xảy ra vào khoảng năm 2016, thì sự phân liệt ý hệ kinh tế-chính trị giữa Tây Phương và phần còn lại của thế giới sẽ càng lớn hơn.

Vậy thế giới lúc đó sẽ như thế nào? Vâng, có lẽ các chính quyền sẽ can thiệp nhiều hơn, trở nên tư bản nhà nước hơn; bảo hộ mậu dịch hơn; nhưng đồng thời, như tôi đã nêu trước kia, là sự sa sút chưa từng thấy của các quyền cá nhân và quyền chính trị.

Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là như vậy thì Tây Phương nên làm gì? Tôi đề nghị hai lựa chọn. Tây Phương có thể hoặc cạnh tranh, hoặc hợp tác. Nếu Tây Phương chọn sự cạnh tranh với khuôn mẫu TQ, thật sự đi khắp thế giới, tiếp tục thúc đẩy cho chủ nghĩa tư bản tư nhân và dân chủ tự do, nghĩa là đi ngược với trào lưu, tuy rằng đó là lập trường tự nhiên của Tây Phương, một thứ phản đề đối với mô hình không ưu tiên cho dân chủ và tư bản nhà nước của TQ. Thực tế thì nếu Tây Phương chọn con đường cạnh tranh, sự phân đôi thế giới sẽ càng rộng hơn. Lựa chọn khác cho Tây Phương là hợp tác; một sự hợp tác theo tôi hiểu là hảy để cho các quốc gia đang phát triển có được sự uyển chuyển trong việc tìm ra, trong trật tự, những hệ thống kinh tế-chính trị thích hợp nhất đối với họ.

Đến đây, tôi chắc là có người trong hội trường này đang nghĩ rằng, vâng như vậy thì không khác gì đang nhượng bộ TQ, hay nói khác đi đó là cách khiến Tây Phương phải đóng vai thứ yếu. Nhưng tôi tin rằng nếu Hoa Kỳ và Âu Châu muốn duy trì được ảnh hưởng toàn cầu của mình thì họ có lẽ phải xem xét sự hợp tác trong đoản kỳ để có thể cạnh tranh, và bằng cách đó, họ có thể tập trung một cách tích cực hơn vào những thành tựu kinh tế giúp tạo ra giai cấp trung lưu để từ đó quy trách được các chính quyền và hình thành nền dân chủ mà họ thật sự muốn có.

Sự thật thì thay vì đi quanh thế giới hoạnh hoẹ những quốc gia đang kết ước với TQ, Tây Phương nên khuyến khích doanh nghiệp của họ giao dịch và đầu tư vào những nước đó. Thay vì chỉ trích TQ, Tây Phương nên chứng tỏ rằng bằng cách nào mà hệ thống kinh tế-chính trị của họ là ưu việt hơn. Thay vì áp đặt một cách gượng gạo dân chủ lên các nước, Tây Phương nên duyệt lại trang sử của mình và nhớ rằng đã phải mất nhiều sự kiên trì để tạo nên được những mẫu mực và hệ thống như đang có hiện nay. Thật ra, Thẩm phán Tối Cao Pháp viện Stephen Breyer đã nhắc nhở chúng ta rằng phải mất đến gần 170 năm kể từ ngày Hiến Pháp được viết ra để đạt được quyền bình đẳng ở Mỹ. Vậy nhưng có người vẫn còn cãi rằng cho đến nay vẫn không có sự bình đẳng. Thật ra, vẫn có những nhóm người tranh luận rằng họ vẫn chưa có quyền bình đẳng trước pháp luật!

Ở cao điểm của nó, mô hình Tây Phương đã tự khẳng định. Nó là mô hình mang lại cơm áo; đã làm ra tủ lạnh; đã đưa người lên mặt trăng. Nhưng sự thật thì mặc dù trước đây dân chúng chỉ vào các nước phương Tây và bảo rằng “Tôi muốn mô hình đó, tôi thích nó”. Ngày nay dân các nước lại nhìn vào TQ. Nhiều thế hệ nhìn TQ và nói rằng “TQ có thể xây dựng hạ tầng cơ sở, làm cho kinh tế tăng trưởng, và chúng tôi thích những điều đó”.

Bởi vì, cuối cùng thì câu hỏi vẫn đặt ra cho chúng ta, cho 7 tỉ người trên hành tinh là: Làm thế nào chúng ta có thể tạo ra sự thịnh vượng? Những người quan tâm sẽ, một cách hợp lý, hướng về những mô hình nào bảo đảm cho họ có một mức sống tốt hơn trong thời gian ngắn hơn.

Trước khi quý vị rời khỏi hội trường này, tôi muốn gởi đến quý vị một lời nhắn nhủ riêng tư về những gì bản thân tôi tin là chúng ta nên làm với tư cách là những nhân vị, đó là sự cởi mở trong nhận thức. Nên nhận ra sự thật rằng hy vọng và ước mơ của chúng ta về việc tạo ra sự thịnh vượng cho nhân loại, về việc đưa hàng trăm triệu người ra khỏi nghèo đói, phải đặt trên sự phóng khoáng trong nhận thức, vì những hệ thống này của chúng ta có cả những điều tốt lẫn điều xấu.

Để minh hoạ, tôi xin lấy từ niên giám đời tôi. Đây là một bức ảnh của tôi.

Tôi đã sinh ra và được nuôi lớn ở Zambia năm 1969. Vào thời tôi sinh, người da đen chưa được cấp giấy khai sinh, và mải đến năm 1973 luật đó mới thay đổi. Đây là chứng thư của chính quyền Zambian. Trưng những thứ này trước quý vị, tôi muốn thưa với quý vị rằng trong suốt 40 năm, tôi đã từ một kẻ không được thừa nhận như một con người đến chỗ hôm nay tôi đang đứng trước cử toạ của TED hoành tráng để trình bày với quý vị quan điểm của mình. Trong đà sống này, chúng ta có thể tạo ra tăng trưởng kinh tế. Chúng ta có thể giảm thiểu đáng kể sự nghèo đói. Nhưng nó cũng đòi hỏi chúng ta phải nhìn lại những giả định của chúng ta; những giả định và giáo điều, đã từ lâu gắn bó với chúng ta, về tư bản tư nhân, về tạo ra tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, và về tạo ra sự tự do. Chúng ta có thể phải xé bỏ sách vở để bắt đầu tìm đến những chọn lựa khác và tự mình trở nên phóng khoáng hơn để tìm ra chân lý. Chung cuộc, đó là công việc biến đổi và làm cho thế giới trở nên tốt hơn.

Cảm ơn quý vị.

Thêm phân tích về ‘đường chín đoạn’

Một học giả gốc Hoa đánh giá rằng Trung Quốc biết rõ ‘đường chín đoạn’ thiếu nhiều căn cứ pháp lý nhưng vẫn duy trì nói như một ‘chiến lược mờ ảo’ và quyết tâm dùng vũ lực để khẳng định chủ quyền ở vùng biển Đông Nam Á.

Bấm Trong bài viết gần đây đăng trên Asia Pacific Bulletin của EastWestCenter.orgn, bà Tôn Vân (Yun Sun), một học giả tại Viện Stimson cho rằng Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh lập luận về ‘đường chín đoạn’ ở Biển Nam Trung Hoa.

Đây là sự thay đổi rõ rệt với chính sách ngoại giao của Bắc Kinh vài năm về trước, khi mà Trung Quốc còn thảo luận về tính hợp pháp của ‘đường chín đoạn’.

Nay, Trung Quốc đặt mọi sức nặng đằng sau ‘đường chín đoạn’ rất gây tranh cãi này, theo tác giả.

Chủ quyền lịch sử

“Trung Quốc hiểu rất rõ sự trái ngược của đường chín đoạn với Công ước Luật biển UNCLOS và vì thế bỏ sức đầu tư vào việc tìm tính hợp pháp cho ‘quyền lịch sử’ của lập luận họ nêu ra,”

Trung Quốc hiểu rất rõ sự trái ngược của đường chín đoạn với Công ước Luật biển UNCLOS và vì thế bỏ sức đầu tư vào việc tìm tính hợp pháp cho ‘quyền lịch sử’

Bà Tôn Vân

Thậm chí, theo tác giả, một số trường phái tại Trung Quốc hiện còn muốn nói rằng UNCLOS có sau khi Trung Quốc nêu ra chủ quyền nên không phải là căn cứ cho việc diễn giải chủ quyền ở Biển Đông.

“Trung Quốc cũng cẩn thận khi nêu chi tiết điều gì họ muốn coi là chủ quyền trong khu vực đường chín đoạn. Lý do là để ở đó một sự mờ ảo chiến lược nhằm có chỗ cho các cuộc thương thảo tương lai.”

“Đa số các nhà nghiên cứu Trung Quốc nay thiên về hướng coi vùng nước bên trong đường chín đoạn là Vùng Kinh tế Đặc quyền của mình dù chính chính phủ Trung Quốc chưa công khai nói ra điều này.”

Bà Tôn Vân cũng nói:

“Trong giới hoạch định chính sách của Trung Quốc có nhiều người hiểu rất rõ những điểm yếu của lập luận pháp lý này.”

Tuy thế, họ tin rằng “có lập luận yếu còn hơn là không có gì”.

Và Trung Quốc tin rằng quan điểm như thế “được quyền lực quốc gia mạnh mẽ ủng hộ và mong muốn sử dụng nó”.

TQ quyết tâm biến đa phần Biển Đông thành vùng kinh tế đặc quyền

Tựu trung lại, bài viết cho rằng Trung Quốc tin là “tổn thất về uy tín” khi dùng vũ lực để khẳng định chủ quyền ‘đường chín đoạn’ sẽ là thứ giải quyết được vì Trung Quốc có sức mạnh kinh tế với cả vùng Đông Nam Á.

Vẫn theo bà, giới chức Trung Quốc tin rằng Hoa Kỳ sẽ không muốn để xảy ra xung đột vũ trang với Trung Quốc và vì thế có thể tiếp tục lấn áp Việt Nam.

Theo họ, Việt Nam chưa phải là đồng minh có hiệp ước với Mỹ.

Chủ đề Biển Đông mà Trung Quốc gọi là Nam Hải tiếp tục là đề tài truyền thông quốc tế và khu vực theo dõi, nhất là sau khi các giàn khoan được Trung Quốc đem ra để khai thác dầu khí, bất chấp phản đối từ Việt Nam.

Với chính giới Hoa Kỳ, đây cũng là chủ đề quan trọng và có nhiều khả năng được bàn thảo trong chuyến thăm tới của Ngoại trưởng John Kerry tới Bắc Kinh tháng 7 này.

Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính Mỹ vừa công bố lịch trình chuyến thăm của ông John Kerry tới Bắc Kinh 9-10 tháng 7 năm nay để tham dự Diễn đàn đối thoại chiến lược và kinh tế Mỹ – Trung.

@bbc