Lượm lặt tin 30-6-14

Hạ canxi máu – Những điều cần biết

Canxi là một loại khoáng chất thiết yếu của cơ thể. 98% canxi nằm ở xương và răng; 2% còn lại là canxi ion nằm trong máu để thực hiện các chức năng thần kinh cơ, đông máu. Thuật ngữ “hạ canxi máu” là nói đến hạ ion canxi trong máu.

Những người đã bị hạ canxi máu một lần thì dễ có những cơn hạ canxi máu tái phát, nhất là khi có phối hợp thêm những đợt suy nhược cơ thể do ăn uống kém hay tức giận, lo lắng.

Cách xử trí lúc này là cho người bệnh nằm yên ở một mặt phẳng thấp an toàn (tránh bị co giật lại rơi xuống đất và bị chấn thương thêm) một thời gian sẽ tự hồi phục từ từ. Nếu đến cơ sở y tế, người bệnh sẽ được tiêm một liều canxi vào máu và sẽ giúp hồi phục nhanh chóng.

Nguyên nhân hạ canxi máu là do thiếu canxi, thiếu vitamin D (hoặc cả hai). Người đã bị cắt đoạn ruột, rối loạn nội tiết như suy giáp, ung thư giáp, giảm đạm máu, tăng phosphat máu, dùng thuốc lợi tiểu Furosemide, kháng sinh Aminoside… cũng rất dễ hạ canxi máu.

Làm thế nào để tăng lượng canxi trong cơ thể?

Thường thì canxi trong bữa ăn, cơ thể chỉ hấp thu được khoảng 20 – 30%. Sự hấp thu canxi có thể giảm nếu bị gắn kết với một số chất khác trong bữa ăn như xơ, phytate, oxalate…; cạnh tranh hấp thu với các chất khoáng khác như sắt, đồng, kẽm…

Chế độ ăn nhiều đạm, đặc biệt là đạm động vật (thịt, cá, tôm…), hoặc nhiều muối có thể gây ra tăng thải và mất canxi qua nước tiểu.

Độc giả cần lưu ý khi uống thuốc bổ không nên uống chung canxi với sắt cũng như một số khoáng chất khác như kẽm, đồng cùng một lúc mà nên tách ra từng buổi sáng, chiều, tối.

Vitamin D rất cần thiết để cơ thể hấp thu canxi. Vitamin D một phần nhỏ là từ thức ăn đưa vào, phần lớn là do da tổng hợp khi có ánh nắng mặt trời để cơ thể sử dụng. Vì vậy nếu chỉ uống sữa mà không tắm nắng thì kah3 năng hấp thụ canxi của cơ thể sẽ rất thiết

Làm gì khi bị “hạ canxi máu”?

Nếu ion canxi máu hạ thấp ở mức độ nhẹ thì có thể không phát hiện ra, nhưng khi cơ thể bị hạ ion canxi nhiều có thể gây rối loạn các hoạt động thần kinh cơ.

Dấu hiệu nhận biết là cảm giác tê bì ở tay chân, lưỡi, quanh miệng; cảm giác hồi hộp, lo âu, mệt mỏi; sau đó là chuột rút (vọp bẻ), co thắt các cơ ở tay chân (co cơ ở tay tạo kiểu dáng bàn tay đỡ đẻ hoặc duỗi cứng đùi, cẳng chân và các ngón gây khó cử động), co giật tay chân hoặc toàn thân, co thắt thanh môn gây khó thở, hoa mắt, thậm chí ngất xỉu.

Nhu cầu canxi của từng độ tuổi theo khuyến cáo của Viện Y khoa Mỹ:

1 – 3 tuổi: 500mg/ngày4 – 8 tuổi: 800mg/ngày
9 – 18 tuổi: 1.300mg/ngày
19 – 50 tuổi: 1.000mg/ngày
Trên 51 tuổi: 1.200mg/ngày
Phụ nữ mang thai, cho con bú: 1.200 – 1.500mg/ngày.

4 câu hỏi liên quan đến canxi:

1/Ai thường bị thiếu canxi?

Người cao tuổi dễ bị loãng xương. Nữ giới có nguy cơ bị loãng xương nhiều hơn nam giới. Người có chế độ ăn không đảm bảo nhu cầu canxi hằng ngày, ăn nhiều muối, dư đạm, không tiếp xúc ánh nắng, ít vận động, uống nhiều rượu, cà phê, hút thuốc lá, sử dụng thuốc không hợp lý sẽ bị thiếu canxi và loãng xương sớm.

2/ Hàm lượng canxi trong thực phẩm

100g sữa bò chứa 1.000mg canxi
100g lương thực (gạo, bắp, bột mì) chứa 30mg canxi
100g thịt có 10 – 20mg canxi
100g đậu nành có 165mg canxi
100g mè có 1.200mg canxi
100g đậu các loại có khoảng 60mg canxi
100g rau muống, mồng tơi, rau dền, rau đay, rau ngót có 100mg canxi.

Cần lưu ý, sữa, yaourt, phô mai có chứa nhiều canxi, nhưng cũng chứa một lượng không nhỏ chất béo động vật (béo bão hòa). Do đó, những người tăng mỡ máu cần lưu ý vì có thể gây ra bệnh tim mạch.

3/ Bổ sung canxi bằng thuốc viên

Do bác sĩ chỉ định để phòng ngừa và điều trị thiếu canxi. Liều thường dùng là 500mg/người lớn/ngày, không quá 2.000mg/ngày.

4/Thừa canxi có gây ra sỏi thận?

Các nghiên cứu cho những kết quả khác nhau nên chưa có kết luận chắc chắn. Sỏi thận thường gặp trên một số cơ địa đặc biệt dễ tạo sỏi. Có thể việc dùng quá nhiều canxi trên loại cơ địa này sẽ có khả năng hình thành sỏi do làm thay đổi thành phần nước tiểu.

—————————————————-

Các nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam

Theo Cục đầu tư nước ngoài, tính từ đầu năm 2014 đến nay, đã có 41 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Hàn Quốc dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,55 tỷ USD, chiếm 22,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hồng Kông đã đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1 tỷ USD, chiếm 14,7 % tổng vốn đầu tư…

Cũng theo số liệu của Cục đầu tư nước ngoài, trong 6 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam tính chung cả cấp mới và tăng vốn là 6,85 tỷ USD, bằng 64,7% so với cùng kỳ 2013.

Tính đến ngày 20/6/2014 cả nước có 656 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 4,85 tỷ USD, bằng 93,2% so với cùng kỳ năm 2013.

Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 326 dự án đầu tư đăng ký mới trong 6 tháng năm 2014

Đến 20/6/2014, có 219 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 1,99 tỷ USD, bằng 37% so với cùng kỳ năm 2013.

Như vậy, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 6 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 6,85 tỷ USD, bằng 64,7% so với cùng kỳ 2013.

Về lĩnh vực đầu tư, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 326 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 4,8 tỷ USD, chiếm 70,2% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 6 tháng năm 2014.

Đứng ở vị trí thứ 2 là lĩnh vực xây dựng, với 58 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 465,4 triệu USD, chiếm 6,8%. Đứng thứ 3 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 16 dự án đăng ký mới, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm đạt 692,3 triệu USD, chiếm 10,1%. Tiếp theo là lĩnh vực Y tế và trợ giúp xã hội với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 258,9 triệu USD.

Cục đầu tư nước ngoài cũng cho biết, tính từ đầu năm 2014 đến nay, đã có 41 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Hàn Quốc dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm 1,55 tỷ USD, chiếm 22,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.

Hồng Kông đã đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1 tỷ USD, chiếm 14,7 % tổng vốn đầu tư; Nhật Bản đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 806 triệu USD, chiếm 11,7% tổng vốn đầu tư; Đứng ở vị trí thứ 4 là Singapore với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm khoảng 732,1 triệu USD, chiếm 10,69% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.

Cùng với đó, trong 6 tháng đầu năm 2014 nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 43 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong đó, dẫn đầu về đầu tư nước ngoài là TP.HCM với 886,3 triệu USD vốn đăng ký mới và tăng thêm chiếm 12,9% tổng vốn đầu tư.

Bình Dương đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 876,05 triệu USD, chiếm 12,8%. Đồng Nai đứng thứ 3 với 688,37 triệu USD vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm, chiếm 10%. Tiếp theo là Quảng Ninh, Hải Dương, Tây Ninh.

 

Giấc mộng Trung Hoa hay ác mộng đại cường?

Sự nôn nóng và táo bạo của giới lãnh đạo mới của Trung Quốc (TQ) trong tham vọng “đại cường” có thể biến “Giấc mơ Trung Hoa” thành ác mộng.

Các thế hệ lãnh đạo TQ thường xây dựng một hệ thống lý luận, học thuyết, tư tưởng để định hướng kỹ trị đất nước tỷ dân này. Năm 1978, Phó chủ tịch nước Đặng Tiểu Bình đã ban hành khẩu hiệu “TQ hùng cường” trong hệ thống sau này được tổng hợp thành “lý luận Đặng Tiểu Bình” nhằm cải cách toàn diện và mở cửa đất nước sau nhiều năm tụt hậu, mở đầu cho ba thập niên bùng nổ phát triển kinh tế TQ sau này.

Năm 1989, Giang Trạch Dân đã thúc đẩy sự “trẻ hóa dân tộc TQ” cùng “Tư tưởng ba đại diện” nhằm giải quyết tình trạng lạc hậu của TQ. Sau khi được cất nhắc lên vị trí quyền lực cao nhất, Hồ Cẩm Đào đã xây dựng được học thuyết lớn là “Xã hội hài hòa” nhằm giải quyết những căng thẳng xã hội mà nguyên nhân là từ những biến đổi kinh tế – xã hội sau cải cách và mở cửa.

Học thuyết của Hồ Cẩm Đào thuyết phục người dân tìm đến các khái niệm Nho giáo dựa trên sự hài hòa để thúc đẩy mối quan hệ bên trong của TQ cũng như giữa TQ và thế giới.

Lúc này, Bắc Kinh đang ra sức quảng bá cho khẩu hiệu mới của Tập Cận Bình là “Giấc mơ Trung Hoa”. Trong những tháng gần đây, truyền thông TQ ra sức tán dương chủ thuyết này của lãnh đạo TQ. Các bức tường “ước mơ” đã được dựng lên ở một số trường đại học, cho phép sinh viên viết lên những ước mơ của mình. Viện Khoa học Xã hội TQ cũng đề xuất nghiên cứu giấc mơ TQ.

Ông Tập đã nhắc đến khái niệm “Giấc mơ Trung Hoa” lần đầu tiên vào tháng 11/2012 khi được đề cử làm tổng bí thư. Thuật ngữ này được nhắc lại trong bài diễn văn với tư cách nguyên thủ quốc gia, giải thích rõ: “Để thực hiện giấc mơ Trung Hoa, chúng ta phải cổ suy tinh thần Trung Hoa, vốn lấy sự kết hợp tinh thần dân tộc với lòng yêu nước, tinh thần của thời đại với cải cách và sự sáng tạo làm gốc”.

Đó là một thông điệp đã gây được tiếng vang sâu sắc với công chúng. Theo khảo sát của Công ty Millward Brown, khoảng 70% người TQ nói nhận ra giấc mơ là quan trọng với họ. Sự nhấn mạnh về vinh quang quốc gia, chứ không phải là thành tích hoàn toàn cá nhân, là cốt lõi trong chủ thuyết mà Tập Cận Bình muốn dẫn dắt người dân nước này theo đuổi.

Theo một nhà phân tích tại China Market Research Group: “Giấc mơ Trung Hoa khiến người dân đại lục tự hào hơn về những thành tựu quốc gia, một TQ đang vươn lên trở thành cường quốc, tham gia vào những quyết định quan trọng của thế giới”.

Tuy nhiên, giấc mơ TQ định nghĩa quá mơ hồ và vì thế có thể đại diện cho bất cứ cái gì. Nhiều nhà quan sát phương Tây xem đây là chiến dịch tuyên truyền của giới lãnh đạo mới nhằm chiếm được cảm tình của công chúng và bình ổn xã hội đang có nhiều rối ren. Rõ ràng điều này diễn ra trong lúc khó khăn ngày càng chồng chất đối với tầng lớp lãnh đạo: kinh tế sụt giảm, tham nhũng tràn lan, mâu thuẫn trong xã hội dâng cao…

Cuốn sách “Trung Quốc mộng: Tư duy đại cường trong thời đại hậu Mỹ” chỉ rõ giấc mơ mà Tập Cận Bình xây dựng là một quốc gia mạnh mẽ hơn với quân đội hùng mạnh, nếu lạm dụng sẽ trở thành sự cổ suý cho chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy. Mục tiêu mà ông Tập muốn gieo vào đầu người dân TQ là “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa” vào thời điểm 100 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2049).

Theo đuổi giấc mơ này, TQ đang thiết lập lại chính sách “ngoại giao nước lớn” mà ngoại trưởng nước này không giấu giếm tuyên bố vào tháng 3/2014, trong đó TQ sẵn sàng “phá vỡ mô hình lịch sử của xung đột và đối đầu giữa các nước lớn” để khẳng định vị trí cường quốc của mình.

Đây là chính sách từng được Giang Trạch Dân đưa ra mặc dù thời điểm đó vẫn thừa nhận TQ phải chịu các hạn chế do Mỹ áp đặt. Tập Cận Bình với tham vọng muốn đẩy nhanh vị thế của TQ, đặt mối quan hệ với Mỹ và các cường quốc khác ở trạng thái bình đẳng hơn. Thực tế cho thấy Tập đang đưa TQ đi theo con đường này với hàng loạt động thái phô diễn sức mạnh quân sự, sẵn sàng khiêu khích chủ quyền của các nước láng giềng tại biển Đông, nhằm ngăn chặn sự “xoay trục châu Á” của Mỹ.

Cũng trên vị thế “đại cường”, TQ đã hành xử để gửi thông điệp Nhật Bản phải đứng thấp hơn trong quan hệ song phương và trong địa – chính trị khu vực. Việc lập vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông là một trong những biện pháp nhằm tạo sức ép liên tục và gây cảm giác cô lập Nhật. TQ gia tăng gây rối các quốc gia khác như Philippines và Việt Nam cũng nhằm mục đích này, bất chấp sự chỉ trích của dư luận quốc tế cũng như hậu quả mà TQ phải gánh chịu về mặt ngoại giao quốc tế.

Giới lãnh đạo Bắc Kinh có vẻ quyết tâm duy trì ấn tượng khủng hoảng để biện minh cho quyền lực to lớn của cá nhân, cũng như sự táo bạo và quy mô chính sách ngoại giao nước lớn mà TQ đang hướng tới. Trước xu hướng này, Chương trình Nghiên cứu châu Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS) cảnh báo cần xem xét hậu quả khi đối phó với một nhà lãnh đạo mà dường như nghĩ rằng rất cần duy trì “mức độ căng thẳng nhất định”, cả trong và ngoài nước, để đạt được các mục tiêu chính sách của mình.

Với suy nghĩ này, giấc mơ Trung Hoa có thể sớm trở thành ác mộng ngay cả đối với người dân TQ.

@DoanhnhanSG

Việt Nam-Trung Quốc: Ai vay nợ và ai phải trả

Song Chi
Trong buổi tiếp xúc với cử tri tại TP.HCM ngày 26 tháng 6, ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có những câu phát biểu được báo chí trích dẫn, về vấn đề mà người dân quan tâm nhất hiện nay là tình hình biển Đông và mối quan hệ với Trung Quốc.

Chỉ cần đọc/nghe qua những phát biểu này của một trong bốn nhân vật đứng đầu bộ máy đảng và nhà nước cộng sản, người ta cũng có thể nhận ra quá nhiều điều không ổn trong quan điểm, tư duy, não trạng của các lãnh đạo VN. Từ đó dẫn đến cách hành xử lúng túng, bị động, bạc nhược của họ trước Bắc Kinh bao lâu nay.

Chẳng hạn, khi nói về công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, “Chủ tịch Trương Tấn Sang nhấn mạnh: “Ông Phạm Văn Đồng (cố thủ tướng) có bao giờ nói Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc đâu, đã đăng công khai trên mạng hết rồi…” (“Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Phải giữ bằng được chủ quyền”, báo Tuổi Trẻ).

Đây là lập luận chống chế quen thuộc của nhà cầm quyền VN sau khi vụ công hàm của Phạm Văn Đồng bị công khai trước nhân dân VN và quốc tế. Về việc này, Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn viết trên facebook:

“Ông Phạm Văn Đồng không nói HS-TS là của Tàu?

…Đúng là công hàm PVĐ không đề cập cụ thể đến Hoàng Sa và Trường Sa là của Tàu. Nhưng ông tán thành tuyên bố của Tàu rằng HS-TS là của Tàu. Trong công hàm đó câu đầu tiên viết rằng:

“Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc”.

Vậy thì Tuyên bố 4/9/1958 của Tàu là gì? Trên mạng vẫn còn lưu hành bản tiếng Hoa và một bản dịch tuyên bố 4/9/1958. Tuyên bố có đoạn viết:

“Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.”

Như vậy trong Tuyên bố trên Tàu cộng họ nói rõ rằng HS-TS là của họ (hay theo cách gọi Tây Sa-Nam Sa của Tàu). Chính phủ VNDCCH tôn trọng và tán thành Tuyên bố đó thì cũng có nghĩa là tán thành và công nhận HS-TS là của Tàu rồi. Khó nói cách khác được.”

(nguồn: facebook Nguyen Tuan)

Không chỉ các ông lãnh đạo mà nhiều người dân, nhất là đám dư luận viên trên mạng cũng lập luận tương tự để “chạy tội” cho cái công hàm tai hại, nhưng phải thấy rằng trước quốc tế mà cứ cố cãi như thế này thì không thể thắng được Trung Cộng về lý.

Nói về quan hệ VN-Trung Quốc: “Trước việc Trung Quốc lấy cớ từng giúp Việt Nam trong quá khứ để gây hấn ở biển Đông, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định, Việt Nam mang ơn thì có cách trả ơn, chứ Trung Quốc không được áp đặt.” (“VN mang ơn thì sẽ trả, nhưng Trung Quốc không được áp đặt”, Dân Trí).

Bao lâu nay, phía Trung Cộng tất nhiên là thường xuyên nhắc đi nhắc lại việc đã từng giúp đỡ Bắc Việt “đánh Pháp đuổi Mỹ”, lấy đó làm cớ để mắng mỏ VN vô ơn mỗi khi quan hệ giữa hai đảng cộng sản trở nên xấu đi.

Nhưng không chỉ Trung Cộng, từ các thế hệ lãnh đạo cho tới nhiều tướng tá, quan chức khác nhau của đảng cộng sản VN cũng liên tục nhắc nhở… chính họ và người dân VN, phải biết ơn Trung Quốc.

Người dân VN hoàn toàn có quyền hỏi lại đảng và nhà nước cộng sản rằng hãy nói rõ ràng và sòng phẳng một lần, ai nợ ai.

Chỉ có đảng cộng sản VN nợ đảng cộng sản Trung Quốc để có đủ sức tiến hành hai cuộc chiến, trong đó cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” thực chất là cuộc chiến tranh ý thức hệ, là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam Bắc. Đối với đa số người VN, đó là một cuộc chiến không mong muốn, vậy tại sao người dân VN phải mang nợ Trung Quốc.

Những thông tin, tư liệu được bạch hóa phần nào trong những năm qua đã nói lên tính chất phi lý, vô nghĩa, cái giá quá đắt phải trả cũng như những hệ lụy nặng nề cho đất nước, dân tộc VN từ việc đảng cộng sản chấp nhận sự viện trợ từ Trung Cộng để đổi lấy việc tiến chiếm miền Nam, thống nhất đất nước nhưng lại bị lệ thuộc lâu dài vào Bắc Kinh về mọi mặt.

Và họ đã phải trả món nợ này không chỉ bằng hàng núi xương máu của nhân dân mà cả tài nguyên, những sự ưu tiên trong lĩnh vực kinh tế cho tới một phần lãnh thổ lãnh hải.

Những thông tin, tư liệu đó cũng cho thấy cuộc chiến chống Mỹ của Bắc Việt thật ra có lợi cho chính Trung Cộng như thế nào, đảng cộng sản Trung Quốc lẽ ra phải cảm ơn sự mù quáng của đảng cộng sản VN thì đúng hơn.

Nhưng đó là quan hệ mắc mứu giữa hai đảng, nhân dân VN chả dự phần gì vào để mà cứ phải mang ơn, biết ơn.

Về phía những người cộng sản, chính cái tâm lý mắc nợ, mang ơn này đã khiến họ luôn luôn ở vào thế yếu khi phải đương đầu với Trung Cộng để bảo vệ độc lập chủ quyền và sự vẹn toàn lãnh thổ.

Tự trói buộc mình vào sự tương đồng về mặt ý thức hệ, mặc dù ai cũng rõ cho đến thời điểm này thì cả Trung Quốc lẫn VN đều không còn là hai đảng cộng sản đúng nghĩa và cũng chả bên nào còn thực lòng tin vào chủ nghĩa cộng sản, lý thuyết Marxism-Leninism nữa.

Tiếp đến tự trói buộc mình vào mối ân oán nợ nần, quan hệ 4 tốt 16 chữ vàng giữa hai đảng cộng sản, trong khi trên thực tế, Bắc Kinh từ lâu đã không coi mối quan hệ hai bên ra cái gì. Và bây giờ, là lần thứ hàng trăm hàng ngàn, Trung Cộng đang công khai xâm lược VN, thách thức, lăng nhục nhà cầm quyền VN.

Chừng nào các lãnh đạo, quan chức cộng sản ở VN tự mình rũ bỏ được cái tâm lý mắc nợ ấy trong mối quan hệ với Bắc Kinh thì họ mới có đủ sáng suốt và sức mạnh để đi cùng một con đường với nhân dân và với thời đại: Thoát Cộng, thoát Trung, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, cương quyết giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng trông chờ ở nhà cầm quyền VN điều đó thì khác nào hái sao trên trời!

Cuối cùng, trong các phát biểu của ông Chủ tịch nước, có một ý sau nói về việc bảo vệ chủ quyền:

“Năm nay không xong thì năm tới, mười năm này không xong thì mười năm sau, đời ta không xong thì đến đời con cháu, phải dứt khoát như vậy. Trước sau như một, vấn đề chủ quyền là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, phải giữ gìn” (“Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Phải giữ bằng được chủ quyền”, báo Tuổi Trẻ).

Trước đó, tại cuộc đối thoại với các nhà khoa học VN sáng 17.5 ông Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã nói: “Hoàng Sa là của Việt Nam. Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm Hoàng Sa và nhất định chúng ta phải đòi lại. Đời tôi, đời các bạn chưa đòi được thì con cháu chúng ta sẽ tiếp tục đòi lại” (“Nhất định phải đòi lại Hoàng Sa”, báo Thanh Niên).

Và nếu chú ý tìm kiếm thêm thì chúng ta sẽ thấy không chỉ có hai nhân vật trên phát biểu những ý tương tự.

Nghe thì có vẻ quyết tâm, đầy xúc động (!) nhưng thật ra nói như vậy có nghĩa là các ông giương cờ trắng, chào thua giặc trước rồi và ủy thác việc đòi lại Hoàng Sa cũng như bảo vệ chủ quyền cho…con cháu.

Các ông không sợ người dân rồi con cháu sau này và cả lịch sử nguyền rủa muôn đời vì đã vay mượn các nước để tiêu xài cho đã đời này, mặt khác, tài nguyên đất nước, đất đai, biển, đảo… có bao nhiêu khai thác sạch, cho thuê hay bán sạch để ăn ngay đời này, còn nợ công cho tới việc đòi lại lãnh thổ lãnh hải thì để cho con cháu gánh, hay sao?

Chỉ qua một buổi nói chuyện của một trong Tứ trụ triều đình của VN mà đã bộc lộ bao nhiêu vấn đề trong quan điểm, tư duy của các lãnh đạo VN, chả trách gì tình hình cứ ngày càng bi đát, tuyệt vọng.

VN có thể mất nước đến nơi mà nhà cầm quyền vẫn chưa tìm ra, và cũng không thực tâm muốn tìm, con đường để thoát khỏi Trung Cộng, bảo vệ được độc lập chủ quyền, giang sơn gấm vóc của non sông.

“Hữu nghị viển vông” hay cúc cung phục vụ tỉnh Quảng Đông?

Sau chuyến thăm của Bí thư Quảng Đông, đây là 16 công việc mà các Bộ và tỉnh thành Việt Nam “phải làm”. Công văn của Bộ ngoại giao.

Công văn Bộ ngoại giao VN gửi các Bộ và UBND tỉnh, thành phố

Chúng tôi vừa nhận được, từ ba bạn đọc ở Hà Nội và Sài Gòn, bản chụp công văn số 1832/BNG/ đề ngày 03 tháng 6 năm 2014 của Bộ ngoại giao, do thứ trưởng Hồ Xuân Sơn ký tên, đóng dấu, liên quan đến “danh mục các công việc cần làm sau chuyến thăm Việt Nam của Bí thư tỉnh Quảng Đông Hồ Xuân Hoa”.

Công văn nay được gửi cho: một là, “Các Bộ Công Thương; Kế hoạch và Đầu tư; Giao thông Vận tải; Giáo dục và Đào tạo; Tài chính; Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Khoa học và Công nghệ; Văn hóa, Thể thao và Du lịch”; hai là, “Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố: Hà Nội; Thành phố Hồ Chí Minh; Quảng Ninh; Hải Phòng; Quảng Nam; Đà Nẵng”.

Đính kèm công văn (1 trang) này là “Danh mục công việc phải làm sau chuyến thăm Việt Nam của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (13 – 17/4/2014)”

Dưới đây là toàn văn bản công văn:

“Ngày 20/5/2014, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc gửi Bộ Ngoại giao bản Danh mục các công việc cần làm sau chuyến thăm Việt Nam của Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (13 -17/4/2014).

“Để triển khai tốt các chương trình hợp tác giữa các Bộ/ngành, địa phương ta với tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, Bộ Ngoại giao xin chuyển đến Quý Cơ quan Danh mục này để tham khảo, đưa vào chương trình hợp tác của Quý Cơ quan với tỉnh Quảng Đông.

“Bộ Ngoại giao xin trân trọng cảm ơn sự phối hợp của Quý Cơ quan./.”

Kèm theo là danh mục (hai trang) 16 “công việc phải làm” (xem hình kèm theo)


Để có một ý niệm cụ thể về công văn ký tên Hồ Xuân Sơn nhằm thực hiện ý muốn của Hồ Xuân Hoa, bí thư (hay tổng đốc?) Quảng Đông, chỉ cần chép lại nguyên văn hai “công việc phải làm” số 1 và số 2:

“1. Thúc đẩy Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị và Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải thăm Quảng Đông.

“2. Trong khuôn khổ bồi dưỡng đào tạo cán bộ giữa hai Đảng Trung Việt, triển khai công tác đào tạo cho cán bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Kế hoạch trong 05 năm đào tạo 300 cán bộ Đảng Cộng sản Việt Nam; trong đó Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mỗi địa phương 100 cán bộ, 100 cán bộ của các tỉnh thành có quan hệ hợp tác với Quảng Đông nhiều như TP. Hải Phòng, Đà Nẵng, tỉnh Quảng Ninh, Quảng Nam”.

Thiết tưởng mọi bình luận là quá thừa. Câu hỏi duy nhất đáng đặt ra: đây là công văn của “Bộ ngoại giao Việt Nam” hay là của Sở nội vụ tỉnh Quảng Đông?

B. T.

____________________________________________

Tin tham khảo:

Tạp chí Xây Dựng Đảng:

Đoàn cán bộ Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu về công tác xây dựng đảng tại Trung Quốc

Từ ngày 15-6 đến 24-6-2014, Ban Tổ chức Trung ương cử Đoàn cán bộ cấp vụ do đồng chí Quản Minh Cường, Vụ trưởng Vụ Bảo vệ chính trị nội bộ làm trưởng Đoàn đi nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm công tác xây dựng đảng tại Trung Quốc.

Tại Trung Quốc, Đoàn được tìm hiểu khái quát về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Trung Quốc hiện nay; Điều lệ xây dựng tổ chức và mô hình xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc; Công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc; Cách làm và kinh nghiệm của TP. Bắc Kinh về công tác cán bộ và xây dựng tổ chức cơ sở đảng, phát triển đảng viên.

Về nội dung công tác cán bộ: Đoàn đã đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc về công tác tuyển chọn, sử dụng và đánh giá cán bộ, các nguyên tắc trong tuyển chọn và đánh giá cán bộ như: Đảng quản lý tập trung thống nhất công tác cán bộ; việc lựa chọn cán bộ các cấp đảm bảo có đạo đức và tài năng; cán bộ phải được quần chúng tín nhiệm; nghiêm túc thực hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; giữ vững chế độ tập trung dân chủ; làm việc theo pháp luật. Cán bộ được bổ nhiệm phải đảm bảo có tài, có đức, được đảng viên, quần chúng nhân dân tin cậy. Trong đó lấy chính trị và đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá cán bộ trước khi bổ nhiệm. Có các hình thức bổ nhiệm trực tiếp; thông qua bầu cử dân chủ; ký hợp đồng; tuyển chọn công khai. Công tác đánh giá cán bộ hay sát hạch cán bộ là công việc rất quan trọng của quan tổ chức, công tác này luôn luôn hoàn thiện theo hướng khoa học. Kết quả công tác sát hạch, đánh giá cán bộ vừa là căn cứ quan trọng để tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ vừa để quản lý cán bộ.

Về kinh nghiệm xây dựng tổ chức cơ đảng và phát triển đảng viên: Trong những năm qua, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tập trung lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức đảng toàn diện, nhất là hệ thống tổ chức cơ sở đảng, coi đây là nhiệm vụ quan trọng. Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn coi trọng và quan tâm xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở đảng theo từng loại hình như: cơ quan nhà nước; doanh nghiệp (gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp theo các ngành nghề); các cụm dân cư, làng và khu dân cư của thành phố, các trường cao đẳng, đại học và các tổ chức xã hội với những mục tiêu, giải pháp cụ thể. Công tác phát triển đảng viên được chú trọng, lựa chọn những quần chúng ưu tú nhất để kết nạp vào Đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định, đảng viên phải là người dẫn đầu, mà người dẫn đầu tốt, ban lãnh đạo tốt sẽ thúc đẩy phong trào thi đua làm kinh tế trong đảng viên…

Tại tỉnh Triết Giang, Đoàn làm việc với đại diện Sở Ngoại vụ tỉnh Triết Giang, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Triết Giang khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ… Đồng thời, Đoàn tham quan mô hình sản xuất tơ lụa; mô hình phát triển làng nghề, du lịch; bảo tàng lịch sử đảng tại một số địa phương.

Thủy Anh

Nguồn:

http://www.xaydungdang.org.vn/Home/thoisu/2014/7524/Doan-can-bo-Ban-To-chuc-Trung-uong-nghien-cuu-ve-cong.aspx

Tập Cận Bình: ‘TQ sẽ không bá quyền’

Ông Tập nhân dịp kỷ niệm ngày ký nguyên tắc chung sống hòa bình để đưa ra lời trấn an láng giềng

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói rằng nước ông sẽ không bao giờ tìm cách áp đặt ý chí của mình lên các nước khác cho dù Trung Quốc có mạnh như thế nào đi chăng nữa.

Ông Tập đưa ra phát biểu này ở Bắc Kinh khi ông tiếp các nhà lãnh đạo Ấn Độ và Miến Điện vào cuối tuần.

Nhiều nước láng giềng của Trung Quốc đang dính vào tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh.

Các nước này đang quan ngại về chi tiêu quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc và điều mà nhiều người cho rằng Bắc Kinh ngày càng quả quyết.

‘Phát triển hòa bình’

Bài diễn văn này của ông Tập được đưa ra nhân kỷ niệm 60 năm ngày ký hiện định thiết lập năm nguyên tắc chung sống hòa bình giữa Trung Quốc với Ấn Độ và Miến Điện vốn đã trở thành khuôn mẫu cho các nước khác áp dụng.

“Trung Quốc không có quan niệm là một nước nào đấy chắc chắn sẽ tìm cách thiết lập bá quyền một khi trở nên hùng mạnh,” ông nói.

Phô bày sức mạnh quân sự chỉ thể hiện là anh thiếu tầm nhìn hoặc thiếu cơ sở đạo đức chứ không cho thấy là anh mạnh.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình

“Bá quyền và quân phiệt không có trong huyết quản của người Trung Quốc. Trước sau như một Trung Quốc sẽ theo đuổi con đường phát triển hòa bình vì đây cũng lợi ích của Trung Quốc, lợi ích của châu Á và của cả thế giới.”

Và trong một câu nói dường như làm nhằm vào Mỹ, ông Tập nói rằng ‘thời thống trị của siêu cường đã qua rồi’.

“Ý nghĩ thống trị quan hệ quốc tế đã thuộc về quá khứ và những nỗ lực như thế trước sau gì cũng thất bại,” ông nói.

“Phô bày sức mạnh quân sự chỉ thể hiện là anh thiếu tầm nhìn hoặc thiếu cơ sở đạo đức chứ không cho thấy là anh mạnh.”

Nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng kêu gọi ‘một kiến trúc mới cho an ninh châu Á-Thái Bình Dương’.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc khiến nhiều nước láng giềng lo ngại

Từ Bắc Kinh, phóng viên BBC Damian Grammaticus nhận định về bài phát biểu này của ông Tập như sau:

“Với bài phát biểu này, chủ tịch Trung Quốc có một mục tiêu rất rõ ràng: ông muốn trấn an các nước láng giềng và các nước khác đang dõi theo sự vươn lên của Trung Quốc vốn đang tự hỏi nước này sẽ trở thành một siêu cường như thế nào.

Tuy nhiên liệu thông điệp của ông Tập có đạt được mục đích hay không lại là chuyện khác. Phó Tổng thống Ấn Độ cũng có mặt để nghe ông Tập nói nhưng có nhiều lãnh thổ mà họ cho là của họ hiện Trung Quốc đang kiểm soát hoặc tuyên bố có chủ quyền.

Và trong những tháng gần đây chúng ta đã chứng kiến va chạm trên biển giữa tàu Trung Quốc và Việt Nam và căng thẳng gia tăng giữa Bắc Kinh với Hà Nội, Manila và Tokyo xung quanh tranh chấp biển đảo.

Tuy nhiên, phần lớn phát biểu của ông Tập dường như cuối cùng là nhằm vào Mỹ. Ông Tập nói cái mà ông gọi là ‘luật rừng’ khi mà một nước tìm cách thao túng quan hệ quốc tế đã là chuyện quá khứ.

Tuy nhiên khi mà Trung Quốc chi tiêu ngày càng nhiều cho quân sự và đang tìm cách mở rộng ảnh hưởng thì các nước láng giềng của họ và Hoa Kỳ sẽ nhìn xem những gì Trung Quốc làm cũng như những gì mà họ nói.”

@bbc

Lượm lặt tin 28-6-14

Thân nhân Tập Cận Bình tẩu tán tài sản

Báo New York Times số ngày 17 tháng 06 đã đăng một bài điều tra cho thấy gia tộc họ Tập đáng tẩu tán hàng trăm triệu đô-la ra khỏi các vụ đầu tư béo bở để bố già tránh không còn bị gièm pha mà hăng hái chống tham nhũng, mục tiêu nhằm hạ gục các đối thủ chính trị trong nước.

Từ năm 2012 nhiều tài liêụ cho thấy chị ruột và anh rể của nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bán đi phần hùng trong ít nhất là 10 công ty chuyên về nhà đất và khoáng sản. Số tiền thu vào được chuyển cho một cộng sự viên thân tín giữ dùm. Nhưng dù đã tẩu tán một phần lớn tài sản cặp vợ chồng này và con gái vẫn còn hàng chục triệu đô-la đầu tư vào nhiều cơ sở địa ốc khác.

Tập Cận Bình

Giai cấp tư bản đỏ tại Hoa Lục đã tích tụ hàng tỷ đô-la từ khi nhà nước tư nhân hoá xí nghiệp quốc doanh trong đó gồm cả công ty khai thác đất hiếm mà gia đình họ Tập có phần hùn khá lớn. Mỗi trong số bốn đại gia tộc có liên hệ với Bộ Chính Trị thu vào ít nhất 150 triệu USD từ 2007-12, trong đó có họ hàng của Tập Cận Bình và cựu thủ tướng Ôn Gia Bảo.

Riêng Tập Cận Bình và vợ dù không bị phanh phui hối mại quyền thế, nhưng họ Tập một mặt hô hào dân chúng chống tham nhũng đồng thời lại bỏ tù đàn áp khắc khe các nhà tranh đấu đòi hỏi giới lãnh đạo công khai hoá tài sản. Tiêu biểu là trường hợp của luật sư Xu Zhihong bị tuyên án 4 năm tù về tội phá rối trật tự.

Từ ngày lên nắm quyền họ Tập chứng tỏ là nhà lãnh đạo tài cao chí lớn. Chiến lược đề ra đủ để mọi người khác sờn lòng: đánh tham nhũng tận gốc; tái cấu trúc nền kinh tế từ đầu tư sang tiêu thụ; bành trướng ra Đông Á; hoà diụ với Nga khi cần đối đầu với Tây Phương. Nhưng để thực hiện các chương trình táo bạo này Tập Cận Bình phải tập trung quyền hành và đánh gục vây cánh của Ôn Gia Bảo và Chu Vĩnh Khang. Họ Tập lâm vào thế cưỡi cọp, nếu sau này hết nhiệm kỳ xuống chức thì sợ bị phe phái khác nổi lên trả thù thanh toán.

Cho nên Tập Cận Bình cứ tự phong chức Hoàng Đế sáng lập triều đại họ Tập mới chắc ăn.

© Đàn Chim Việt

——————–

Vì sao VN ‘ít đóng góp cho nhân loại’?

Nhân giải bóng đá World Cup ở Brazil, người Việt làm cúp để kinh doanh

Tác giả một bảng xếp hạng các nước về “đóng góp cho nhân loại” giải thích vì sao Việt Nam bị xếp vị trí áp chót.

Bấm Good Country Index là bảng xếp hạng mới ra mắt của một tác giả, nhà tư vấn chính sách Simon Anholt.

Trong 125 nước được đánh giá, Libya bị xếp chót, ở trên là Việt Nam (124).

Nói với BBC, ông Simon Anholt nhận xét Việt Nam có thứ hạng tốt về Văn hóa, đứng thứ 76.

“Tuy nhiên, tình hình đặc biệt có vấn đề ở Trật tự Thế giới (xếp thứ 123), và Hành tinh/Khí hậu (123).”

“Có những lĩnh vực cần cải thiện như làm từ thiện, số lượng người tị nạn, số lượng các hiệp định ký với LHQ, ô nhiễm nước, không khí, tự do báo chí, an ninh internet…”

Good Country Index dựa trên các khảo sát của các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc và World Bank.

Có nhiều ví dụ cho thấy phát triển kinh tế, xã hội trong nước cũng có thể đi chung với cam kết thực sự vì nhân loại và hành tinh.

Simon Anholt

Các đánh giá đóng góp của 125 nước dựa trên bảy tiêu chí về thành tích như khoa học công nghệ, văn hóa, hòa bình và an ninh quốc tế, trật tự thế giới, khí hậu, thịnh vượng, bình đẳng, sức khỏe…

Tác giả Simon Anholt cho rằng không nên ngạc nhiên khi Việt Nam bị xếp thấp, nhưng cũng nói Việt Nam vẫn có thể làm tốt hơn.

“Việt Nam đối diện nhiều thách thức ở trong nước, và có vẻ kỳ lạ khi mong đợi một nước như vậy cũng phải nghĩ đến chuyện đóng góp cho quốc tế.”

“Nhưng có nhiều ví dụ cho thấy phát triển kinh tế, xã hội trong nước cũng có thể đi chung với cam kết thực sự vì nhân loại và hành tinh.”

Ở bảng xếp hạng chung, Ireland đứng đầu, và cùng nhóm đầu bảng là các nước vùng Bắc Âu được cho là “có đóng góp chung nhiều nhất cho nhân loại và hành tinh”, hơn hẳn các khu vực khác trên thế giới.

Anh Quốc đứng thứ bảy và Hoa Kỳ đứng thứ 21 trong khi Kenya đứng thứ 26 trên toàn cầu nhưng là quốc gia đứng đầu châu Phi vì đã “nêu ví dụ đầy cảm hứng” về đóng góp có ý nghĩa xã hội.

Dương Vũ – Ai đang làm khánh kiệt đất nước? (phần 7)

Dương Vũ

Dân Luận: Những thông tin trong bài viết này chúng tôi không có điều kiện để kiểm chứng do vậy xin bạn đọc Dân Luận hãy thận trọng khi sử dụng những thông tin được cung cấp ở đây.

Những điều chia sẻ có thể không mới với một số người nhưng nhìn chung, có thể nó khá xa lạ với số đông. Thậm chí nhiều người không tin đó là sự thật. Chính niềm tin mù quáng và những điều tệ hại đã đẩy dân tộc chúng ta đi từ tệ hại này đến tan nát khác. Đưa đất nước từ lầm than này đến khánh kiệt khác.

Trong phần này, chúng tôi sẽ tiếp tục đưa ra những vụ việc cụ thể về hai mảng vấn đề mà dư luận luôn quan tâm đó là mảng ngân hàng và công an nhưng nó sẽ được xem xét trong bối cảnh đan xen giữa hai mảng vấn đề trên.

Trước tiên, xin thông tin về nhân vật một thời được ca ngợi như một anh hùng và thực tế đã được nhà nước cộng sản Việt Nam hai lần phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang. Đó là Trung Tướng Công An Nguyễn Việt Thành, người được biết đến với cái tên Tư Bốn. Tư Bốn đang sống như vợ chồng với quái nữ giang hồ Nguyễn Thị Nghiệp, vợ Minh Sứt.

Ông Tư Bốn nổi tiếng với vụ án Năm Cam cách đây hơn chục năm. Vụ Năm Cam được làm sau cái chết của một trùm giang hồ khác là Dung Hà. Người chứng kiến giây phút Trường Xoăn và Hưng Phinhon hạ gục Dung Hà là Nguyễn Thị Nghiệp, vợ hai của Minh Sứt, một trùm buôn lậu ma túy.

Nay, ông Tư Bốn, bỏ bà vợ già và đang sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Nghiệp. Nguyễn Thị Nghiệp, chị em giang hồ với không chỉ chị em của Dung Hà mà cả với chị em của Hạnh Sự, Oanh Sự…

Minh Sứt đang bị án tù chung thân vì buôn ma túy. Nhưng câu chuyện liên quan đến Minh Sứt, một trùm giang hồ buôn lậu 2000 bánh heroin mà tại sao lại thoát án tử, chỉ phải tù chung thân?

Tư Bốn cùng với Bùi Mạnh Cường, viện phó Viện Kiểm Sát Tối Cao, khi đó mới chỉ là lãnh đạo cấp vụ, làm hồ sơ xác minh Minh Sứt (tên thật là Ngô Đức Minh, sinh năm 1956) là người của công an.

Sau khi đạo diễn cho Minh Sứt thoát án tử. Minh Sứt dâng vợ là Nguyễn Thị Nghiệp cho Tư Bốn và trả công cho Bùi Mạnh Cường một căn nhà 7 tầng to vật vã trên đường Giảng Võ, Hà Nội.

Cũng chính thời điểm làm vụ án Năm Cam, những cán bộ công an thuộc chuyên án này tác oai, tác quái, kiếm chác, bậy bạ. Và nhiều trong số đó đã bị chính những đồng đội của mình cho xộ khám.

Còn về phía Bùi Mạnh Cường. Cường quê Vụ Bản – Nam Định, lớn lên ở Kiến Xương – Thái Bình. Nhưng Cường khoe quê Thái Bình và là đồng hương với Viện Trưởng Trần Quốc Vượng. Nay là Chánh Văn Phòng Trung Ương Đảng. Vợ chồng Cường khoe, ngôi biệt thự của Trần Quốc Vượng ở Đốc Ngữ là do vợ chồng Cường bỏ tiền ra. Và Trần Quốc Vượng là người đưa Bùi Mạnh Cường lên chức Viện Phó.

Liên quan đến vụ án của Huyền Như, có ba nhân vật đó là Nguyễn Thiên Lý, Hùng Mỹ Phương và Phạm Văn Chí tham gia lừa đảo và cho vay nặng lãi với số tiền là 1362 tỷ nhưng Tòa không tuyên tịch thu khoản tiền này.

Việc này, Trần Đại Quang và Phan Văn Vĩnh biết nhưng dùng cái đó để khống chế lại Chánh Án Tòa Tối Cao Trương Hòa Bình.

Về tiến trình xem xét hồ sơ phúc thẩm vụ Huyền Như, các cơ quan phúc thẩm đã nhận thấy, cần xử Huyền Như về tội tham ô nhưng Trương Hòa Bình gạt đi và người ta nhận thấy có nghi ngờ việc Chánh Án phạm tội tham ô và vi phạm pháp luật để đưa vụ án theo một hướng khác gỡ tội cho Bình Ruồi.

Bình Ruồi mua Ban Nội Chính, mua Tòa để gỡ hết tội liên quan đến vai trò và trách nhiệm của cá nhân Thống Đốc cũng như của Ngân Hàng Nhà Nước. Bình giễu cợt Tòa đến mức, Tòa triệu tập không đến. Cho nhân viên đến nhưng khi Tòa hỏi đều không trả lời được hoặc không thèm trả lời.

Về phía Phan Văn Vĩnh, sang năm 2015 sẽ phải nghỉ hưu nhưng Vĩnh đang chạy Ba X và phục vụ Ba X hết lòng để Ba X ký gia hạn cho Vĩnh thêm 2 năm nữa. Đổi lại Vĩnh đang tích cực đánh những ai là đối thủ hoặc không khuất phục anh Ba cho đến hết Đại Hội Đảng lần tới. Nhiệm vụ của Vĩnh còn đánh các sân sau của Sinh Hùng.

Về phía Trần Đại Quang và Nguyễn Văn Hưởng. Mặc dù Hưởng đổ tội cho Quang làm Tây Nguyên bạo loạn nhưng trong việc đưa Quang lên, Hưởng cũng có công. Loại bỏ được Lê Thế Tiệm, Quang rảnh đường lên làm Bộ Trưởng. Và trong thời điểm hiện nay, Quang vẫn sợ Hưởng bởi chính Hưởng cũng bỏ qua cho Quang vụ giả mạo hồ sơ năm sinh. Sắp tới đây, Đại Quang sẽ đưa con trai Hưởng là Nguyễn Hoàng Linh từ Tổng Cục 5 về làm Cục Trưởng Cục Bảo Vệ Chính Trị I thay thiếu tướng Nguyễn Thế Công sắp nghỉ hưu.

Về công việc ở Bộ Công An, cả Trần Đại Quang và Phan Văn Vĩnh lại rất mê tín Trần Vì Dân, một tay gốc Thanh Hóa. Trần Vì Dân được Quang đưa từ Vụ Phó Vụ Pháp Chế về làm Tổng Biên Tập tạp chí Công An Nhân Dân. Nói chuyện với với Dân thì người đối diện chỉ muốn đâm vào mồm hắn vì thói ăn nói kiểu bố đời, coi trời bằng vung nhưng năng lực và hiểu biết thì rất hạn chế.

Về sai phạm của BIDV

Trong văn thư ký ngày 30 tháng 12 năm 2013, Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thịnh, Cục trưởng C46 yêu cầu Tổng Thanh Tra Chính Phủ Huỳnh Phong Tranh chuyển hồ sơ liên quan đến các sai phạm của Ngân Hàng Phát Triển Việt Nam (VDB) và Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV) để điều tra truy tố nhưng vụ việc vẫn vậy.

Chúng tôi xin liệt kê một số sai phạm được Thiếu Tướng Thịnh nhắc đến trong văn thư trên như sau:

Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu có nguyên nhân từ việc không chấp hành đúng các quy định trong hoạt động tín dụng của BIDV trong quá trình cho vay. Tính đến thời điểm 30/11/2010 tổng nợ xấu của BIDV là gần 6000 tỷ (5.968.530.000.000) đồng. Qua kiểm tra 148 hồ sơ do BIDV cung cấp tại 19/109 chí nhánh trong 3 năm 2008-2010 thì có 19 hồ sơ phê duyệt vượt thẩm quyền, 04 hồ sơ không đủ điều kiện về vốn tự có, 11 hồ sơ thiếu tài sản đảm bảo. Rồi cả việc cho vay để đảo nợ số tiền lên đến gần 4000 tỷ. 04 hồ sơ giải ngân vượt hạn mức, 10 hồ sơ không có tài sản đảm bảo vẫn giải ngân, 05 hồ sơ giải ngân mà khách hàng không có vốn tự có… 30 hồ sơ hỗ trợ lãi sất trái quy đình với số tiền hơn 3000 tỷ. Trong số 148 hồ sơ cho vay của BIDV đều có dấu hiệu vi phạm hình sự về cho vay trong các hoat động của các tổ chức tín dụng (điều 179 BLHS).

Xin nhắc lại là đây chỉ là kiểm tra hồ sơ trong số mà Thanh Tra Chính Phủ đã thanh tra chứ không phải hết tất cả những gì cần thanh tra cũng như mới chỉ 19/109 chính nhánh của BIDV trên cả nước. Cũng như chỉ kiểm tra trong giai đoạn 2008 đến 2010.

Về sai phạm ở ngân hàng phát triển Việt Nam VDB

VDB đã huy động vốn lớn, vượt quá nhu cầu sử dụng vốn dẫn đến tồn đọng bình quân năm 2008 là 9.122 tỷ đồng; năm 2009 là 10.441 tỷ đồng; năm 2010 là 24.681 tỷ đồng; năm 2011 là 35.076 tỷ đồng. Năm 2010 VDB sử dụng vốn tồn đọng để gửi tại các ngân hàng thương mại và ở một số thời điểm lãi suất huy động cao hơn lãi suất tiền gửi. Huy động vốn bằng ngoại tệ khi chưa được ngân hàng nhà nước cấp phép. Qua kiểm tra 159 hồ sơ, phát hiện nhiều hồ sơ cho vay không đúng đối tượng, cho vay không đảm bảo về tài sản, về vốn tự có, vi phạm điều kiện giải ngân, vi phạm về sử dụng vốn vay dẫn đến nợ xấu của VDB là 22 ngàn tỷ đồng. Việc này có dấu hiệu pham tội ở các điều 165 và 179 BLHS.

Cho vay dự án nhà máy mạ sơn, sơn màu do Tổng Công Ty Bạch Đằng làm chủ đầu tư (nay đã chuyển cho LILAMA) gây mất vốn trên 312 tỷ.

Dự án mua tàu của trường Đại Học Hàng Hải xin mua tàu mới rồi sau lại xin chuyển đổi từ đóng mới sang mua tàu cũ. Mua tàu cao hơn giá trị thực, nâng giá tàu chênh hơn 2 triệu đô la Mỹ.

Nhiều dự án hiện nay, chủ đầu tư đã tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Nợ xấu xếp vào nhóm 5, nhóm nợ có khả năng mất vốn. Ví dụ như dự án nhà máy chế biến gỗ xuất khẩu Bắc Sơn do công ty TNHH Bắc Á làm chủ đầu tư. Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất máy hàn khí do công ty TNHH Hoàng Quyền làm chủ đầu tư. Dự án nhà máy dệt Quế Võ. Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (điều 179 BLHS), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (điều 140 BLHS).

Nhưng một lần nữa phải nhắc lại lời thiếu tướng Thịnh, đó là do tài liệu Thanh Tra Chính Phủ chuyển qua bước đầu chỉ có bản kết luận thanh tra và một số biên bản kiểm tra cho nên chưa đủ để đánh giá đầy đủ về hành vi vi phạm, hậu quả cũng như những tình tiết khác có liên quan đến các sự việc được nêu trong kết luận thanh tra. Những kết luận được nêu trong các bản kết luận thanh tra thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng trong một số vụ việc, cần phải được điều tra, thu thập tài liệu một cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn để có đánh giá đúng tính chất, mức độ của hành vi vi phạm.

Tuy nhiên, C46 yêu cầu Thanh Tra Chính Phủ chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu liên quan đến nhưng hồ sơ nêu trên vẫn chỉ là một văn thư mà thôi.
Đó chỉ là một phần nhỏ những vụ việc, trong một thời gian ngắn cũng như đối với những hồ sơ nhỏ lẻ mà thôi.

Đối với những khách hàng lớn, quan trọng và là những đầu mối lợi ích quan trọng thì chưa được nhắc đến và Thanh Tra hay Công An chả bao giờ nhắc đến.

Tuy nhiên, nếu như mọi sự tham ô, tham nhũng, phá hoại của các nhóm lợi ích trên được phanh phui một cách rộng rãi hơn, chắc còn nhiều con số kinh khủng hơn mà chúng ta không ngờ tới.

Dương Vũ

GS Thayer: ‘Việt Nam phải lên tiếng bây giờ nếu không sẽ mất cơ hội mãi mãi’

Hoài Hương

Giáo sư Carl Thayer (trái) dự hội nghị về Biển Đông
Giáo sư Carl Thayer nói việc Trung Quốc điều máy bay quân sự tới gần giàn khoan có thể là để thử nghiệm trước khi tuyên bố một khu phòng không trên Biển ĐôngMột giới chức hàng hải cao cấp của Việt Nam tiết lộ rằng cho tới thời điểm này, hơn 27 tàu của lực lượng kiểm ngư Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc cố ý đâm va hơn 100 lần, gây thiệt hại nặng cho các tàu kiểm ngư Việt Nam.

Trong một cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao Việt Nam chiều hôm qua, Phó Cục Trưởng Cục Kiểm Ngư Việt Nam Hà Lê còn cho biết là từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế Việt Nam, các tàu của Trung Quốc thường xuyên có hành động nguy hiểm để “tấn công và uy hiếp” nhân viên của lực lượng kiểm ngư và cảnh sát biển Việt Nam, ngăn cản không cho họ thi hành phận sự, và vì những hành động này mà từ hồi đầu tháng 6 tới giờ, 15 nhân viên của lực lượng kiểm ngư Việt Nam bị thương.

Đây là một trường hợp phải lên tiếng bây giờ, nếu không sẽ mất cơ hội mãi mãi. Trung Quốc muốn tăng mức độ uy hiếp các nước ở Á Châu, bằng cách trừng phạt và áp lực các nước này, để họ đừng lên tiếng phản đối những gì mà Trung Quốc đang làm. Nếu ngoan ngoãn im lặng thì có thể làm ăn hợp tác với Trung Quốc, nhưng đây không phải là một quan hệ ngang hàng giữa hai quốc gia ngang nhau, mà phải trở về quan hệ giữa một nước lớn và chư hầu như thời phong kiến khi xưa

» Giáo sư Carl Thayer

Trang mạng Đời sống Pháp luật.com đăng tải nội dung của buổi họp báo, nêu lên những vụ điển hình gần đây nhất, xảy ra hôm 17 tháng 6, 18 tháng 8, và đáng chú ý nhất, theo bài báo là vụ xảy ra hôm 23 tháng Sáu, khi tàu kiểm ngư Việt Nam mang số hiệu KN-951 đang thi hành nhiệm vụ thực thi pháp luật trên biển, thì bị 4 chiếc tàu Trung Quốc bao vây, đâm va, gây hư hỏng nặng.

Phía Việt Nam cáo buộc rằng hành động hung hăng nguy hiểm đó của Trung Quốc cho thấy một sự tính toán trước, cố tình đâm vào chiếc tàu kiểm ngư 951 của Việt Nam để gây thiệt hại nặng cho tàu này.

Tin của VnExpress hôm nay tường trình rằng Trung Quốc đã điều thêm máy bay chiến đấu tới giàn khoan HD 981. VnExpress nói rằng chiều ngày 26 tháng từ 6 giờ tới 7g 40, Trung Quốc đã cho máy bay trinh sát bay ba lượt qua khu vực các tàu Việt Nam, và từ 8 g 45 tới 8g 55, lực lượng kiểm ngư phát hiện hai chiến đấu cơ Trung Quốc lượn ở độ thấp cách giàn khoan 12 hải lý.

Nói chuyện với Ban Việt ngữ –Đài VOA, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam, từng làm việc cho Học viện Quốc phòng Australia, nhận định về những diễn biến này và những vụ đụng độ trên biển giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc hồi gần đây.

Giáo sư Thayer nói: “Dường như đây là dấu hiệu cuộc tranh chấp đang được quân sự hóa. Trung Quốc đã điều nhiều phi cơ, phần lớn là phi cơ dân sự nhưng cũng có các máy bay quân sự khi nước này băt đầu triển khai giàn khoan dầu Hải Dương 981, và từ đó đã có nhiều máy bay quân sự khác được báo cáo trong khu vực này. Gửi thêm máy bay tới khu vực chỉ quân sự hóa cuộc tranh chấp, nhưng điều đó cho thấy là có thể Trung Quốc đang thử nghiệm khả năng của họ để thiết lập một khu phòng không, buộc các máy bay khác phải báo cáo khi bay ngang qua một vùng không phận giới hạn trên Biển Đông, từ phía Nam đảo Hải Nam và đảo Hoàng Sa, rồi hướng về phía Tây dọc theo bờ biển tới khoảng Đà Nẵng.”

Nhận định về phản ứng có phần không mấy quyết liệt của giới lãnh đạo Việt Nam trước những hành động leo thang và đụng độ trên biển hồi gần đây, Giáo sư Thayer nói:

Dựa vào những báo cáo đến được tay tôi, thì Bộ Chính Trị hoàn toàn chia rẽ về liệu có nên ra mang vấn đề ra trước tòa án để thách thức Trung Quốc, hay là cứ tiếp tục phản ứng một cách không ồn ào. Giới lãnh đạo Việt Nam rất sợ rằng nếu họ tỏ thái độ quyết liệt hơn phản đối Trung Quốc, thì Trung Quốc sẽ lại leo thang vấn đề lên hơn bây giờ nữa, và trừng phạt Việt Nam phải chịu những hậu quả nặng nề hơn nữa, và có thể phơi bày ra trước ánh sáng công luận Việt Nam rằng giới lãnh đạo Việt Nam không có khả năng hành động một cách cương quyết. Đó là thực tế của tình hình. Quả thực, chính phủ Việt Nam không có khả năng hành động một cách cương quyết.”

Giáo sư Thayer nói trong giới lãnh đạo hàng đầu trong Bộ Chính Trị Việt Nam, sự lo sợ cao tới mức khi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Kerry mời Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh sang Washington để thảo luận về vấn đề Biển Đông, Bộ Chính Trị đã quyết định phái một Thứ Trưởng Ngoại giao đi thay vì ông Phạm Bình Minh, bởi vì Hà nội sợ phái Bộ trưởng Ngoại giao tới Washington sẽ là hành động quá nhạy cảm vào thời điểm này, và điều đó cho thấy là có một số ủy viên Bộ Chính Trị muốn hòa hoãn, và nhượng bộ Trung Quốc, với hy vọng sẽ có thể giải quyết được cuộc tranh chấp này.

Được hỏi liệu hòa hoãn quá có làm cho tình hình xấu đi hơn nữa hay không, Giáo sư Thayer trả lời:

Vâng, theo tôi đây là một trường hợp phải lên tiếng bây giờ, nếu không sẽ mất cơ hội mãi mãi. Trung Quốc muốn tăng mức độ uy hiếp các nước ở Á Châu, bằng cách trừng phạt và áp lực các nước này, để họ đừng lên tiếng phản đối những gì mà Trung Quốc đang làm. Nếu ngoan ngoãn im lặng thì có thể làm ăn hợp tác với Trung Quốc, nhưng đây không phải là một quan hệ ngang hàng giữa hai quốc gia ngang nhau, mà phải trở về quan hệ giữa một nước lớn và chư hầu như thời phong kiến khi xưa. Trung Quốc muốn mình là số Một, các nước khác phải thừa nhận điều đó, và không muốn các nước khác liên kết với các thế lực bên ngoài khác.”

Mới đây Ủy viên Quốc Vụ Viện Trung Quốc đã đến Việt Nam, và đòi hỏi Việt Nam với thái độ khá gay gắt phải ngưng leo thang những lời tố cáo Trung Quốc về vấn đề tranh chấp Biển Đông.

Giáo sư Thayer khuyến cáo rằng nếu các nước nhỏ tiếp tục nhượng bộ, Trung Quốc dần dà sẽ thực hiện ý định chiếm thêm biển đảo, xây cất trên biển, và tất cả những gì mà Bắc Kinh muốn làm, và càng để lâu sẽ càng khó giải quyết một cách có lợi cho các nước nhỏ hơn.

Cánh chim báo bão Đỗ Thị Minh Hạnh đã sải cánh tự do!

Phạm Chí Dũng

Dân Luận: Theo tin từ gia đình, tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh đã được trả tự do vô điều kiện và đang trên đường về đoàn tụ gia đình.

Được biết hồ sơ Đỗ Thị Minh Hạnh được nêu ra trong quá trình thương thuyết gia nhập Hiệp Định Xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Đỗ Thị Minh Hạnh được biết tới như một nhà đấu tranh bảo vệ quyền lợi của người công nhân tại Việt Nam. Cô bị bắt năm 2010, khi đó mới 25 tuổi, với cáo buộc “xúi giục” công nhân của một công ty giày da tỉnh Trà Vinh tổ chức đình công. Cô bị xử 7 năm tù giam với tội danh “phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân” theo điều 89 Bộ luật Hình sự, vì đã rải truyền đơn kích động công nhân biểu tình, đình công.

Đây là một điều đáng mỉa mai, vì Đảng CSVN – đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp lao động – là người người bắt giữ Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương. Trong khi chính phủ Hoa Kỳ, đại diện cho chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động, lại là người can thiệp để Việt Nam phải trả tự do cho Hạnh và đòi hỏi một hệ thống công đoàn thực sự độc lập và thực sự vì quyền lợi của người công nhân được thiết lập ở Việt Nam.

Trong 4 năm bị giam cầm, Hạnh vẫn tiếp tục đấu tranh phản kháng sự áp bức bóc lột sức lao động của các tù nhân từ công an trại giam. Vì lý do này cô đã bị đối xử tàn tệ, bị đánh đập và chuyển trại ra miền Bắc – xa gia đình, rất khó khăn cho việc thăm nuôi. Sức khỏe của Hạnh cũng suy yếu nhiều, dù năm nay cô mới 29 tuổi.

Hai tuần trước đã có tin Hạnh sẽ được trả tự do, nhưng cuối cùng điều đó đã không thành sự thật vì Hạnh từ chối ký giấy tờ cơ quan công an ép cô ký. Chúng tôi mong rằng lần này Hạnh sẽ được trả tự do thực sự, và xin gửi lời chúc mừng tới Hạnh và gia đình!


Đỗ Thị Minh HạnhKhông còn là tin đồn nữa. Khi chính một nữ cựu tù nhân lương tâm còn trong vòng quản chế như Phạm Thanh Nghiên nghẹn ngào cho tôi biết, và chính anh Đỗ Ty – cha của Hạnh – xác nhận qua điện thoại, thì mọi ngờ vực đều tan biến.

Chiều muộn ngày 27/06/2014, Đỗ Thị Minh Hạnh – cánh chim báo bão những năm về trước – đã làm cộng đồng dân chủ trong nước và hải ngoại tràn ngập một niềm vui khó tả: cô vừa được tự do!

Hạnh đang trên đường về nhà!

Hầu tương tự như trường hợp của “người tù xuyên thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu, những tin tức đầu tiên về việc Minh Hạnh có thể được “cho về” đã xuất hiện cách thời điểm trả tự do khoảng một tháng. Và trong khoảng thời gian một tháng ấy, “họ cố ép tôi ký bản nhận tội, nhưng tôi nói rõ với họ là tôi không ký vì tôi không có tội gì hết!” – tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu thản nhiên thuật lại và còn ngâm nga bài thơ “Con bò kéo xe” của ông.

Cách đây chưa đầy một tuần, những thông tin từ gia đình Đỗ Thị Minh Hạnh và người mẹ vận động không mệt mỏi cho cô như đã cảnh báo về ý đồ “giấy nhận tội”. Lẽ đương nhiên, ai cũng hiểu đó là quán tính của một chính thể chưa thể quen với quán tính bắt buộc phải thừa nhận sai lầm khi bắt người, nhất là khi người đó lại chỉ đấu tranh cho quyền lợi của công nhân Việt Nam chứ chẳng hề nhắm tới động cơ lật đổ chế độ hiện hành.

Vào buổi sơ khai của phong trào đấu tranh công nhân, hành động chính quyền bắt ba người tranh đấu Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng cũng tràn sắc máu nguyên thủy. Không một ai được thanh minh, cũng chưa từng có một dấu hiệu thỏa hiệp nào của Nhà nước Việt Nam với nhu cầu công đoàn độc lập quá sức bức bối.

Khác hẳn với giờ đây…

Giờ đây, gần 1.000 cuộc đình công của công nhân diễn ra hàng năm tại nhiều vùng ở Việt Nam đã đủ chứng minh cho tính “ưu việt” đến thế nào của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam – một cơ quan công quyền nhưng trung gian để trực tiếp hưởng 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp và cũng ăn vào công sức lao động của công nhân, một tổ chức “đại diện cho quyền lợi của công nhân” song đã chưa từng chấp nhận bất kỳ một cuộc đình công nào trên toàn quốc, ngược hẳn với mối giao hảo chung chịu của họ với giới chủ doanh nghiệp.

Giờ đây và khác hẳn với thời kỳ làn sóng công nhân tranh đấu bị đàn áp, chính thể cầm quyền ở Việt Nam đang phải dần chấp nhận đòi hỏi về định chế công đoàn độc lập do người Mỹ và phương Tây đặt lên bàn đàm phán Hiệp định TPP. Không phải vô cớ mà cũng vào tháng Sáu này, hơn 150 dân biểu quốc hội Mỹ đã đồng gửi thư kiến nghị cho Đại diện thương mại Hoa Kỳ về “không TPP nếu không có công đoàn độc lập”“Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Đỗ Thị Minh Hạnh”.

Cũng không phải vô cớ mà kịch bản cánh chim báo bão Đỗ Thị Minh Hạnh được trả tự do vô điều kiện không chỉ là niềm vui bất ngờ của cô và gia đình, mà còn khiến bật lên một tia hy vọng lớn lao hơn nhiều: đã có tín hiệu về một khả năng nào đó tổ chức công đoàn độc lập được chính quyền “thí điểm” ở Việt Nam trong vài năm tới.

Hãy khóc…

Nếu có thể nhớ lại, hãy nên so sánh những bước chân của Hạnh bần thần ra khỏi phòng giam với không khí òa vỡ của đám đông vào tháng 8/2013, khi nữ sinh áo trắng Phương Uyên đột ngột được phóng thích ngay tại tòa Long An. Để sau tháng Tám ấy là một sự chuyển mùa dân chủ ở Việt Nam, nơi mà tiếng chim hót dân sự đã không còn bị vùi dập quá tàn nhẫn.

Cánh chim báo bão Minh Hạnh hẳn cũng như vậy thôi. Phía trước không chỉ là bầu trời tự do với riêng cô, mà một chân trời mới đang hé rạng cho các tổ chức xã hội dân sự ở đất nước đầy cam go này, nơi mà mới đây 16 tổ chức dân sự đã tiếp bước Hạnh để ra một tuyên bố về sự cần kíp xây dựng tổ chức công đoàn độc lập cho 5 triệu công nhân Việt Nam.

Hạnh hãy khóc đi, những giọt nước mắt siết bao ơn nghĩa với Người Mẹ và Dân Tộc…

Phạm Chí Dũng

Vụ án gián điệp Trương Đình Hùng Chính trị – xã hội

Nguyễn Ngọc Giao
 

Tiễn đưa một người bạn quTrương Đình Hùng
(2.9.1945 – 26.6.2014)
 Trưa nay, 26.6.2014, về tới nhà, tôi nhận được thư anh Ngô Vĩnh Long báo tin anh Trương Đình Hùng đã từ trần buổi sáng, tại Penang (Malaysia). Tin buồn ập tới, đột ngột và choáng ngợp, mặc dù nó đã được báo trước. Cuối tháng 5, chúng tôi được tin anh mắc một chứng bệnh ung thư hiếm và nguy hiểm (pleomorphic liposarcoma/sarcoma mỡ đa hình), qua bàn mổ hai lần, nhưng cái u ác tính vẫn tiếp tục phát triển. “Mình vẫn làm việc và hoạt động hàng ngày nhưng yếu đi nhiều, vài tháng mà xuống đi mấy ki lô. Trông mình bây giờ như một nhà sư (toàn ăn chay, tập thở, tập thiền, trừ khi gặp bạn thì uống một ly rượu nho)”, đó là mấy dòng Trương Đình Hùng gửi cho Ngô Vĩnh Long ngày 28.5, báo tin “chung cuộc không thể tiên đoán thế nào” (tạm dịch từ tiếng Anh). Hai ngày sau, anh viết cho tôi: “Tụi mình đã sống một cuộc đời lý thú, đã giúp nhiều đồng bào và bầu bạn, và (những năm gần đây, ở Malaysia) giúp xây dựng gia đình cho một số bạn trẻ trong vùng. Như thế cũng là nhiều rồi. Hi vọng là chung cuộc sẽ tới mà không quá nhiều phức tạp” (tạm dịch từ tiếng Pháp).

Trương Đình Hùng sinh năm 1945 tại Sài Gòn, vào đúng ngày Tuyên ngôn Độc lập 2.9, tạ thế ngày 26.6.2014 tại Penang, thọ 69 tuổi.

Trong thời sự Việt Nam thập niên 1970 và sau này, anh thường được biết với cái tên David Truong. Wikipedia (tiếng Anh) nói tới David Truong, chủ yếu về “vụ án gián điệp” năm 1978: một nhân viên của cục điều tra liên bang FBI, trên là Dung Krall, được cục tình báo CIA “mượn”, tố cáo Trương Đình Hùng là “điệp viên Bắc Việt”, bị bắt với hai “tài liệu mật” của Bộ ngoại giao Mỹ, do một nhân viên của Bộ ngoại giao Mỹ, Donald Humphrey, trao tay (với hy vọng là David Truong có thể giúp anh ta đoàn tụ với người vợ người Việt bị kẹt ở Việt Nam từ 1975). Kết quả: Trương Đình Hùng bị kết án 15 năm tù, đại sứ Đinh Bá Thi (đại diện Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc) bị chính quyền Mỹ trục xuất với tư cách “một đồng lõa không bị truy tố”). Trương Đình Hùng đã ở tù 7 năm 4 tháng, trước khi được trả tự do trước kỳ hạn, với điều kiện ra khỏi nước Mỹ. Từ cuối thập niên 1980, anh sống và làm việc ở Châu Âu (Amsterdam) và Châu Á (Hà Nội, nhân viên của Liên hiệp Châu Âu; rồi Malaysia).

dangmydung8.jpg

Nguồn ảnh: Đặng Mỹ Dung

“Vụ án Trương Đình Hùng” được báo chí Âu Mỹ nói nhiều vào cuối thập niên 70, rồi nhanh chóng rơi vào quên lãng. Giới thạo tin nhanh chóng hiểu ra bối cảnh đã sản sinh ra “vụ gián điệp” này với hai nhân tố chính. Một là, sau thất bại chua cay ở Việt Nam, trong giới cầm quyền Mỹ, có nhu cầu “bức xúc” là tìm ra được một con vật tế thần. Đơn giản và tiện lợi nhất là: “ta đã mất Việt Nam không phải vì thất trận, mà vì kẻ thù nằm ngay ở Washington”. Hai là, nếu năm 1977, Washington muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (nhưng Hà Nội mắc sai lầm là khăng khăng đòi khoản 3,25 tỉ đô-la mà Nixon đã cam kết trong một lá thư gửi Phạm Văn Đồng khi ký Hiệp định Paris 1973), thì tới cuối năm, Mỹ đã chuyển hướng, liên minh với Bắc Kinh để chống Liên Xô. Không phải ngẫu nhiên mà Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất vào đầu năm 1978: ít lâu sau đó, Zbigniew Brzeziński, cố vấn đặc biệt của tổng thống Carter, đứng trên Vạn lí trường thành, nhìn sang Liên Xô, nói với người Trung Quốc đồng hành: “Chúng ta cùng đi săn con Gấu Bắc Cực”. Và đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố tại Washington sẽ “dạy Việt Nam một bài học”, và “Trung Quốc là NATO ở phương Đông, Việt Nam là Cuba ở phương Đông”. “Vụ án Trương Đình Hùng” và việc cắt đứt quá trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, là cái nhẫn “dạm hỏi” của Washington, chuẩn bị cho cuộc hôn phối linh đình sau đó.

Nếu như “vụ án” đã rơi vào quên lãng trong báo chí quốc tế, thì sang thập niên 1990, nó lại được hâm nóng trong dư luận Việt Nam ở Hoa Kỳ với cuốn sách “Một ngàn giọt lệ” của nữ điệp viên Dung Krall. Cuốn sách có thể đọc như một thứ tiểu thuyết với những pha gây cấn của phim trinh thám tồi. Giá trị “chứng từ” của nó rõ hơn khi người ta được biết tác giả tung ra cuốn sách này sau khi vòi CIA thêm tiền vì sau khi “lộ hàng” trong “vụ án”, bà ta không hành nghề được nữa (và tất nhiên CIA đã từ chối). Không rõ số tiền bán sách được mấy phần so với số tiền “đền bù” mà bà ta muốn được CIA trả. Chỉ có thể nói cuốn sách cũng đáng tin như những thông tin trên Wikipedia (bản tiếng Anh) khẳng định Trương Đình Hùng là con trai… Trương Như Tảng!!!

Thân sinh Trương Đình Hùng, như nhiều người biết, là luật sư Trương Đình Dzu. Ông nổi tiếng như là “ứng cử viên hòa bình” trong cuộc tranh cử tổng thống VNCH năm 1967 với biểu tượng con chim bồ câu hòa bình, chủ trương thương lượng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Theo những nguồn thạo tin, ông được nhiều phiếu nhất tại khu vực Sài Gòn – Gia Định (kết quả “chính thức” thì liên danh Trương Đình Dzu – Trần Văn Chiêu về nhì trong số 11 liên danh, sau liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ trên toàn miền Nam, nghĩa là trong những vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát được). Đó cũng là lí do đủ để tổng thống Thiệu bỏ tù ông. Luật sư Dzu bị giam ở Chí Hòa rồi Côn Đảo cho đến tháng 4.1975 (những ngày ông Trần Văn Hương lên thay Nguyễn Văn Thiệu). Chính quyền Thiệu tố cáo ông Trương Đình Dzu là thân cộng “ngụy hòa”, nhưng thực ra họ gờm ông vì biết ông có thể là một con bài dự trữ của phái “liberal” Hoa Kỳ.

Thân sinh bà Dung Krall là ông Đặng Quang Minh, nguyên đại sứ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) tại Liên Xô (ít nhất điều này, cuốn sách của bà nói đúng). Đây cũng là một thảm kịch đau lòng của hơn một gia đình cách mạng : cha rời Sài Gòn đi kháng chiến (Mùa thu rồi, ngày hăm ba…) rồi tập kết ra Bắc, tình báo Mỹ đã khôn khéo khai thác tâm lý “bị cha bỏ rơi” để lôi kéo một số người con. Đặng Mỹ Dung là một trong những người ấy: lấy chồng là sĩ quan tình báo của Hải quân Mỹ, bản thân làm việc cho cục FBI trước khi được cho mượn, làm điệp viên (hay đúng hơn: nhân viên khiêu dụ) của CIA…

Hành trình của Trương Đình Hùng, bắt đầu từ đối cực. Cha anh, năm 1945, khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, làm chánh văn phòng cho “ủy viên cộng hòa” Jean Cédile (xem Wikipedia). Gia đình bên ngoại là thế gia vọng tộc đất Thần Kinh (anh có một người cậu, nếu tôi không lầm, làm đại diện của VNCH ở Liên Hiệp Quốc với tư cách quan sát viên thường trực). Học Jean-Jacques Rousseau rồi sang Mỹ du học (Stanford, California). Năm 22 tuổi, luật sư Dzu bị bắt, anh bắt đầu hoạt động chính trị là vận động đòi trả tự do cho thân sinh, có quan hệ khá chặt chẽ với những chính khách “liberal” có thế lực như thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Hình ảnh người thanh niên David Truong mà giới báo chí và phong trào hòa bình Mỹ ghi nhận là một “lobbyist” lúc nào cũng chỉnh tề bộ “complet” với đầy đủ “gilet”, cà-vạt… Các bạn ở Mỹ cho biết, những năm về sau, anh vẫn đóng bộ “trois pièces” như một thói quen, hay như một công cụ giao tiếp, nhưng trong căn phòng ở, toàn bàn ghế, đồ đạc lượm ở hè đường, do người ta sa thải. Trương Đình Hùng đã trở thành một thành viên tích cực của Trung tâm Hòa giải Đông dương (IRC), trụ sở đặt tại Washington DC.

Mãi tới cuối thập niên 1980, tôi mới được gặp Trương Đình Hùng lần đầu tiên, tại Paris, khi anh từ Amsterdam sang cùng với vợ anh, chị Carolyn Gates, một chuyên gia về chính trị Trung – Cận Đông. Nhưng chúng tôi đã liên lạc với nhau qua thư từ (thời đó, chưa có internet) từ khoảng 1970. Chính do mối quan hệ sớm trở thành thân thiết này, mà trong “vụ án” năm 1978, tôi có vinh dự được FBI phong làm “unindicted accomplice” (đồng lõa không bị truy tố). Bây giờ, anh Hùng đã mất, “cái quan định luận”, tôi xin tiết lộ về sự nghiệp “gián điệp” của chúng tôi. Đúng là chúng tôi đã trao đổi khá nhiều tài liệu. Tôi gửi cho anh những thông tin, tuyên bố của Mặt trận, của Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN. Anh Hùng gửi cho tôi những thông tin Mỹ, chủ yếu là những tập “Congressional Record” mà Quốc hội Mỹ công bố hàng ngày. Đó là những tập dầy cộm, nặng chịch, in chữ nhỏ li ti (“co” chữ 8). Đó không phải chỉ là những phát biểu của các dân biểu và thượng nghị sĩ trong các phiên họp toàn thể hay tiểu ban, mà tất cả những bài báo, tài liệu nào mà bất cứ một đại biểu Quốc hội nào thấy cần thiết. Tóm lại, đó là một kho tài liệu vô song, mà chúng tôi khai thác đến mỏi mắt, và cung cấp cho hai phái đoàn VNDCCH và CPCMLT tại Hội nghị Paris. Có thời gian, tôi làm phiên dịch cho ông Nguyễn Thành Lê, người phát ngôn của VNDCCH tại Hội nghị Paris. Hơn một lần, trong cuộc họp báo sau mỗi phiên họp, tôi đã phải dịch sang tiếng Pháp những trích đoạn “Congressional Record” từ bản dịch tiếng Việt (mà chúng tôi đã góp phần dịch từ nguyên tác tiếng Anh). Không thiếu gì những thông tin mà các nhà báo Mỹ, phóng viên của New York Times, Washington Post… được nghe lần đầu, như vậy. Tất nhiên họ càng không biết rằng đó là công lao của Trương Đình Hùng, mà sau này họ phong là “David Truong, North Vietnamese Spy”.

Có lần tôi hỏi Hùng: cái gì đã khiến Hùng xuất thân như vậy, lại chọn con đường chống chính sách chiến tranh của Mỹ, ủng hộ cuộc kháng chiến Việt Nam. Hùng cười, nụ cười hiền triết: “Có lẽ tại mình chẳng may sinh vào đúng ngày 2 tháng 9 năm 1945”!!!

Câu nói nửa đùa nửa thật rất có ý vị. Càng ý vị hơn nữa khi ta biết anh đã trải qua những thảm kịch gì. Tôi không chỉ nói tới những năm tháng hoạt động ở Washington DC, tới hơn bảy năm trong tù Mỹ. Tôi nghĩ tới những thử thách không ngờ mà anh đã gặp phải, từ một hướng khác. Như đã nói ở trên, ông Trương Đình Dzu, trong con mắt của nhiều người (đầu tiên là ông Nguyễn Văn Thiệu), là một “lá bài dự trữ” của Washington, nghĩa là một “người của Mỹ”. Đầu năm 1978, khi đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất vì “nhận tài liệu mật từ David Truong”, thì ở Hà Nội, không ít người cho rằng Trương Đình Hùng là “agent provocateur” của Mỹ. Cũng thời gian đó, khá nhiều “âm mưu phản loạn” của những cựu quân nhân VNCH bị tóm gọn, với danh sách những “chính phủ lâm thời”, trong đó tên họ của ông Trương Đình Dzu thường được kể hàng đầu. Thế là ông bà Trương Đình Dzu và người con trai út (em của Hùng) bị đưa đi quản chế ở miền Bắc (khoảng 10 năm). Những năm tháng ấy, đôi lần tôi được Hùng nhờ làm “giao liên” với gia đình anh. Năm 1978, anh vừa kết hôn với Carolyn, chuẩn bị vào tù và biết gia đình ở Sài Gòn lại bị tình nghi, nên mùa hè khi biết tôi sắp về nước, anh gửi tôi tấm ảnh hai vợ chồng chụp ở Washington (trên nền phông là đài tưởng niệm Monument), một tấm ảnh chụp bằng máy polaroid, nhờ tôi trao cho ông bà Dzu để ông bà thấy mặt con dâu. Một lần sau, mùa đông năm 80 hay 81, Hùng ở trong tù, cha mẹ bị quản chế ngoài Bắc, anh nhắn qua chị Hélène, em gái anh, đang ở châu Phi, nhờ tôi mua ba cái áo anorak chống lạnh cho cha mẹ và em trai… Do đó, mà tôi hiểu thêm những thử thách mà Trương Đình Hùng đã trải qua.

Hùng đã an nhiên ra đi sáng hôm nay. Đêm nay, nhớ lại những lần ngắn ngủi tôi được gặp anh, ở Paris, ở Amsterdam, ở Hà Nội (khi anh làm việc cho một chương trình hợp tác của Liên hiệp Châu Âu), ở Singapore (tháng 8 năm ngoái, sau Hội thảo Hè)…, tôi mạn phép nhắc lại những điều trên, để bạn đọc biết và hiểu về một con người chân chính.

Và để gửi tới Carolyn, người bạn đời, suốt 36 năm, cho đến sáng hôm nay 26.6.2014, đã luôn luôn ở bên cạnh Trương Đình Hùng, những tình cảm và lòng biết ơn chân thành nhất, không phải chỉ của riêng tôi.

Maisons-Alfort, 26.6.2014

Nguyễn Ngọc Giao