Mốt ăn thịt ngựa giải xui Tết năm Ngọ

Giá mỗi cân thịt ngựa khá đắt, từ 200.000 đồng đến gần nửa triệu đồng nhưng vẫn cháy hàng, vì tin rằng ăn thịt ngựa giải xui, nhiều người đặt mua làm cỗ tết niên.

Ngựa đẹp thế này cũng bị xẻ làm thịt ? Bạn có thể nuốt nổi không ?
Ngựa đẹp thế này cũng bị xẻ làm thịt ? Bạn có thể nuốt nổi không ?

Được xem là loại thịt có giá trị dinh dưỡng cao, nhiều sắt, tốt cho người đang phải kiêng mỡ, thịt ngựa hiện không còn là món ăn lạ trong thực đơn của nhiều gia đình. Mùa Tết năm 2014, cùng với những sản phẩm dán mác ngựa được ưa thích khác, nhiều gia đình cũng tìm mua thịt của loài động vật này để làm mâm cỗ cúng cuối năm.

Anh Bùi Công Nguyệt (Thái Nguyên) trong tháng giáp Tết âm lịch đã bán 10 con ngựa thịt. Anh cho biết, thời gian gần Tết thịt ngựa bán khá chạy. Trung bình mỗi ngày anh thịt 1-2 con. Đa phần mọi người đặt mua làm cỗ tất niên.

“Giá thịt ngựa năm nay khá mềm. Gần Tết, chỉ tăng nhẹ từ 10.000 – 15.000 đồng/kg, ngang với giá thịt bò”, anh Nguyệt cho biết. Tuỳ loại thịt ngựa mà có giá khác nhau. Thịt thăn lưng, thịt bắp giá 250.000 đồng/kg, các loại khác giá thấp hơn, từ 200.000 – 230.000 đồng/kg. Giò ngựa cũng được nhiều khách đặt mua, với giá từ 280.000 – 300.000 đồng/kg.

Ngoài giết mổ tại cơ sở Thái Nguyên, dịp cuối năm anh Nguyệt còn đem ngựa đến các tỉnh khác để thịt như Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định. Ngoài bán thịt ngựa, anh Nguyệt còn nấu cao tại chỗ, giá cao ngựa Bạch là 500.000 đồng/lạng, cao ngựa đen và trắng giá thấp hơn từ 300.000 – 350.000 đồng/lạng. Anh cho biết, thời điểm gần Tết, cao ngựa thường được khách hàng mua làm quà biếu.

Theo anh Nguyệt, càng gần Tết lượng thịt ngựa bán ra càng tăng mạnh, gấp 2, 3 lần ngày thường. “Do quan niệm năm Giáp Ngọ không ăn thịt ngựa nên hầu hết khách mua về làm cỗ tất niên giải xui”, anh Nguyệt cho biết.

ngựa, giáp-ngọ, năm-ngựa, dát-vàng, giải-xui, năm-mới, thịt, thực-phẩm, đặc-sản, hàng-dạt
Món giò ngựa được khách hàng đặt khá nhiều vì có vị thơm lạ, dễ ăn.

Trên các diễn đàn mạng, thịt ngựa làm cỗ Tết cũng được mua bán xôm tụ với giá chênh lệch khá lớn với giá bán tại chợ và các vùng quê. Thịt thăn loại 1 được rao bán với giá từ 300.000 – 400.000 đồng/kg, nhưng có nơi rao tới nửa triệu một kg. Thịt loại 2 như vai, sườn khoảng trên 200.000 đồng/kg.

Riêng các loại giò ngựa, thịt tim ngựa được bán với giá khoảng 350.000 kg. Các loại ruốc thịt ngựa hiếm hơn, từ 700.000 đồng đến khoảng 1 triệu đồng cho mỗi kg thành phẩm. Lòng ngựa để chế biến món thắng cố nổi tiếng của vùng Tây Bắc cũng được rao với giá từ 300.000 – 500.000 đồng cho một xuất 4 người ăn. Để làm quà biếu Tết, cao ngựa bạch và cao ngựa màu được tìm mua nhiều dù giá khá đắt, lên tới 3 đến 5 triệu đồng một kg.

Mua 3kg thịt ngựa về giải xui cuối năm, anh Trần Mạnh Quân (Thái Bình) chia sẻ: “Năm con gì thì kiêng ăn con đấy, nên mua thịt ngựa về làm cỗ tất niên. Thịt ngựa nhiều đạm, giò ngựa ngon, ăn vào khoẻ như ngựa để năm mới chạy xô với công việc”.

Là người làm ăn nên quan niệm thực phẩm của anh Quân khá khắt khe. “Năm Ngọ thì không ăn thịt ngựa, nhưng thịt ngựa cuối năm lại giải đen. Nhân tiện thưởng thức thịt ngựa vì năm sau sẽ không sát sinh loài động vật này”, anh Quân nói.

Cũng cho rằng ăn thịt ngựa cuối năm giải xui, bà Bùi Thị Oánh (Cầu Giấy – Hà Nội) đặt mua 2kg thịt ngựa. Mọi năm bà Oánh thường sử dụng thịt gà và thịt bò là món chính. Nhưng bữa tất niên năm nay, bà Oánh sử dụng thịt ngựa thay cho thịt bò. Theo bà, thịt ngựa thơm, vị ngọt và chế biến được nhiều món ăn. “Năm nay kinh tế khó khăn, các con đều là dân kinh doanh nên việc giải xui rất quan trọng”, bà Oánh chia sẻ.

Cách chế biến thịt ngựa khá giống với thịt bò do mùi vị, màu sắc không khác biệt quá nhiều. Để làm được một mâm cỗ cúng chỉ toàn thịt ngựa, gia chủ có thể phải chi từ 2 đến 2,5 triệu đồng, với đủ 5 món chính.

Theo chị Nhân, một người cung cấp thịt ngựa qua diễn đàn dành cho cha mẹ khá nổi tiếng, khá nhiều khách hàng của chị năm nay là những người lần đầu mua loại thịt này về làm cỗ cúng. Thịt ngựa chủ yếu được mua tại trại Thái Nguyên, hoặc nhập miếng lẻ từ Bắc Kạn hay Ba Vì.

“Yêu cầu thịt ngựa chất lượng tốt là màu đỏ đậm, thớ chắc, để lâu không ra nước, khi chế biến phải mềm và không có mùi ngái. Tuy một số vùng như Thái Nguyên đã lập trang trại ngựa thịt nhưng không phải lúc nào cũng có hàng để bán vì nguồn cung khá thất thường”.

Chị Nhân cho biết, năm nay, số lượng người đặt hàng thịt ngựa tăng gấp vài lần so với những năm trước. Nhiều người sẵn sàng bỏ tiền triệu để mua thịt ngựa, cao ngựa làm quà biếu Tết. Do vậy, khách đặt hàng phải chờ vài ngày mới có thịt tươi để giao, riêng giò, ruốc và cao ngựa phải chờ lâu hơn.

Theo Zing

Du học Anh Mỹ và bài toán ‘hoàn vốn’

Hào là hiện đang học lớp cơ bản (foundation year), tức còn một năm nữa để vào đại học ở Anh Quốc. Cũng giống nhiều bạn trẻ khác, Hào mang nhiều kì vọng của gia đình khi sang đây.

“Mục tiêu của em là ở lại đây ít nhất vài năm sau khi học xong, nếu được thì cố gắng ở lại luôn, hàng nghìn sinh viên Việt Nam khác cũng có mong muốn như vậy”, Hào nói.

Tất nhiên cái giá của “giấc mơ sương mù” không phải rẻ. Hàng tháng bố mẹ sẽ phải chu cấp cho Hào một khoản tiền vào khoảng 800-1000 bảng Anh (28-35 triệu đồng), chưa kể tiền học phí.

Như vậy tính đơn giản trong 6 năm học ở đây, số tiền bỏ ra từ tiền thuê nhà, ăn uống, đi lại cũng phải ngót nghét 5 tỉ đồng (240 nghìn đô la), nếu tiền học phí tính ở mức 10 nghìn bảng/năm (mức trung bình đối với các trường ở London).

‘Đắt đỏ’

Ngày càng có nhiều sinh viên tại châu Á theo học tại Anh.

Bấm Bấm Theo nghiên cứu của ngân hàng HSBC công bố vào năm 2013, Anh Quốc là một trong những quốc gia có chi phí du học đắt đỏ nhất thế giới, với tổng chi phí trung bình là trên 30 nghìn đô la một năm, tức vào khoảng 670 triệu VND/năm.

Con số này sẽ cao hơn rất nhiều nếu tính ở London, nơi tập trung đông sinh viên Việt Nam nhất. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm số lượng sinh viên sang Anh Quốc du học, dù cho kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn.

Theo số liệu của Cơ quan Quản lý Biên giới Anh Quốc (UK Border Agency), trong năm 2012, số sinh viên Việt Nam đi học ở Anh đã tăng tới 18%, mức tăng cao thứ nhì châu Á.

Bấm Bộ Giáo dục-Đào tạo cho biết hơn 90% sinh viên Việt Nam đi du học nước ngoài là tự túc. Với chi phí đắt đỏ như vậy, câu hỏi đau đầu được đặt ra là liệu các sinh viên có thu hồi được “vốn du học”?

Giống như Hào, phần lớn các du học sinh đều muốn được ở lại Anh Quốc làm việc, ít nhất là một vài năm để có kinh nghiệm. Mức lương ở nước Anh sẽ giúp cho việc “hoàn vốn” được nhanh chóng hơn. Điều này không phải là quá khó vào vài năm trước, khi nền kinh tế Anh Quốc vẫn đang thịnh vượng và chính sách nhập cư còn nới lỏng.

Tình hình thay đổi trong vài năm qua cùng với sự suy giảm của nền kinh tế. Hiện tại, một sinh viên tốt nghiệp bằng Thạc sĩ chỉ được phép ở lại nước Anh tối đa 4 tháng để tìm việc, trong khi chính sách trước kia là hai năm.

Cơ hội kiếm việc làm ở Anh Quốc cũng không hề đơn giản. Ngân hàng HSBC ước tính tỉ lệ thất nghiệp từ độ tuổi 16-24 ở Anh là 20%, trong khi để cạnh tranh với người bản địa, sinh viên Việt Nam phải chịu nhiều thiệt thòi lớn.

“Một rào cản là các công ty ở Anh sẽ phải tài trợ một khoản tiền lớn để xin giấy phép làm việc nếu muốn thuê người nước ngoài. Không có nhiều công ty sẵn sàng làm việc này,” Võ Hiển, người đã học ở Anh và hiện đang làm việc cho hãng kiểm toán Ernst & Young tại London, cho biết.

Nhiều ngân hàng hoặc các hãng tài chính lớn chấp nhận chi phí đó, tuy nhiên để cạnh tranh được thì hồ sơ phải rất tốt, và thường là phải tốt nghiệp ở các trường hàng đầu, ông Hiển nhận định thêm.

Con số này tất nhiên là không thấm vào đâu so với hàng nghìn sinh viên Việt Nam sang Anh mỗi năm.

‘Cạnh tranh cao’

Mỗi năm nước Mỹ chỉ cấp 65 nghìn thị thực làm việc cho người nước ngoài, nên mức độ cạnh tranh rất cao

Phạm Anh Khoa, sáng lập viên của VietAbroader

Tình trạng tương tự cũng diễn ra với sinh viên Việt Nam ở các quốc gia khác như Mỹ.

Ông Phạm Anh Khoa, sáng lập viên của VietAbroader, một tổ chức tại Việt Nam hỗ trợ du học sinh Việt Nam ở Hoa Kỳ, ước tính rằng không quá 10% trong số các sinh viên Việt Nam tốt nghiệp ở Mỹ có thể ở lại làm việc.

“Mỗi năm nước Mỹ chỉ cấp 65 nghìn thị thực làm việc cho người nước ngoài, nên mức độ cạnh tranh rất cao. Trong khi đó, người Việt thua kém nhiều quốc gia khác về khả năng sử dụng tiếng Anh, và lựa chọn ngành học cũng chưa phù hợp.”

Ông Khoa dẫn số liệu của Viện Giáo Dục Quốc Tế (IIE) cho biết 40% sinh viên Việt Nam sang Mỹ chọn học ngành kinh doanh (business), trong khi những ngành nặng tính kĩ thuật hoặc tài chính có nhu cầu lớn hơn. Hiện Mỹ là nước có số du học sinh Việt Nam đông nhất, trên 16 nghìn người.

Còn theo số liệu từ Đại Sứ quán Anh ở Việt Nam, số lượng du học sinh người Việt ở Anh hiện đang vào khoảng 8000 người.

Báo Bấm Lao Động ước tính chi phí du học cho sinh viên Việt Nam ở nước ngoài phải lên đến hàng tỷ đô mỗi năm. Với số lượng du học sinh ở Anh vào khoảng 8000 người, tính trung bình mỗi năm Việt Nam tiêu khoảng 248 triệu đô la chi phí du học. Con số đó ở Mỹ là gần 600 triệu đô la.

Số ngoại tệ đó liệu có đạt “hiệu quả kinh tế” cho đất nước hay không thì vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp, bởi những du học sinh có khả năng thường có xu hướng ở lại, còn những ai trở về sẽ lựa chọn làm việc cho các công ty nước ngoài với mức đãi ngộ tốt hơn.

‘Khó hoàn vốn’

Nhiều người trong số chúng tôi muốn về Việt Nam làm việc và tôi biết nhiều bạn đã trở về, tuy nhiên ở thời điểm hiện tại một số mảng chuyên biệt như chứng khoán phái sinh (derivatives) có thể khó khăn hơn để tìm được công việc đáp ứng nhu cầu

Võ Hiển, Chuyên viên Ernst & Young, London

Với những người có ý định hoặc buộc phải về Việt Nam để lập nghiệp, cơ hội có một công việc thật tốt để “hoàn vốn” đầu tư du học cũng không hề dễ dàng.

Trương Quỳnh Hương, cựu sinh viên của Đại Học Gloucestershire ở phía tây nam nước Anh, cho biết mình phải chật vật đi tìm việc nhưng vẫn chưa được như ý muốn.

“Chỗ cao thì không tới, chỗ thấp thì không ưa. Thậm chí có một số vị trí khá phù hợp người ta cũng không thèm nhận mình vì họ nghĩ hoặc mình sẽ đòi lương cao, hoặc sẽ sớm nhảy việc,” Hương chia sẻ.

Thị trường lao động Việt Nam hàng năm có đến hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn, du học sinh về nước, khiến cho việc có bằng cấp ở nước ngoài cũng không phải là lợi thế quá lớn. Thêm vào đó, nhu cầu thương mại hóa khiến cho chất lượng giáo dục ở một số trường đại học Anh Quốc không tốt như ngày xưa. Do đó Việt Nam mới có câu chuyện con thi trượt đại học thì cho đi du học.

Bùi Trung Hiếu, từng học thạc sĩ tại một trường ở London, chia sẻ rằng cả một lớp học 40 người không có lấy một người bản ngữ nào. Một số bạn khác thì “ngỡ ngàng” khi vào lớp chỉ thấy toàn sinh viên Trung Quốc.

“Nên mục tiêu đi học để nói tiếng Anh chuẩn như người bản ngữ coi như vứt đi,” Hiếu than thở.

Với những ai may mắn có được việc làm, thì sẽ phải mất rất nhiều thời gian để hoàn vốn với mức lương bình quân ở Việt Nam. Ngoại trừ được làm ở những vị trí thật tốt hoặc cho công ty nước ngoài, mức thu nhập được coi là cao rơi vào khoảng 8-10 triệu đồng (400-500 đô la). Với con số này, giả dụ như bạn Hào nhắc đến ở đầu bài có về nước làm việc, thì sẽ phải mất vài chục năm mới hoàn lại được vốn.

Sinh viên học tại những nơi như Oxford có thể đi xe đạp dễ dàng hơn so với London.

“Khoảng cách về lợi thế những bạn đi du học và thị trường trong nước được rút ngắn lại, vì số du học sinh trở về nhiều hơn, trong khi các bạn trong nước cũng nỗ lực nhiều để cạnh tranh.

Điều này cũng làm ảnh hưởng đến mức lương, khiến cho thu nhập của du học sinh về nước làm việc không cao như trước,” ông Phạm Anh Khoa cho biết.

Một rào cản lớn cho những ai có khát vọng trở về là môi trường làm việc không phù hợp. Chưa đề cập đến vấn đề thể chế, nền kinh tế chưa thực sự phát triển không cho phép nhiều trí thức Việt Nam có trình độ cao tìm được vị trí phù hợp trong nước.

“Nhiều người trong số chúng tôi muốn về Việt Nam làm việc và tôi biết nhiều bạn đã trở về, tuy nhiên ở thời điểm hiện tại một số mảng chuyên biệt như chứng khoán phái sinh (derivatives) có thể khó khăn hơn để tìm được công việc đáp ứng nhu cầu”, ông Võ Hiển, hiện đang làm việc cho Ernst & Young, cho biết.

“Ở đây họ có thể có một mức thu nhập tương đối cao, nếu về nước thì sẽ khó tìm được việc bởi thị trường tài chính Việt Nam chưa hoạt động nhiều trong mảng chứng khoán phái sinh so với ngành tài chính tại London này,” ông Hiển nhận định.

‘Bước tiến lớn’

Theo ý kiến của mình thì đây sẽ là một vụ đầu tư không lỗ chút nào, bởi sang Anh mình được trau dồi thêm kiến thức cũng như mở rộng tầm nhìn, những điều ấy thật khó để đo bằng tiền

Trung Đỗ, cựu sinh viên Đại học Greenwich

Tuy vậy, nhìn chung các du học sinh Anh Quốc đều thấy hài lòng khi được hỏi về trải nghiệm ở một trong những nước có nền giáo dục tốt nhất thế giới. Những người được hỏi chuyện đều cho rằng đây là “bước tiến lớn của cuộc đời” và được mở mang tầm mắt từ “cái ao” ra “đại dương” và làm cho mình “trưởng thành lên nhiều”.

“Theo ý kiến của mình thì đây sẽ là một vụ đầu tư không lỗ chút nào, bởi sang Anh mình được trau dồi thêm kiến thức cũng như mở rộng tầm nhìn, những điều ấy thật khó để đo bằng tiền.” Trung Đỗ, cựu sinh viên của Đại học Greenwich, hiện đang làm giáo viên tiếng Anh ở Hà Nội, cho biết.

Sinh viên Việt Nam cũng không cô độc trên con đường học tập và lập nghiệp xứ người.

Một số tổ chức của người Việt Nam tại Anh Quốc, điển hình là Hội Trí Thức Trẻ Việt Nam (VietPro) có tổ chức một số sự kiện hướng nghiệp nhằm giúp cho du học sinh nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường lao động của nước Anh.

“Chúng tôi cũng đang tạo cầu nối liên kết các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam với các thành viên của mình để tạo điều kiện thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về nước làm việc,” Nguyễn Hữu Phương Thảo, chủ tịch của VietPro và hiện đang làm việc cho ngân hàng Đức CommerzBank tại London, cho biết.

Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả, sinh viên đang học ở Anh. Xem thêm: Bấm bảng xếp hạng các ĐH Anh.

@bbc

Hé lộ mới về thân nhân lãnh đạo TQ

Một cuộc điều tra lớn trên phạm vi quốc tế thu thập được nhiều tư liệu tài chính rò rỉ cho thấy thân nhân của giới lãnh đạo Trung Quốc, trong có cả em rể Chủ tịch Tập Cận Bình, nắm trong tay nhiều công ty hoạt động ở các ‘thiên đường thuế’ (tax havens).

Các tài liệu mật này nằm trong 2,5 triệu files mà Bấm Liên hiệp Nhà báo Điều tra Quốc tế (ICIJ) tổng hợp được. Theo đó, nhiều nhân vật quyền thế trong hệ thống chính trị Trung Quốc đã lập ra các công ty và tài khoản đặt tại Cook Islands hoặc British Virgin Islands là những nơi bị coi là có điều kiện trốn thuế dễ dàng.

Trong số đó có ít nhất 15 người thuộc danh sách giàu có nhất Trung Quốc, đại biểu Quốc hội cũng như lãnh đạo các công ty nhà nước bị vướng cáo buộc tham nhũng.

Cần phải nói rằng việc lập tài khoản bí mật ở nước ngoài, kể cả các ‘thiên đường thuế’, không phải là hành động bất hợp pháp về luật, nhưng nó gây khó cho việc kiểm toán minh bạch, và che giấu quy mô tài sản mà giới này nắm trong tay.

Tiếp tục hé lộ

Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2012 đã phải đối diện với một số cáo buộc chấn động mà các cơ quan truyền thông có uy tín như The New York Times và hãng Bloomberg đưa ra, trong có đề cập đến khối tài sản của các ông Tập Cận Bình và cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo.

Mới đây, ông Ôn Gia Bảo đã phải viết tâm thư khẳng định mình trong sạch.

Kể từ khi lên nắm quyền, Chủ tịch Tập đã tỏ ra khá cương quyết và lớn tiếng trong việc bài trừ tham nhũng, không bỏ sót bất cứ ai từ “hổ báo tới ruồi muỗi” (các tầng lớp khác nhau trong hệ thống chính trị) để nhằm phục hồi uy tín và tính chính danh cho Đảng Cộng sản trong một đất nước mà người dân ngày càng bức xúc về nạn tham nhũng và bất bình đẳng xã hội.

Các tài liệu được ICIJ tiếp cận là từ hai công ty vốn chuyên giúp khách hàng thành lập công ty, tài khoản và quỹ vốn ở các nước thuế thấp.

Chúng cho thấy gần 22.000 khách hàng có địa chỉ ở Hoa lục và Hong Kong, trong đó có công ty địa ốc của em rể ông Tập là Đặng Gia Huy, và một số công ty đăng ký ở British Virgin Islands của con trai cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo, Ôn Vân Tùng, và con rể ông là Lưu Xuân Hàng.

Những cái tên khác được nêu trong điều tra của ICIJ có Hồ Dực Thời, họ hàng của cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Lý Tiểu Lâm, con gái cựu Thủ tướng Lý Bằng.

Cuộc điều tra cũng phát hiện rằng các tập đoàn PricewaterhouseCoopers, UBS, Credit Suisse và một số ngân hàng phương Tây khác đã đóng vai trò môi giới tí́ch cực cho các khách hàng Trung Quốc thiết lập tài khoản ở các thiên đường thuế.

Ngành dầu khí của Trung Quốc, vốn là lĩnh vực xảy ra nhiều bê bối tham nhũng, có liên hệ chặt chẽ với các trung tâm tài chính nước ngoài. Ba tập đoàn dầu khí hàng đầu của Trung Quốc: CNPC, Sinopec và CNOOC – đều có quan hệ với hàng chục công ty đặt tại British Virgin Islands.

Giới chức Trung Quốc hiện chưa bị buộc phải kê khai tài sản một cách công khai và song song với nền kinh tế ‘nổi’ chính thức vẫn tồn tại một nền kinh tế ‘chui’ giúp giữ bí mật các thương vụ và tài khoản khổng lồ của các nhà tài phiệt đỏ.

Theo một số ước tính, lượng tài sản trị giá khoảng từ 1 nghìn tỷ tới 4 nghìn tỷ đôla đã bị tuồn ra khỏi Trung Quốc từ năm 2000.

Hố sâu bất bình đẳng

Trong các tài liệu rò rỉ, nhiều cái tên quyền lực nhất Trung Quốc được nhắc tới

Nền kinh tế tăng trưởng vũ bão của Trung Quốc đã gây nhiều bất bình trong dân khi hố sâu trong thu nhập ngày càng giãn rộng.

100 người trong danh sách giàu nhất Trung Quốc có tổng tài sản lên tới trên 300 tỷ đôla, trong khi khoảng 300 triệu người còn ở mức thu nhập dưới 2 đôla/ngày.

Thiếu minh bạch tài sản là một trong những vấn nạn còn tồn tại trong nước.

Gia đình cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo có lẽ là trường hợp đầu tiên và liên tiếp bị báo chí phương Tây phanh phui. Mới tháng 11 năm ngoái, tờ New York Times đưa tin rằng một công ty tư vấn do con gái ông Ôn Gia Bảo – tên Mỹ là Lily Chang, điều hành, đã nhận 1,8 triệu đô từ tập đoàn JPMorgan của Mỹ .

Vụ này đã khiến nhà chức trách Hoa Kỳ tổ chức điều tra hoạt động của JPMorgan tại Trung Quốc, trong đó có xem xét quá trình tuyển dụng của công ty này, vốn bị cáo buộc là chỉ nhằm thu dụng con cái hay họ hàng của các nhân vật có ảnh hưởng.

Hôm 27/12, ông Ôn Gia Bảo đã gửi tâm thư tới nhà báo Ngô Khang Dân ở Hong Kong, cựu đại biểu Quốc hội Trung Quốc, để bảo vệ thanh danh. Ông viết: “Tôi chưa bao giờ liên quan và cũng không bao giờ liên quan tới việc lạm dụng quyền lực nhằm thu lợi cá nhân vì các mối lợi như vậy đi ngược lại những gì tôi vẫn tin tưởng”.

@bbc

“Cần “giải mật” cuộc chiến biên giới Tây Nam”

Nguyễn Minh Đào

  Đó là tên bài báo Tuổi Trẻ, ghi cuộc trò chuyện Tuổi Trẻ với đạo diển Lê Phong Lan. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc có nhiều điều để nói, nhưng ít được nói so với hai cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, đạo diển Lê Phong Lan nói: “… thiếu sự tổng kết ngay trong nội bộ ta, thiếu những bàn luận công khai…”, như có những “bí mật” nào đó cần “giải mật”?!

      Từng chứng kiến những gì diển ra trước, trong và sau cuộc chiến tranh nầy trên biên giới An Giang – quê hương tôi, tôi cũng có những day dứt như đạo diển Lê Phong Lan. Bài viết dựa theo tập hồi ký và những bài viết khác của tôi từ hơn 10 năm trước về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, qua trang viet-studies xin trao đổi với đạo diển Lê Phong Lan và những ai cùng quan tâm.

                      NGUYỄN MINH ĐÀO
(cựu chiến binh An Giang)

  Đất nước Chùa Tháp – “Ốc đảo hòa bình”, “đất thánh Việt Cộng”

cpc      Lần giở trang sử sau Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954, đất nước Campuchia dưới triều đại Quốc vương Sihanouk theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, trung lập, người dân Campuchia sống trong hòa bình no ấm, trong khi hai nước láng giềng Việt Nam và Lào bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ leo thang ngày càng ác liệt, thế giới gọi Campuchia là “Ốc đảo hòa bình”.

     Là nước trung lập, nhưng Quốc vương Sihanouk hết lòng ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, như chấp nhận các lõm căn cứ lực lượng kháng chiến đứng chân ven biên giới, như cái gai trong mắt người Mỹ và chánh quyền Sài Gòn nhưng họ không làm gì được, gọi đó là “đất thánh Việt Cộng”. Campuchia còn chấp nhận miền Bắc Việt Nam nhập vũ khí từ Trung Quốc vào cảng Sihanoukville, mở đường vận chuyển đến rừng tràm Hà Tiên về miền Tây Nam Bộ…

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, nhân ông Hoàng Sihanouk đi nước ngoài, tướng Lon Nol đảo chánh lập chánh phủ thân Mỹ. Khi ấy, tôi công tác ở Văn phòng Tỉnh đội trú đóng Chòm vừng Nhơn Hội trên đất Campuchia sát biên giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa qua đời mấy tháng, nay đối mặt với tình thế lưỡng đầu thọ địch ai cũng lo buồn, trong khi đồn Nhơn Hội của quân đội Sài Gòn phát loa chĩa về hướng biên giới ra rả ngày đêm: “Hởi cán binh Việt cộng, Bác Hồ của các bạn không còn, Campuchia thay chánh phủ mới không chứa các bạn trên đất họ, quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ tấn công các bạn bất cứ lúc nào…”.

Trước ngày xảy ra cuộc đảo chánh ở Campuchia, đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh An Giang 7 người và 1 Phó bí thư Khu ủy Khu 8 cải trang đi công khai từ căn cứ Khu ủy ở Kiến Phong về An Giang trên đất Campuchia, đến đồn Prek Chey đối diện khu phố Long Bình huyện An Phú bị lính Campuchia bắt giữ, Tỉnh ủy cử người đến thương lượng trả một số vàng khá lớn để chuộc nhưng không thành. Không còn cách nào khác, Tỉnh đội tổ chức một phân đội tinh nhuệ tập kích chiếm đồn Prek Chey giải thoát những người bị bắt. Trận tập kích cố gắng hạn chế tối đa thương vong quân đồn trú, không bắt tù binh và lấy bất cứ thứ gì. Tiếp theo cuộc đảo chánh của tướng Lon Nol sau đó, đặt dấu chấm hết thời kỳ Campuchia thân thiện miền Bắc và lực lượng kháng chiến miền Nam Việt Nam.

Vì sự sống còn của ta phải tiến đánh quân Lon Nol. Đồng thời giúp “bạn” xây dựng thực lực

        Để mở rộng địa bàn đứng chân bảo toàn lực lượng, tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy, Tỉnh đội buộc phải ra lệnh bộ đội địa phương tỉnh với 2 tiểu đoàn thiếu và các đại đội độc lập, đánh quân Lon Nol sâu trên đất Campuchia, quân ta tiến đến đâu quân Lon Nol đều bỏ chạy, làng mạc, phố phường nguyên vẹn, người dân làm ăn sinh sống bình thường, trong thời gian rất ngắn chiếm giử một vùng rộng lớn hai tỉnh Takeo và  Kandal, thu rất nhiều vũ khí, quân dụng.

Việc ta đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol là bất khả kháng vì sự sống còn của ta. Để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Campuchia và “hợp pháp hóa” việc ta đưa quân lên nước bạn, Tỉnh ủy chỉ đạo dựng “ngọn cờ Sihanouk”, phát động nhân dân Campuchia đoàn kết cùng nhân dân Việt Nam chống Mỹ và Lon Nol, được nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ. Các cơ quan và bộ đội tỉnh di chuyển trú đóng sâu trên đất Camphuchia, đi đến đâu cũng được người dân chào đón nồng nhiệt như người thân. Sau đó khoảng một tháng, quân Sài Gòn tập trung binh lực mở các cuộc hành quân “Cửu Long 1”, “Cửu Long 2”… đánh phá căn cứ của ta ven biên giới và thọc sâu càn quét trên đất Campuchia, các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội phải phân tán nhỏ ém trong các khu rừng chồi, lau sậy, hay vườn cây ăn trái tránh địch vô cùng vất vã trong nhiều ngày, may mà không bị tổn thất đáng kể về người, nhưng thiệt hại vật chất khá lớn, vũ khí chiến lợi phẫm thu của quân Lon Nol và cả của ta dự trử trước đó cất dấu ở căn cứ hậu cần trên đất Campuchia ven biên giới Vạt Lài, huyện An Phú bị quân Sài Gòn truy tìm phát hiện lấy hết! Trong khi đó các đơn vị bộ đội tỉnh tiến sâu trên đất Campuchia trên một trăm cây số, án ngử quân Lon Nol gần thị xã Takeo và Kandal, quân Sài Gòn không với tới, gần như đứng ngoài vòng chiến sự.

 Chiến tranh mở rộng sang Campuchia, nhưng Mỹ và quân Sài Gòn không cứu được quân Lon Nol. Khi ấy, những người cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ) thực lực chưa có gì, cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” tổ chức bộ máy chánh quyền, đoàn thể và các lực lượng vũ trang. Riêng Tỉnh đội giúp “bạn” xây dựng mỗi tỉnh một tiểu đoàn bộ đội địa phương, huấn luyện và trang bị vủ khí đầy đủ.

Cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” rất nhiệt tình, có hiệu quả mong “bạn” vững mạnh cùng ta đứng chung chiến hào chống Mỹ, vì lợi ích nhân dân hai nước. Lẽ ra “bạn” biết ơn sự giúp đỡ đó đối xử tốt với ta. Nhưng không, “bạn” dần dần lộ rỏ ý đồ chống ta, ngang nhiên nổ súng khiêu khích bộ đội, bắt thủ tiêu cán bộ, chiến sĩ ta đi công tác lẻ tẻ. Ở các cơ quan Tỉnh đội có 4, 5 cán bộ bị chúng bắt giết dã man như các anh Ba Kỳ Nam, Chín Bình Ton, Đình Trung, Bảy Sửu…! Đối với ta thì vậy, trong nội bộ chúng, Khmer Đỏ loại bỏ những cán bộ do ta đào tạo, hai tiểu đoàn tỉnh An Giang xây dựng giúp, vừa làm lể bàn giao xong ta quay đi, chúng tước vủ khí giải tán tức thì.

Thái độ thù địch của Khmer Đỏ đối với ta bất cứ cán bộ, chiến sĩ nào ở An Giang có mặt trên chiến trường Campuchia lúc đó không lạ gì! Nhưng, các báo cáo của Tỉnh ủy, Tỉnh đội gởi Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 8 về những vụ Khmer Đỏ nổ súng khiêu khích bộ đội và giết hại cán bộ ta đều bị nghi ngờ không trung thực, cho rằng nếu có “va chạm” với “bạn”, xem lại có phải lỗi trước hết do cán bộ, chiến sĩ An Giang gây ra, nên “bạn” mới có phãn ứng như vậy!? Cho đến sau ngày giải phóng miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, Khmer Đỏ bắn pháo, đưa quân đột kích bắn giết đồng bào, cướp phá một số xóm ấp ven biên giới An Giang, Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 8 vẫn chưa xác định Khmer Đỏ là kẻ thù, cho đó là những “xung đột lẻ tẻ”,  “địa phương, cục bộ” và rằng Khmer Đỏ dù có xấu vẫn là “bạn” của ta!!

Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thảm khốc

Để chuẩn bị chiến tranh, Khmer Đỏ phát động binh lính và nhân dân Campuchia gieo rắc tư tưởng hận thù dân tộc với Việt Nam, ra sức xây dựng quân đội, sơ tán dân xa vùng biên giới, đào công sự, chiến hào, xây dựng trận địa pháo, trận địa xuất phát tấn công, tập trung binh lực áp sát biên giới… Mọi động thái đó diễn ra cách biên giới ta không xa nhưng ta không hay biết, cho đến đêm 30 tháng 4 năm 1977, Khmer đỏ mở cuộc tấn công đồng loạt toàn tuyến biên giới An Giang dài gần 100 km, mở màn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thảm khốc…! Các đồn biên phòng, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân tự vệ vùng biên giới, nhờ sớm nhận diện mạo kẻ thù, đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, anh dũng đánh trả đẩy lùi các mũi tấn công của địch hạn chế tổn thất. Nhưng, không hiểu vì sao Khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 8 và Trung ương không đánh gía đúng bản chất phản động của Khmer Đỏ và kẻ đứng phía sau chúng, chủ quan mất cảnh giác, không có kế hoạch đối phó chiến tranh.

          Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, tôi nghe các vị lãnh đạo nói: Mỹ là tên đế quốc sừng sỏ ta còn đánh bại, từ nay không một tên xâm lược nào dám đụng đến Việt Nam…! Chủ trương sớm “ra quân” hằng vạn cán bộ, chiến sĩ và buông lõng công tác quốc phòng những năm đầu sau giải phóng, chứng minh sự khinh suất của Ban lãnh đạo cấp cao đất nước. Cho đến đêm “định mệnh” 30 tháng 4 năm 1977, khi khói lửa chiến tranh đổ xuống khắp vùng biên giới Tây Nam bị bất ngờ mới nhận mặt kẻ thù, điều quân, khiển tướng tổ chức chống đỡ trong thế bị động, lúng túng! Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang dù quá hiểu rõ bản chất phản động của Khmer Đỏ từ những năm trước 1975, nhưng cũng không làm gì khác hơn là tổ chức phòng thủ thụ động trên tuyến biên giới tỉnh nhà, nên cũng rất bị động, lúng túng…!

Giửa năm 1977, tôi là Phó chủ nhiệm Phòng chánh trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (Tỉnh đội), nhận quyết định chuyển ngành sang Văn phòng tỉnh ủy làm cán bộ nghiên cứu phụ trách theo dõi khối Quân sự – an ninh; đặc biệt, theo dõi chiến sự chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo thang ngày càng ác liệt phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy.

Suốt chặng đường dài 30 năm đánh giặc cứu nước đầy hy sinh gian khổ, đến ngày thắng lợi hoàn toàn 30 tháng 4 năm 1975, quân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng chiến đấu bảo vệ biên giới hai đầu của Tổ quốc, tiếp tục hy sinh xương máu hàng vạn chiến sĩ, đồng bào và biết bao làng mạc, phố phường bị tàn phá…! Đây là cuộc chiến tranh “kỳ quái” giữa ta với người “đồng chí” Campuchia (Khmer Đỏ) và với người “đồng chí” phương Bắc “vĩ đại”.

Những năm 1975 – 1979 quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vốn là “đồng chí”, là “anh em như môi với răng” bổng trở thành kẻ thù của nhau, đến mức Trung Quốc xúi giục Khmer Đỏ gây chiến tranh biên giới Tây Nam chống ta và sau đó chính Trung Quốc đưa quân gây chiến tranh biên giới phía Bắc “dạy cho Việt Nam một bài học”! Hồi đó, nghe Đảng nói: Trung Quốc có “âm mưu bá quyền, bành trướng”, là  “kẻ thù trực tiếp của Việt Nam”, nhưng tôi cũng như không ít người khi ấy không hiểu ngọn nguồn vì sao như vậy. Sau nầy có điều kiện đọc các tài liệu tham khảo; trong đó có hồi ký của cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ viết năm 2003 tôi tin là khách quan, chân thật.

Hồi ký có đoạn:

“…

“Là nhân chứng lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các họat động ngoại giao nầy với tư cách là vụ trưởng vụ Bắc Mỹ – Bộ ngoại giao, trực tiếp tham gia đoàn đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mỹ ở Paris năm 1977, rồi ở Nữu ước năm1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lở mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển đất nước, sau bao năm chiến tranh…

 “Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hóa quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực nầy, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979, nếu như Việt Nam sau chiến thắng 1975 có một chiến lược”thêm bạn bớt thù” thực sự cầu thị hơn? Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật”.

 “…

Đây quả là sai lầm có tính chiến lược trong đối ngoại của Đảng sau năm 1975, đưa đất nước rơi vào thãm họa chiến tranh một lần nữa!

 Với trách nhiệm của mình, tôi theo dõi chiến sự qua báo cáo của Tỉnh đội và các huyện – thị biên giới, thỉnh thoảng tháp tùng các vị trong Ban Thường vụ tỉnh ủy, hoặc Tỉnh đội thị sát chiến trường tiếp xúc cán bộ, chiến sĩ nghe anh em báo cáo: Khmer Đỏ là kẻ cuồng tín, vốn là “bạn” và là “học trò” của ta, nên quá hiểu biết thủ đoạn chiến thuật của nhau, quân ta lại bố trí đồn, chốt cố định, bộc lộ lực lượng phòng ngự thụ động, Khmer Đỏ cơ động khi ẩn khi hiện… so đánh nhau với quân Sài Gòn khó khăn, ác liệt hơn nhiều! Cán bộ, chiến sĩ ta ở các đồn biên phòng, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân tự vệ phải dàn quân chốt chặn ngày đêm trên tuyến biên giới, đối mặt với địch đánh trả hết đợt tấn công nầy đến đợt tấn công khác. Nhiều đồn, chốt bị địch đánh chiếm, ta đánh phản kích chiếm lại năm lần, bảy lượt, giành nhau từng bờ tre, ụ đất… Căng thẳng nhất là mùa nước năm 1978, toàn tuyến biên giới nước ngập mênh mông, quân ta phải đấp công sự nổi, ngày đêm sống và chiến đấu dưới tầm hỏa lực địch! Khó khăn, gian khổ cùng cực, thương vong quân ta tăng lên từng ngày, những cán bộ, chiến sĩ “gạo cội” bộ đội tỉnh sống sót sau cuộc chiến tranh với Mỹ hy sinh rất nhiều, trong đó có những đồng đội thân quen với tôi như Bé Tám, Tư Mưa, Sơn Bịch…! Dù hy sinh, gian khổ đến mấy, cán bộ, chiến sĩ các Lực lượng vũ trang An Giang động viên nhau quyết tâm bám trụ chiến đấu đến cùng, nhất định không rời bỏ trận địa vì trước mặt là kẻ thù, phía sau là đồng bào, là quê hương, đất nước ta không có chổ lùi…!

Khmer Đỏ thảm sát dân xã Ba Chúc và vụ di dời dân Khmer Bảy Núi về tỉnh Hậu Giang (cũ)

          Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thời gian không dài, nhưng tổn thất về người và của quân dân ta ở An Giang vô cùng to lớn, có hai sự kiện đau thương dù thời gian lùi xa, nhưng bất cứ ai chứng kiến nhớ lại không khỏi bồi hồi xúc động:

          Khi chiến tranh bùng phát, mặc dù có chủ trương ven tuyến biên giới sơ tán người già, phụ nử, trẻ con, nhưng khi Khmer Đỏ đánh vỡ tuyến phòng ngự của quân ta tràn vào chiếm Núi Tượng xã Ba Chúc mười ngày trong tháng 4 năm 1978 phần lớn dân vẫn không sơ tán, Khmer Đỏ gây ra vụ thãm sát kinh hoàng giết chết 3.157 người! Nghe những nạn nhân sống sót kể lại và xem các bức ảnh chụp sau khi quân ta đánh Khmer Đỏ rút chạy, xác người chết nằm chất chồng la liệt khắp nơi…! Tội ác giết người man rợ như thời trung cổ của bọn Khmer Đỏ “trời không dung đất không tha”!!

 Sự kiện đau thương nầy tôi nghĩ có phần trách nhiệm của đảng bộ, chánh quyền sở tại thiếu kiên quyết vận động, thuyết phục dân sơ tán. Ngày nay, các nhà viết sử trong tỉnh viết về sự kiện nầy chỉ đổ lỗi đồng bào xã Ba Chúc theo đạo Hiếu Nghĩa, vì “…mê tín nên nghe lời bọn xấu chạy vào chùa Phi Lai đọc kinh cứu mạng không chịu di tản…” (dự thảo Lịch sử tỉnh và huyện Tịnh Biên).

          Về vụ di dân Khmer Bảy Núi, gần cuối năm 1978 khi chiến tranh  đang diễn ra có lệnh Trung ương: An Giang phải di dời khẩn cấp toàn bộ dân Khmer Bảy Núi về định cư ở tỉnh Hậu Giang. Ban Thường vụ tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân tỉnh triệu tập cuộc họp khẩn gồm các vị lãnh đạo hai huyện Bảy Núi Tri Tôn, Tịnh Biên và các ngành tỉnh liên quan triển khai kế hoạch thi hành. Các vị lãnh đạo tỉnh giải thích: Theo chỉ đạo Trung ương, phải đưa dân Khmer Bảy Núi về các tỉnh phía sau, “để ngăn cắt không cho Khmer đỏ lợi dụng móc nối tổ chức chống ta”. Lý lẻ không thuyết phục, nhưng không ai dám có ý kiến khác!

         Việc di dời 70 ngàn dân Khmer với chặng đường dài hằng trăm cây số, trong khi phương tiện vận tải của ta, chủ yếu đường sông rất hạn hẹp vô cùng khó khăn! Nhưng, khó khăn nhất là giải thích, động viên dùng “con ngáo ộp” Khmer Đỏ hù dọa, thúc ép đồng bào chịu rời bỏ nhà cửa, ruộng đồng ra đi, vì họ nào muốn xa lìa nơi chôn nhao cắt rún, sinh cơ lập nghiệp từ bao đời trên mãnh đất nầy, trong khi hiểm họa Khmer Đỏ lúc  ấy không như cán bộ tuyên truyền. Có mấy lần tôi cùng các vị lãnh đạo Tỉnh ủy vào Bảy Núi kiểm tra, đôn đốc việc di dân, chứng kiến cảnh người dân than khóc, kể lể trước khi ra đi trong lòng vô cùng đau xót, thương cảm đồng bào, nhưng lệnh là phải thi hành không có chọn lựa nào khác!

Thực hiện cuộc di dời dân không nhanh gọn như kế hoạch, kéo dài đến đầu năm 1979, quân ta mở chiến dịch tổng phản công tiến chiếm Phnom Phenh, đưa cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam lên đất Campuchia vẫn chưa xong. Khi ấy ông Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách Dân vận đến An Giang, trong buổi làm việc với Ban Thường vụ tỉnh ủy, ông Lê Văn Nhung (Tư Việt Thắng), Bí thư tỉnh ủy báo cáo với ông Nguyễn Văn Linh việc di dân Khmer, đề nghị ông cho đình chỉ, vì ta đã đánh chiếm Phnom Phenh, hiểm họa Khmer Đỏ không còn. Ông Nguyễn Văn Linh viết điện mật gởi Bộ Chính trị chuyển đề nghị của Tỉnh ủy. Hôm sau, điện mật của Tổng bí thư Lê Duẩn gởi phúc đáp viết vắn tắt: “Việc nầy (di dân Khmer) do anh Sáu Thọ (Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách chỉ đạo chiến trường Tây Nam) chịu trách nhiệm, phải có ý kiến của anh…”! Thế là việc di dân vẫn phải tiếp tục…!

          Chủ trương di dời dân Khmer Bảy Núi về tỉnh Hậu Giang, xuất phát từ quan điểm không tin người Khmer Bảy Núi, cho rằng nếu không di dời vào sâu nội địa họ sẽ theo Khmer Đỏ chống ta, không phải để “bảo đãm an toàn, tính mạng, tài sản của dân” như các nhà viết sử trong tỉnh viết. Tôi nói chuyện nầy, những người cùng thời với tôi còn sống trong tỉnh không lạ gì.

 Việc đưa 70 ngàn dân Khmer an cư lập nghiệp từ bao đời ở Bảy Núi về vùng đất lạ, khác nào một cuộc “đi đày”, làm tiêu tan tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, đảo lộn cuộc sống người dân, mà các vị lãnh đạo cấp cao đất nước khi ấy ra quyết định bất chấp hậu quả, bất chấp lòng dân và chẳng đếm xỉa ý kiến đảng bộ, chánh quyền địa phương! Khi còn đánh nhau với Khmer Đỏ ở biên giới thì nói sao cũng được, nhưng khi không còn đánh nhau vẫn phải tiếp tục cuộc di dời dân Khmer, thì các nhà viết sử giải thích sao đây?   

Sau khi đưa dân Khmer đi chuyến cuối cùng, khắp vùng Bảy Núi các phum sóc người Khmer nhà cửa, chùa chiền hoang tàn, xơ xác…! Mặc dù  tỉnh Hậu Giang tiếp nhận người Khmer tích cực giúp đỡ tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống, nhưng không thể kham nỗi, phát sinh nhiều vấn đề ngoài tầm khả năng của tỉnh. Vã lại, người Khmer Bảy Núi ở vùng cao đã quen, nay đưa họ về sống ở đồng bằng không thích nghi, vài tháng sau toàn bộ 70 ngàn dân Khmer lục tục dắt díu nhau trở về Bảy Núi! Có ai nhìn thấy cảnh đồng bào tay xách nách mang, gánh gồng tài sản, lùa dắt trâu bò đi bộ hằng trăm cây số trở về phum sóc cũ, mới thấu hiểu cãm thương nổi gian nan, vất vả của đồng bào!! Về đến nơi chôn nhao cắt rún đồng bào trắng tay, không nhà ở, không có gì để ăn, đau ốm không thuốc chữa trị, trẻ em không có trường đi học… đồng bào lâm vào cảnh khốn cùng, chánh quyền phải cứu đói và giải quyết mọi hậu quả. Nhưng trong điều kiện khi ấy ngân sách tỉnh nghèo nàn, dù có cố gắng cũng chẳng thấm vào đâu, đồng bào phải tự xoay sở để sống còn…! Tôi nghe có không ít người chết đói và chết vì bịnh tật do thiếu đói, nhưng không biết bao nhiêu!?

 Kế hoạch di dân Khmer phá sản, ta không thể bắt đồng bào quay trở lại Hậu Giang, Tỉnh ủy báo cáo Trung ương, nhận điện chỉ đạo của Trung ương: Tỉnh phải bố trí lại nơi ở của đồng bào Khmer, tập trung ở từng khu vực sâu trong nội địa, không để ở rải rác các phum sóc cũ, nhất là các phum sóc gần biên giới, để “Khmer Đỏ không thể thâm nhập…”. Lại tiếp tục một chủ trương sai lầm, nhưng tỉnh không thực hiện được và Trung ương cũng lờ đi… !!

 

Sau cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam

 Ngày 7/1/1979 quân ta đánh chiếm Phnom Penh, 3 ngày sau tôi tháp tùng đoàn cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang thăm thị xã Tàkeo. Trên đường đi từ thị trấn Tịnh Biên theo Quốc lộ 2 lên thị xã Tàkeo, hai bên đường làng mạc, phố phường hoang vắng, đó đây xác người còn nằm phơi nắng giửa trời, từng tốp xe bọc thép, xe vận tải chở quân của ta chạy trên đường, hay cụm lại nghỉ ngơi dưới bóng râm. Thị xã Tà keo như một thành phố chết, không điện nước, không chợ búa, không bệnh viện, không trường học, nhà cửa, phố phường xơ xác, tiêu điều…Người dân từ đâu đó lục tục kéo về đi thất thểu trên đường, quần áo rách rưới toàn một màu đen…! Hai lần tôi đặt chân lên Campuchia, không như lần năm 1970 đánh Lon Nol người dân vui mừng chào đón “anh bộ đội Việt Nam” như người thân, lần này tôi cãm nhận trong ánh mắt họ như vừa vui, vừa e dè, ngại ngùng điều gì đó…! Tôi cùng đoàn đi xem nơi ở của Tà Mốc – tên đồ tể Khmer Đỏ và xem toà nhà của cố vấn Trung Quốc giửa hồ nước rộng như nhà thuỷ tạ.

 Theo sự phân công của Trung ương, An Giang chịu trách nhiệm tỉnh Tà keo, tổ chức đoàn chuyên gia chánh trị và đoàn chuyên gia quân sự mang phiên hiệu Đoàn 9905, cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh tiếp tục truy quét tàn quân Khmer Đỏ và giúp bạn xây dựng lực lượng, phát triển kinh tế, xã hội…từ con số không kéo dài suốt 10 năm, tổn thất về người và của không đo đếm được!

Cuộc kháng chiến chống Mỹ chấm dứt, hòa bình được lập lại, những tưởng bước vào thời kỳ xây dựng hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế, người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc… Thế nhưng, niềm tin và hy vọng dần dần tan theo mây khói, do những chánh sách đối nội sai lầm của Đảng, làm chồng chất thêm khó khăn sau chiến tranh, nhân dân nghèo đói, cùng với sai lầm trong đối ngoại, đất nước bị bao vây cấm vận và rơi vào thãm họa chiến tranh một lần nữa với hai người “đồng chí” láng giềng…!

Những sự thật cần biết

Đạo diển Lê Phong Lan mong muốn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam được “giải mật”, nhưng qua những gì tôi biết, tuy chỉ trong phạm vi địa phương cũng đủ nói lên tất cả, tôi thấy không có gì bí mật, có điều người dân không dám nói và Đảng không muốn nói, hay nói không đúng sự thật, thành ra chuyện không bí mật thành bí mật.

       Bộ phim tài liệu của đạo diển Lê Phong Lan phát sóng trên kênh HTV9, với tên “Biên giới Tây Nam – cuộc chiến bắt buộc”. Gọi đây là “cuộc chiến bắt buộc” là chính xác, vì Khmer Đỏ vô cớ xăm phạm biên giới Tây Nam nước ta, buộc ta phải đánh trả tự vệ và tổng phản công đánh chiếm Phom-Phenh, để loại trừ hiểm hoạ Khmer Đỏ cho đất nước. Sau đó, không thể không giúp những người Khmer trong nhóm Hunsen, Heng Samrin…ly khai Khmer Đỏ, họ với hai bàn tay trắng như Khmer Đỏ năm 1970, ta hết lòng hết sức giúp họ từng bước phát triển trưởng thành. Điều quan trọng là giúp họ nhằm xây dựng một thể chế chánh trị thân thiện với ta, để bảo đãm sự bình  yên lâu dài vùng biên cương này của Tổ quốc.

        Nói “cuộc chiến bắt buộc” là đúng, dù Khmer Đỏ thực hiện chánh sách diệt chủng với người dân của chúng, nhưng nếu không động chạm đến biên giới lãnh thổ nước ta, thì liệu ta có đưa quân đánh chúng phải chịu “sa lầy” hao người tốn của trong 10 năm, còn mang tiếng “xâm lược” không? Theo tôi là không! Nên nhớ, thời điểm ấy tình cảnh nước ta “rối như nồi canh hẹ”, giải quyết những vấn đề trong nước và ngoài nước của ta đã hết hơi hết sức, còn đâu lo chuyện “ăn cơm nhà vát tù và hàng tổng”. Làm gì có chuyện tự dưng đưa “bộ đội tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế cao cả trên nước bạn”, “cứu nhân dân Campuchia thoát hoạ diệt chủng Khmer Đỏ”.

Bài phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Campuchia Heng Samrin tại lể kỷ niệm 35 năm ngày chiến thắng chế độ diệt chủng Khmer Đỏ tại Hà Nội ngày 5/1 ông nói: “Chỉ có đất nước Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã tự nguyện đưa con cháu và những người thân yêu của mình đến giúp giải phóng và cứu tính mạng của người dân Campuchia trong lúc vô vàn nguy nan…”. Đại diện cho người dân Campuchia ông phải nói như vậy và nói như vậy là đúng, nếu ta không tiêu diệt Khmer Đỏ thì làm gì có đất nước Campuchia ngày nay, nhưng đó chỉ phản ánh một phần sự thật lịch sử, chưa phải căn nguyên việc ta can thiệp vào Campuchia.

        Đạo diển Lê Phong Lan nói: “…sau cuộc chiến Mậu Thân 1968, khi một phần quân đội của chúng ta bị đánh dạt qua biên giới Campuchia, lập căn cứ bên đó thì nhiều khu tập kết vũ khí, đạn dược của chúng ta bị Khmer Đỏ tấn công, giết người và cướp đi hết”. Sự thật là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ từ sau Đồng khởi năm 1960, cho đến Lon Nol đảo chánh ở Campuchia năm 1970, lực lượng kháng chiến các tỉnh ven biên giới giáp Campuchia, kể cả của Miền (R), khi nào bị quân Mỹ và Sài Gòn càn quét, đánh phá gặp khó khăn thì thường chạy sang trú ẩn ven biên giới trên đất Campuchia trong thời gian nhất định hoặc lâu dài, kể cả xây dựng căn cứ hậu cần ở đó, không phải chỉ đến sau trận Mậu Thân 1968. Và, như   tôi viết ở trên, năm 1970 khi ta buộc phải đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol, cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ) thực lực chưa có gì, chúng không có khả năng và cũng chưa ra mặt chống ta, nên không có chuyện tấn công giết người và cướp vũ khí của ta khi ấy.

Báo Tuổi Trẻ nêu câu hỏi: “… tại sao Khmer Đỏ  lại cố ý kích động sự thù hằn giửa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia?” và đạo diển Lê Phong Lan hỏi: “Đằng sau cuộc chiến nầy là ai?” .

Như tôi viết ở trên, năm 1970 bất đắc dĩ ta đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol vì sự sống còn của ta và giúp Khmer Đỏ dần dần xây dựng phát triển thực lực “đủ lông đủ cánh”, thì cũng dần dần Khmer Đỏ bộc lộ dã tâm chống Việt Nam, cho đến ngày 30/4/1977 ồ ạt đưa quân tấn công toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Và, kẻ đằng sau Khmer Đỏ chính là Trung Quốc, không có Trung Quốc Khmer Đỏ không dám liều lĩnh gây chiến tranh biên giới chống ta với qui mô chừng ấy, nhưng Trung Quốc nhúng “bàn tay lông lá” của họ vào nắm Khmer Đỏ từ lúc nào và vì sao Trung Quốc xúi giục Khmer Đỏ chống ta và sau đó xua quân gây chiến tranh biên giới phía Bắc “dạy cho Việt Nam một bài học”, cho đến sau khi kết thúc hai cuộc chiến tranh nầy một thời gian khá dài, Trung Quốc còn tiếp tục “bảo trợ” Khmer Đỏ, đấu tranh giử ghế chúng ở Liên hiệp quốc, làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận “Việt Nam xâm lược Campuchia”, phạm vi bài viết nầy tôi chưa nói được.

       Trả lời câu hỏi của báo Tuổi Trẻ, đạo diển Lê Phong Lan nói: “Để lấy lòng dân và tập trung quyền lực thì kích động thù hằn dân tộc và gây chiến là biện pháp đơn giản nhất…”. Ý kiến nầy tôi xin trao đổi làm rỏ thêm:

       Quê hương An Giang của tôi là vùng biên giới giáp Campuchia, thuở nhỏ tôi đã biết người dân hai nước ở hai bên biên giới quan hệ gần gũi như người láng giềng; trong kháng chiến chống Mỹ tôi từng sống cùng đồng chí, đồng đội của tôi ở vùng biên giới trên đất Campuchia, người dân Campuchia rất có cảm tình với chúng tôi, nếu không chúng tôi không thể sống yên ổn ở đó và những năm tháng đánh quân Lon Nol tôi cũng có mặt, chúng tôi rất hiểu tấm lòng người dân Campuchia với Việt Nam, chỉ có một bộ phận nhỏ người Campuchia nhẹ dạ, cực đoan bị thế lực phản động trong nước và nước ngoài, sau nầy là Khmer Đỏ tuyên tuyền lôi kéo theo chúng chống Việt Nam, chứ đa số người dân Campuchia rất thân thiện với Việt Nam, Khmer Đỏ xây dựng quân đội chuẩn bị chiến tranh chống ta hàng vạn quân, nhưng chắc chắn không phải tất cả đều tự nguyện theo chúng chống Việt Nam. Khmer Đỏ hoặc thế lực nào khác ngày xưa, hay phe đối lập Sam Rainsy ngày nay ở Campuchia muốn chống Việt Nam bao giờ chúng cũng giở luận điệu tuyên truyền moi móc chuyện lịch sử xa xưa, kích động hận thù dân tộc rằng “Việt Nam chiếm đất Campuchia…”, nhưng hiệu quả luận điệu ấy không như chúng mong muốn.

         Tôi đồng ý ý kiến đạo diễn Lê Phong Lan: “…Lịch sử là cái đã qua, nhưng chúng ta có thể học hỏi nhiều từ lịch sử cho hôm nay và mai sau…”. Và, đã là lịch sử thì phải khách quan, chân thật, che dấu hay “vo tròn, bóp méo” sự thật lịch sử là có tội con cháu mai sau./-

                                                    

   Tháng 01 năm 2014

Nhân kỷ niệm 35 năm kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam