Day: 21/12/2013
Đọc cuối tuần – Người Việt Nam không biết cười
Ít nhất từ đầu thế kỷ 20 đến nay, hầu như ai cũng nói là người Việt Nam hay cười. Cười nhiều đến độ vô duyên.
Người đầu tiên nhận định như thế là một học giả rất có uy tín: Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). Trong bài “Gì cũng cười” đăng trên Đông Dương tạp chí số 6 năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh viết:
“An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang.”
Trong sự nghiệp khá đồ sộ của Nguyễn Văn Vĩnh, với tư cách một nhà văn, một nhà báo và một dịch giả, có lẽ đoạn văn vừa trích ở trên là đoạn văn được nhiều người nhớ và nhắc nhất. Đến nay, tôi chưa thấy ai phản đối ông cả.
Mà làm sao phản đối được? Chỉ bằng kinh nghiệm thường nhật, chúng ta cũng có thể thấy ngay là ông nói đúng. Nhìn những bức ảnh chụp hay các thước phim tư liệu quay tình cờ trên đường phố, chúng ta dễ thấy đặc điểm của từng dân tộc: ở Nhật thì người ta cắm cúi đi hay dí tai vào chiếc điện thoại di động; ở Trung Quốc, người ta vừa đi vừa nhai nhồm nhoàm, còn ở Việt Nam thì người ta cười (nếu mồm không bị cái khẩu trang bịt kín).
Trong đời sống, chúng ta càng dễ thấy vai trò của nụ cười và tiếng cười. Ở đâu có người Việt là ở đó có những tiếng cười rúc rích. Kể cả trong giảng đường hay thính đường ở các cuộc hội nghị quan trọng và đầy tính chuyên môn. Trong nhà, trong quán ăn hay ngoài đường phố thì… khỏi nói.
Có thể nói cười là một loại hình ngôn ngữ thân thể (body language) đặc biệt của người Việt Nam. Gặp bạn bè hay người quen, người khác “hello”, “hi” hay “bon jour”, người Việt chỉ cần nhoẻn miệng ra cười. Thay vì nói “cám ơn”, người Việt cũng nhoẻn miệng ra cười. Thay vì nói “xin lỗi”, người Việt cũng cứ nhoẻn miệng ra cười.
Bạn bè tôi, đám giáo sư ở đại học có đông sinh viên Việt Nam, thỉnh thoảng nhờ tôi “phiên dịch” giúp ý nghĩa nụ cười hay tiếng cười của người Việt Nam. Chẳng hạn, một giáo sư, chấm luận văn, phát hiện một sinh viên Việt Nam trích nguyên văn nhiều câu từ sách báo mà không hề ghi xuất xứ.
Thay vì đánh rớt ngay vì tội đạo văn, ông thông cảm gọi sinh viên ấy vào phòng, chỉ cho sinh viên ấy thấy các câu văn ăn cắp và khuyên nên cố gắng diễn đạt bằng lời văn của mình hoặc phải ghi xuất xứ đàng hoàng. Nói xong, ông chờ đợi một lời xin lỗi. Nhưng anh sinh viên ấy chỉ… cười.
Người Việt Nam chúng ta, trong những trường hợp như trên, có thể “đọc” được dễ dàng lời xin lỗi ẩn sau nụ cười ấy. Tuy nhiên, người ngoại quốc, dù gần gũi với người Việt Nam nhiều đến mấy, cũng thấy ngỡ ngàng.
Nhưng dù hiểu đúng hay hiểu sai, một sự kiện phổ biến cũng cần được ghi nhận: Người Việt Nam sử dụng nụ cười và tiếng cười thật hào phóng!
Có điều, từ một khía cạnh khác, tôi lại nghĩ, trong văn hoá giao tiếp thông thường, người Việt Nam, nói chung, không biết cười.
Bạn ngạc nhiên ư?
Thì đây, bạn cứ tự mình kiểm tra đi. Sống ở hải ngoại, bạn bước lên máy bay về Việt Nam thăm nhà. Để ý mà xem, có tiếp viên nào ít cười bằng tiếp viên của Hàng Không Việt Nam không? Theo kinh nghiệm của tôi, câu trả lời là: Không.
Bước vào máy bay của các hãng hàng không khác, ngay từ cửa ra vào, chúng ta đã bắt gặp ít nhất là hai tiếp viên đứng cười chào và chỉ hướng đi. Ở hãng Hàng Không Việt Nam, cũng hai tiếp viên ấy và những lời chỉ dẫn tương tự. Nhưng rất hiếm khi thấy nụ cười nào.
Xuống phi trường, những người đầu tiên bạn gặp là các công an cửa khẩu, nơi bạn trình hộ chiếu. Đố bạn bắt gặp nụ cười nào ở đấy!
Lấy hành lý xong, bạn sẽ gặp hải quan. Đố bạn bắt gặp nụ cười nào ở đấy!
Không phải chỉ những nơi có quyền lực mới thiếu vắng nụ cười. Bạn bước vào bưu điện hay ngân hàng mà xem, có nhân viên nào nhoẻn miệng cười chào bạn không?
Lần đầu tiên tôi về Việt Nam và ra Hà Nội là năm 1996. Bước vào các hiệu sách, tôi hay nhoẻn miệng cười chào các cô bán hàng. Lần nào cũng thế, tôi cũng chỉ được đáp trả bằng một cái nhìn trân trối, có chút ngạc nhiên và đầy tò mò. Nhưng không có nụ cười. Khiến tôi phải vội vàng tìm cách kéo môi lại cho đỡ ngượng ngùng.
Sau này, khi xu hướng thương mại hoá và tư nhân hoá phát triển, những người bán hàng giảm bớt thứ văn hoá hợp tác xã ngày xưa, tương đối lịch sự hơn. Nhưng lịch sự không phải là biết cười.
Bước vào tiệm ăn hay quán nước, bạn hãy quan sát và so sánh cách chào khách của các tiếp viên ngoại quốc và tiếp viên Việt Nam mà xem. Ở các tiệm ngoại quốc, bạn sẽ bắt gặp, hầu như thường xuyên, một nụ cười. Ở các tiệm Việt Nam, ngay cả ở hải ngoại, bạn thường gặp cái gì? Một gương mặt lạnh tanh.
Làm sao có thể giải thích hiện tượng nghịch lý là: một mặt, người Việt Nam cười một cách dễ dàng, thậm chí, thừa thãi; mặt khác, lại tiết kiệm nụ cười đến độ có thể bị chê là “rude”, cục cằn và thô lỗ, như thế?
Các bạn thử giải thích giùm đi.
@VOA
Dọn đường cho bản án Trương Duy Nhất
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
Hai tờ báo Công An Nhân Dân và Petrotimes cho đăng cùng lúc bài viết phân tích kết luận của cơ quan điều tra về các tội trạng của Trương Duy Nhất. Nếu đọc cả hai bài thì sẽ thấy rất rõ cả hai tờ báo đều nhận được thông tin từ một nguồn duy nhất đó là cơ quan điều tra của Bộ công an.
Những tội trạng mà cơ quan điều tra đưa ra để cáo buộc Trương Duy Nhất có thể gói gọn lại bốn điều: thứ nhất phê phán chính phủ, thứ hai thông tin sai lệch về hiện trạng kinh tế, xã hội của Việt Nam, thứ ba bác bỏ tính chất vinh quang của ngày 30 tháng 4, thứ tư đưa ra cái nhìn bi quan một chiều về hiện tình đất nước.
Những tội danh không thuyết phục
Bốn điều mà cơ quan điều tra đưa ra có lẽ chưa thể kết luận trước tòa án vì thiếu chứng cứ buộc tội. Phê phán chính phủ là một cái quyền của người dân miễn là hành động phê phán ấy dựa trên những sự thật chứng minh được. Hiến pháp không có điều khoản nào cấm sự phê phán ấy và vì vậy tòa án dựa vào chương điều nào để kết tội bị cáo?
Về thông tin sai lệch hiện trạng kinh tế, xã hội Việt Nam xét trên bình diện pháp lý không cơ quan nào có quyền bắt giữ ông Trương Duy Nhất khi chưa có thông số kỹ thuật đáng tin cậy chứng minh ngược lại điều ông Nhất viết. Nếu cơ quan điều tra chỉ dựa vào số liệu của nhà nước cung cấp thì ông Nhất hoàn toàn có quyền đem các dữ liệu khác từ những định chế kinh tế, tài chánh của nước ngoài để chứng minh ngược lại, do đó giam giữ ông Nhất với tội danh này hoàn toàn là một hành động bất hợp pháp của chính phủ.
Chính quyền cũng không thể bắt giữ ông Trương Duy Nhất về quan điểm xem ngày 30 tháng 4 là ngày Quốc hận vì ngày chiến thắng này đã chia rẽ dân tộc nặng nề. Nếu giam giữ, cáo buộc hay kết án ông về quan điểm ấy thì có lẽ chính Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới là người đáng bị xem xét hơn blogger Trương Duy Nhất. Khi Thủ tướng Kiệt nói câu “có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn” trong ngày 30 tháng 4 thì chính vị thủ tướng này đã thừa nhận sự hận thù trong chính ngày ấy không nên tồn tại nữa. Trương Duy Nhất chỉ có thể bị kết án vì đã lập lại một câu nói nổi tiếng của ông Kiệt mà không xin giấy phép, thế thôi.
Về cáo buộc ông Nhất đã có cái nhìn bi quan, một chiều hiện tình đất nước thì cơ quan điều tra đã đi quá xa khi tự tiện lập ra một tội danh hoàn toàn không có trong hiến pháp Việt Nam.
Trương Duy Nhất là một blogger, bài viết của ông có tính cách riêng tư, nếu nó được cộng đồng mạng chuyển tải hay chia sẻ nằm ngoài khả năng của ông. Hơn nữa công dân trong một nước nếu có than phiền, trách móc hoàn cảnh của xã hội họ đang sống thì cũng là chuyện bình thường vì từ những nhận xét ấy một chính quyền tốt sẽ có cơ hội điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp những yêu cầu của người dân.
Trong nhiều trường hợp, chính sự ca tụng, tô hồng những điều không có thật trong xã hội là viên thuôc độc bọc đường đối với những chế độ cộng sản trên thế giới từ những thập niên qua.
Ngôn ngữ dân gian trở thành trọng tội?
Riêng điều mà cơ quan điều tra kết tội ông đã dùng từ “Ông Thị trưởng” để ám chỉ một Trung ương Ủy viên cũng như câu nói đã trở thành truyển khẩu của dân gian: “thằng này đảng viên đấy nhưng hắn tốt, tốt lắm” thì có lẽ không tòa án nào có thể thụ lý tội danh châm biếm được.
Trong một cuộc họp doanh nhân với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 vừa qua ông Nguyễn Văn Đực, Giám đốc công ty Bất động sản Đất Lành đã nói câu này:
“Ở ngoài dư luận người ta có câu chuyện vui rằng. Khi ăn nhậu chúng tôi nói với nhau: thằng đó là đảng viên nhưng mà nó tốt! Tại sao chúng ta để quần chúng coi đảng viên là người xấu và người nào là người tốt thì đó là thực tế cá biệt?”
Ông Đực chẳng những không bị bắt mà còn được tiếng là đã giúp cho Chủ Tịch nước biết thêm những gì mà dân chúng đang suy nghĩ về tư cách của đảng viên ngày nay.
Tất cả những lý lẽ cáo buộc vừa trình bày được gói gọn trong điều luật 258 để kết án nhà báo, blogger Trương Duy Nhất.
Nhà báo Trương Minh Đức, từng làm việc cho báo Tiền Phong, Pháp Luật và cũng là nạn nhân của điều 258 chia sẻ:
“Tôi cũng là nạn nhân của điều 258 trước đây, với bản án 5 năm tôi cũng chia sẻ với trường hợp của anh Trương Duy Nhất. Cùng một thời bị bắt với Trương Duy Nhất cũng có Phạm Viết Đào rồi Đinh Nhật Huy. Cái điều 258 nó rất là mơ hồ, nó đã vi phạm, dẫm đạp lên điều 19 của Công ước quốc tế về Nhân quyền. Họ muốn dằn tiếng nói của phong trào tiếng nói tự do dân chủ trong nước ở thời điểm đó. Nghị định 72 cấm đoán Internet, họ đưa vài người ra họ bắt dằn mặt tiếng nói dân chủ cũng như một cảnh báo.
Nói về tác nghiệp, báo chí khi đưa tin thì có tin đúng mà đôi khi cũng có tin sai lệch cũng có mình phải thừa nhận như vậy. Nhưng đối với những thông tin sai lệch thì nó phải có một tòa án để xét xử. Phải có bị cáo và phải có người bị hại thì mới gọi là họ vi phạm. Còn như khi mà họ xử tôi cũng vậy trong điều 258 thì tôi hỏi họ tôi là bị cáo còn ai la người bị hại thì họ không đưa ra được bằng chứng người bị hại là ai, rất là vô hình. Cái điều 258 chỉ đề bịt miệng tiếng nói của người làm báo thôi.”
Rò rỉ thông tin từ nội bộ?
Trước đây ít lâu nhà báo Phạm Chí Dũng từng công tác trong bộ máy an ninh suốt 16 năm cũng đã nếm trải điều 258 một thời gian nhưng nhìn vụ án Trương Duy Nhất với cái nhìn khác. Phạm Chí Dũng cho rằng Trương Duy Nhất bị bắt vì đã đưa thông tin nhạy cảm về đại hội đảng với vấn đề nhân sự.
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, cây viết của tờ Thanh Niên trong nhiều năm chia sẻ quan điểm này:
“Trước đây anh Phạm Chí Dũng có viết một bài nói rằng anh Trương Duy Nhất bị bắt xuất phát từ những nguồn tin, tức là anh Nhất đã nắm được những thông tin mà ở vị trí của anh ấy không thể nắm được phải do ai đó ở cấp rất cao rò rỉ thông tin. Tôi nghĩ rằng nhận xét đó của anh Phạm Chí Dũng là rất đúng. Hồi Hội nghị Trung ương đảng thì anh Nhất đưa ra nhiều thông tin rất là cập nhật, rất mau và cũng rất chính xác về chuyện bầu cử thay người vào Bộ chính trị. Tôi nghĩ có thể xuất phát từ chuyện đó người ta muốn biết ai cung cấp thông tin cho anh, theo suy nghĩ của tôi thì đó là lý do chính còn những điều nêu ra trong kết luận điều tra vừa rồi tôi thấy không có điểm nào thuyết phục được để mà cáo buộc ràng ảnh có tội được hết. Dĩ nhiên luật pháp Việt Nam mình dựa vào điều 258 thì rất chung chung và nó có thể bắt được mọi người vì vậy nếu đem điều 258 ra thì có thể cáo buộc anh Nhất tội này tội khác được.
Nghi vấn Trương Duy Nhất bị bắt vì đã rò rỉ nguồn tin tối mật dù sao cũng chỉ là nghi vấn vì nếu muốn kết án ông thì tội “tiết lộ bí mật nhà nước” đã có sẵn tại sao lại không áp dụng? Hay là Bộ chính trị sợ bứt dây động rừng có thể nổ ra hàng chục vụ Trương Duy Nhất khác?
Trước đây trong một lần phỏng vấn với người blogger nổi tiếng này chúng tôi được ông cho biết khi phải bỏ nghề làm báo để viết blog:
“Tất nhiên là có nhiều cái trăn trở chứ nhưng mà khi tôi quyết định có thể nói nhiều người không tin đâu. Tôi chuẩn bị điều này lâu lắm rồi vì vậy tôi rất nhẹ người chứ không có gì nặng nề lắm đâu. Quan điểm của tôi là thế này, tôi là người sinh ra với nghề cầm bút, nghề viết nên tôi muốn mình phải viết được điều gì cần phải viết.
Tôi có mấy chục năm làm báo rồi, có tới sáu thẻ nhà báo rồi. Tất nhiên khi nghỉ một cái nghề mà mình máu thịt với mình như thế thì cũng băn khoăn nhưng nặng nề thì không, bởi vì tôi chuẩn bị kỹ cho nó rồi. Tôi đã làm cho báo Công An Quảng Nam Đà Nẵng 8 năm. Tôi đi làm báo từ năm 1987 đến 31 tháng 12 năm 1994. Năm 1995 báo Đại Đoàn Kết mời tôi về làm phái viên thường trú tại miền Trung, từ đó đến nay chỉ hai tờ thôi.
Nhà báo, blogger Trương Duy Nhất dĩ nhiên biết sự nguy hiểm của mình phải gặp vì vậy sự chuẩn bị chu đáo nhất của ông trong trại giam là câu khẳng định trước nhân viên điều tra: không nhận bất cứ cáo buộc nào, có nghĩa là không chấp nhận một thỏa hiệp để mong được giảm án, tuy ông biết làm như vậy là chấp nhận mang thêm số ngày ngồi trong tù của ông trong thời gian tới.
@RFA
Quan điểm của Trung Quốc về cuộc thanh trừng tại Bắc Hàn
Diên Vỹ chuyển ngữ
Tóm lược
Việc Jang Song Thaek, dượng của lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un bị tử hình mang tính quan trọng chủ yếu đối với an ninh nội bộ của Bắc Hàn. Tuy nhiên nó có thể đánh dấu một hướng đi rõ ràng trong việc thanh trừng những quan chức nào có mối liên minh gần hơn với Trung Quốc hơn là với quyền lợi của đất nước, và nó cũng có thể là một lời cảnh cáo đến Bắc Kinh về nỗ lực lâu dài của Bình Nhưỡng trong việc giảm thiểu sự nương tựa vào Trung Quốc.
Như lịch sử đã cho thấy, Bình Nhưỡng không thể cắt đứt hoàn toàn khỏi Trung Quốc. Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc đang đối diện với cùng một thách thức địa chính trị mà những người tiền nhiệm của họ từng gặp phải: chế ngự người hàng xóm ở phía đông bắc Trung Quốc. Một chính quyền Bắc Hàn ổn định và trung lập là điều tối thiểu mà Bắc Kinh có thể chấp nhận được. Nhưng Trung Quốc lại thấy rằng những nhu cầu của họ đã phải nhượng bộ trước việc Bắc Hàn theo đuổi những quyền lợi kinh tế và an ninh vượt ra khỏi vòng kiểm soát của Bắc Kinh.
Phân tích
Một số đông các doanh nhân Bắc Hàn đang làm việc tại hai tỉnh phía bắc Trung Quốc là Đan Đông và Thẩm Dương đã bị triệu hồi về Bình Nhưỡng vào ngày 15 tháng Mười hai. Diễn biến này được cho là có liên quan đến việc phế truất và tử hình Jang, người tiên phong trong nhiều dự án đầu tư dọc theo biên giới Trung Quốc-Bắc Hàn. Hiện tại những dự án lớn trong Khu Kinh tế Rason gần biên giới dường như vẫn không bị ảnh hưởng. Một thoả thuận xây dựng xa lộ nối liền Bắc Kinh và khu công nghiệp Kaesong của Bắc và Nam Hàn xuyên qua Bình Nhưỡng dường như vẫn được tiến hành. Cùng với việc Bình Nhưỡng tiếp tục muốn nâng cấp Kaesong, những biện pháp trên có thể thuyết phục người ngoài rằng Bình Nhưỡng vẫn cam kết việc cải cách kinh tế. Tuy nhiên cuộc thanh trừng cùng với việc thay đổi nhân sự chắc chắc sẽ xảy ra đang tạo ra sự bất ổn về thương mại và đầu tư giữa Trung Quốc và Bắc Hàn cũng như về những dấu hiệu căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước từ khi Kim Jong Un nắm quyền.
Jang đã có mối quan hệ mật thiết và lâu dài với Trung Quốc, quốc gia này xem ảnh hưởng của ông trong chính phủ Bắc Hàn – từ thời của Kim Jong Il cho đến Kim Jong Un – là biện pháp tốt nhất khiến Bình Nhưỡng hành xử theo quyền lợi của Trung Quốc, đặc biệt là trong việc gìn giữ ổn định và tiến hành quá trình cải cách kinh tế theo phong cách Trung Quốc. Quan hệ của Jang với Trung Quốc từng là đặc điểm mạnh nhất của ông, cho phép ông vun xới nền tảng quyền lực và tài sản cá nhân. Nhưng khi Kim Jung Un trở thành lãnh tụ Bắc Hàn và thái độ bất an của chính quyền đối với tình trạng nương tựa vào Trung Quốc tăng dần, điểm mạnh của Jang trở thành điểm yếu nhất của chính ông.
Bất chấp việc Trung Quốc liên tục tuyên bố rằng cuộc thanh trừng này là vấn đề nội bộ của Bắc Hàn, việc Jang bị tử hình đột ngột và những hệ quả theo sau rõ ràng đã khiến Bắc Kinh lo lắng. Ngày 16 tháng Mười hai Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị tuyên bố rằng Trung Quốc đang theo dõi sát sao những ý đồ phía sau cái chết của Jang và trông đợi sự ổn định chính trị cũng như phát triển kinh tế tại Bắc Hàn. Phát biểu này được đưa ra sau khi Vương trao đổi qua điện thoại với Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Kerry và Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov, những người đang thảo luận các vấn đề liên quan đến việc tái lập quá trình thương thuyết sáu bên đối với chương trình hạt nhân của Bắc Hàn vốn đã bị đình chỉ từ lâu. Trong khi đó, cơ quan truyền thông bán chính thức của chính quyền là Hoàn Câu Thời Báo nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyến viếng thăm Bắc Kinh sắp đến của Kim Jong Un – một thay đổi rõ ràng so với thái độ miễn cưỡng trước đây của Bắc Kinh về việc đón mời vị lãnh tụ mới này và là một dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh giờ đây thấy cần có một trao đổi trực tiếp.
Dấu hiệu của việc tránh xa Bắc Kinh?
Bản thân sự kiện Jang bị truất phế và xử tử cũng đã là một dấu hiệu từ Bắc Hàn cho thấy quốc gia này muốn tách xa khỏi Trung Quốc. Đầu tiên, bên cạnh những truy tố khác, Jang còn bị tố cáo đã bán rẻ tài nguyên quốc gia cho Trung Quốc. Cáo buộc này được nhiều người nghĩ là ám chỉ đến việc Jang kiếm lợi từ việc Bắc Hàn xuất khẩu quặng sắt và khoáng sản cho Trung Quốc, quốc gia nhập quặng sắt nhiều nhất từ Bắc Hàn. Thứ hai, Jang còn bị cáo buộc là đã cho phép nước ngoài ký kết hợp đồng thuê đất dài 50 năm trong Khu Kinh tế Rason. Jang được cho là đã cung cấp những điều khoản có lợi cho Trung Quốc trong một thoả thuận thuê mướn cảng và đất vào năm 2011. Trong khi đó, Tập đoàn Thương mại nhà nước Trung Quốc được cho là đã rút khỏi Khu Kinh tế Hwanggumpyong – một đặc khu kinh tế mới nằm trên vùng giới Trung Quốc-Bắc Hàn đo Jang trực tiếp kiến tạo – vào cuối tháng Mười một. Việc rút lui này được cho là đã xảy ra khi Bình Nhưỡng tăng cường những cản trở đối với doanh nghiệp Trung Quốc, làm thất vọng Tập đoàn Thưong Mại Trung Quốc lẫn giới doanh gia Trung Quốc đang hoạt động tại Bắc Hàn.
Trung Quốc liên tục nhấn mạnh rằng việc tử hình Jang sẽ không ảnh hưởng đến quan hệ với Bắc Hàn, nhưng phản ứng của họ có thể được giải thích theo hai cách. Một mặt, Bắc Kinh vẫn có thể đang đánh giá những ẩn ý phía sau việc tử hình Jang và có thể sẵn sàng chấp nhận việc thanh trừng Jang chỉ là dấu hiệu Kim Jong Un đang củng cố quyền lực. Mặt khác, nó có thể phản ánh những thách thức ngày càng tăng đối với Trung Quốc trong việc làm chủ tình huống, và việc quốc tế cho rằng ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với Bình Nhưõng đang nhạt dần có thể tạo thêm điều kiện để Bắc Hàn hành xử ngoài ý muốn của Trung Quốc.
Trên thực tế, mặc dù việc tử hình Jang xảy ra đột ngột, dường như Bắc Kinh cũng đã biết trước việc Jang bị thanh trừng vì tham vọng cá nhân quá lớn của ông. Theo truyền thông Trung Quốc, Jang được cho là đã “nôn nóng” về tương lai của mình khi gặp gỡ một quan chức Trung Quốc giấu tên vào cuối tháng Giêng, ông đã nói rằng ảnh hưởng của ông với Bình Nhưỡng đã bị phóng đại ở nước ngoài. Dự đoán về số phận của Jang cũng có thể được củng cố khi Phó Thống chế Choe Ryong Hae đến thăm Trung Quốc trong vai trò đại diện đặc biệt của Kim Jong Un vào tháng Nam, ngay sau khi Bắc Hàn phóng thử tên lửa hạt nhân, dập tắt trông đợi của Bắc Kinh vào tầm ảnh hưởng của Jang. Hơn nữa, trong một cuộc gặp mặt riêng của đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc vào cuối tháng Bảy – ba tháng trước khi Jang biến mất trước công chúng – ông đã bày tỏ sự lo lắng rằng không còn được Kim Jong Un hậu thuẫn.
Nhưng ngay cả nếu Bình Nhưỡng muốn giảm thiểu nương tựa vào Bắc Kinh, việc thanh trừng Jang không nhất thiết báo hiệu rằng Bắc Hàn đang sẵn sàng – hoặc có khả năng – từ bỏ quan hệ với Trung Quốc vì ảnh hưởng quá lớn của Trung Quốc cũng như quan hệ địa chính trị của hai quốc gia. Thay vì thế, Bình Nhưỡng có thể cảm thấy rằng Trung Quốc muốn giữ mối quan hệ hiện tại hơn là với một Bắc Hàn đang bị trị vì bởi một chính thể hung hãn với đầy rẫy rối loạn nội bộ, và từ đó cho phép Bình Nhưỡng tận dụng tối đa những quyền lợi an ninh và kinh tế của mình.
Những giới hạn của Bắc Kinh
Đối với Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên vừa là vùng đệm chiến lược lẫn hành lang đối với những đe doạ bên ngoài – những đe doạ rõ ràng lặp đi lặp lại từ Triều đại nhà Minh cho đến Chiến tranh Triều tiên. Vì thế điều tối thiểu mà Bắc Kinh có thể chấp nhận được trong khía cạnh quyền lợi địa chính trị của mình là một chính thể Bắc Hàn trung lập. Việc thừa nhận chính quyền mới tại Bình Nhưỡng của Bắc Kinh có ba giới hạn: bất ổn trong nước, những hành xử đột ngột của Bình Nhưỡng mà Bắc Kinh không can thiệp được, và việc Bắc Hàn tiếp tục chương trình hạt nhân hoá, ngày càng đe doạ môi trường chiến lược của Trung Quốc.
Từ lâu Trung Quốc đã quan ngại đến tính ổn định trong quốc gia láng giềng phía đông này, được châm ngòi bởi khủng hoảng chuyển giao chính quyền hoặc khủng hoảng kinh tế qua tình trạng đóng cửa với bên ngoài của Bắc Hàn. Do đó, trong khi vẫn chưa thiết lập được những đầu mối chính thức với Kim Jong Un, Trung Quốc muốn thấy một chính quyền với tầng lớp lãnh đạo đoàn kết để tránh thêm những bất ổn trong nước. Là một phần trong những chiến lược, Bắc Kinh đã tăng cường quan hệ kinh tế với chính quyền Bắc Hàn hầu mong quốc gia này mở cửa hơn nữa – đặc biệt là với Trung Quốc, từ đó sẽ tạo thêm ổn định trong khu vực biên giới chung của hai nước. Trung Quốc vần là nhân tố mạnh mẽ trong việc ngăn chặn một cơn khủng hoảng kinh tế khổng lồ tại Bắc hàn. Trong năm 2012, năm đầu tiên Kim Jong Un nên nắm quyền, thương mại song phương đã tăng đến 6 tỉ Mỹ kim (từ 1,6 tỉ trong năm 2005) – chiếm gần 90% tổng số thương mại của Bắc Hàn. Một số dự án đầu tư và việc thành lập các đặc khu kinh tế dọc theo biên giới đã tạo điều kiện cho việc tăng cường thương mại song phương.
Dưới quan điểm của Trung Quốc, một khi Bắc Hàn vẫn tiếp tục thúc đẩy chương trình hạt nhân thì quan hệ toàn diện giữa nước này và phương Tây – đặc biệt là với Hoa Kỳ – sẽ không thể xảy ra trong thời gian gần. Tuy nhiên, điều này sẽ có ích cho Trung Quốc nếu mọi người cho rằng Trung Quốc có thể hoặc sẽ tạo ảnh hưởng đến Bắc Hàn. Trên thực tế, mặc dù từ lâu Bắc Kinh vẫn nuôi dưỡng việc Bắc Hàn tiếp tục chương trình hạt nhân như là một đòn bẩy trong các vấn đề Triều Tiên, họ ngày càng cảm thấy bất an đối với nỗ lực hạt nhân hoá không ngừng của Bắc Hàn cũng như những ảnh hưởng của nó đối với môi trường chiến lược cũng như uy tín của Trung Quốc trong vai trò trọng tài đối với những vấn đề liên quan đến Bắc Hàn. Điều làm Trung Quốc quan tâm hơn nữa là khả năng, dù khó xảy ra, rằng một ngày nào đấy Bắc Hàn không còn đóng vai trò vùng đệm chống lại những láng giềng hung hăn và phương Tây mà lại bắt đầu quá trình bình thường hoá hoặc có thể thống nhất với Nam Hàn, thậm chí tạo ra một đe doạ hạt nhân sát nách Trung Quốc.
Mong muốn kềm chế Bắc Hàn của Bắc Kinh đang mâu thuẫn với nhu cầu độc lập và tự vệ của Bình Nhưỡng. Cả hai bên đều không thể từ bỏ những quan hệ song phương, và cả hai cũng đều không muốn đạt đến điều này; những thách thức của Bắc Kinh trong việc giữ nguyên ảnh hưởng mạnh mẽ của mình đối với một chính quyền chuyên gây hấn cũng bị kềm chế tương tự như những giới hạn của Bình Nhưỡng trong việc giảm thiểu sự nương tựa vào Bắc Kinh. Tuy nhiên, một khi Bắc Hàn tiếp tục chứng tỏ ý muốn hành xử vượt khỏi kiểm soát của Trung Quốc, Bình Nhưỡng rõ ràng đang thách thức những giới hạn của Bắc Kinh.
@Danluan