Triệu con tim’ – Bài hát bị cấm của nhạc sĩ Trúc Hồ

Bài hát ‘Triệu con tim’ của nhạc sỹ Trúc Hồ sáng tác cho chiến dịch “Triệu con tim, một tiếng nói”, vận động chữ ký ủng hộ nhân quyền cho Việt Nam. Ca khúc này nằm trong đĩa nhạc “32 Năm Kỷ Niệm” của Trung tâm Asia, nội dung kêu gọi lòng yêu nước trước họa ngoại xâm, đấu tranh cho nhân quyền. Đĩa nhạc Asia thứ 71 này cũng vừa bị UBND TP.HCM và Bí thư Lê Thanh Hải ra lệnh cấm người dân xem.

Trong 1 lần trả lời phỏng vấn của đài RFA, nhạc sỹ Trúc Hồ chia sẻ:
 
“Trúc Hồ sáng tác bài Triệu Con Tim trong thời gian chúng ta đang theo dõi phiên tòa của anh Điếu Cày, chị Tạ Phong Tần cũng như Anh Ba Sài Gòn. Buổi sáng ngủ dậy, một số người bạn trên facebook cho Trúc Hồ biết là anh Điếu Cày bị 12 năm tù, thì lúc đó lòng mình buồn và khó chịu lắm… thấy hình ảnh của phiên tòa và hình ảnh ánh mắt của anh Điếu Cày, đứng giữa phiên tòa, gương mặt của anh vẫn hiên ngang mặc dù hơi mệt mỏi. 
 
Khi nhìn vào ánh mắt của anh, thấy được nỗi đau của anh, Trúc Hồ chỉ cảm được thôi không biết tương lai (anh) sẽ về đâu, đất nước Việt Nam sẽ về đâu với những hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy. Từ trong ánh mắt đó làm cho Trúc Hồ có cảm hứng ngồi xuống và đã viết bài, tự nhiên lúc đó, lời nhạc lên, giai điệu lên, có âm hưởng Từ phương xa, nhìn về quê hương…”
Bất chấp lệnh cấm do Bí thư Lê Thanh Hải và UBND TP.HCM ban hành, bài hát “Triệu con tim” vẫn được lưu truyền và phổ biến rộng rãi trên Internet và qua các mạng xã hội.
Trên Facebook, nhạc sĩ Trúc Hồ đã chia sẻ đoạn video gồm hai bài hát ‘Triệu con tin’ và bài ‘Bạn Thân’ của Việt Khang, với lời nhắn: “Hai nhạc phẩm Triệu Con Tim và Bạn Thân trong cuốn Asia 71. Cám ơn một khán giả nào đó đã bỏ lên Youtube. Trúc Hồ xin được chia sẻ lại với các bạn, đặc biệt là các bạn trong nước”.
DVD Asia 71 được đánh giá cao, nội dung truyền tải những thông điệp mạnh mẽ về cuộc đấu tranh nhân quyền tại Việt Nam, cùng với khí thế hào hùng ca ngợi lòng yêu nước chống giặc Tàu xâm lăng.
Hàng năm, cứ gần dịp Tết Nguyên Đán, người dân Sài Gòn có thói quen mua các loại đĩa ca nhạc về để mở cho gia đình và bạn bè xem. Việc UBND TP.HCM vội vã ban hành lệnh cấm cho thấy nhà cầm quyền CSVN và Bí thư Lê Thanh Hải đã tỏ ra lo sợ về thông điệp của DVD Asia 71 lần này.
Theo một số dự đoán, lệnh cấm như trên sẽ càng khiến cho DVD Asia 71 và bài hát “Triệu con tim” được người dân phổ biến rộng rãi hơn.DVD Asia lần thứ 71, chương trình ’32 năm kỷ niệm’ hiện đã có bán tại website:
http://shop.trungtamasia.com/P_1-3_2-48_4-642_6-1/Asia-32nd-Anniversary-Celebrationbluray-phat-Hanh-Jan-11-2013.html

@Danlambao

‘Đừng thờ ơ với tình hình đất nước’

Nhạc sỹ Trúc Hồ
Trúc Hồ là một nhân vật có tiếng tăm trong làng giải trí của người Việt hải ngoại

Nhạc sỹ Trúc Hồ, tác giả của bài hát ‘Triệu con tim’ mà chính quyền trong nước cấm đoán, nói bài hát này là thông điệp của ông gửi đến tất cả người Việt Nam trên toàn thế giới.

Bài hát Triệu con tim do chính tác giả Trúc Hồ cùng các nam nữ ca sỹ và ca đoàn của Trung tâm Asia trình bày nằm trong đĩa Asia 71 vốn vừa bị chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh ra lệnh phải bằng mọi cách không để công chúng tiếp cận.

Trao đổi với BBC từ California, Hoa Kỳ, nhạc sỹ Trúc Hồ nói ông ‘không ngạc nhiên’ trước lệnh cấm này.

“Sở dĩ họ phải cấm vì họ sợ sự thật,” ông nói.

Ông nói thông điệp của ông trong bài hát ‘Triệu con tim’ là ‘đừng thờ ơ trước tình hình đất nước’.

“Đôi khi sống xa quê hương, bỏ cộng sản mà đi, đã chết đi sống lại, đã làm lại cuộc đời từ đầu, sau bao nhiêu năm đã ổn định đời sống và được sống trong một đất nước văn minh, dù là Âu châu, Úc châu, Canada hay Hoa Kỳ, đôi khi chúng ta quên đi những gì xảy ra ở trong nước,” ông nói.

“Những người bạn, những người dân cùng giống nòi đang bị kìm kẹp, áp bức và những người lãnh đạo đang đi con đường không đúng – đặt quyền lợi cá nhân lên quyền lợi quốc gia, dân tộc.”

“Tất cả những người Việt Nam trên toàn thế giới hãy nhìn về quê hương để thấy được những gì đang xảy ra trên đất nước. “

Nhạc sỹ Trúc Hồ

“Tất cả những người Việt Nam trên toàn thế giới hãy nhìn về quê hương để thấy được những gì đang xảy ra trên đất nước,” ông nói thêm, “Dù chúng ta ở bất cứ nơi đâu đều tiên chúng ta là con dân Việt Nam, là dòng giống Lạc Hồng.”

Ông cho biết tất cả các ca sỹ và ca đoàn trình diễn ca khúc này ‘bằng tấm lòng thật’ và bản thân ông ‘cảm giác khi ca cũng bùi ngùi lắm’.

Cảm hứng để ông viết nên bài hát này, ông cho biết, là từ ‘ánh mắt của (blogger) Điếu Cày đứng trước tòa’ mà ông bắt gặp trên Internet.

“Từ ánh mắt có thể cảm được nỗi đau của anh Điếu Cày. Thời gian đó tôi cũng nhìn thấy bao nhiêu người yêu nước bị bỏ tù, bao nhiêu người Việt Nam bị mất đất,” ông kể.

“Tự nhiên dòng nhạc nó ra ‘Từ phương xa nhìn về quê hương…’,” ông giải thích.

‘Đĩa lậu cũng chịu’

Mặc dù đĩa nhạc mang số hiệu 71 của hãng đĩa Asia mà bản thân Nhạc sỹ Trúc Hồ làm giám đốc điều hành đang đối diện với nguy cơ bị in lậu tràn lan trong nước, ông nói Trung tâm Asia ‘không có gì phản đối’.

Bị cáo Điếu Cày trong phiên tòaTrúc Hồ nói cảm hứng cho bài hát ‘Triệu con tim’ là từ ánh mắt của Điếu Cày trong phiên tòa

“Trong nước chuyền tay nhau coi là điều tốt. Đĩa lậu cũng phải chấp nhận vì trong nước không cho bán đĩa gốc,” ông nói, “Đối với Asia không có vấn đề gì.”

“Mặc dù không có đồng nào về Asia hết, nhưng Trúc Hồ nghĩ người dân trong nước cứ sang cho tất cả những người nào muốn coi để biết được nỗi lòng của những người Việt Nam ở hải ngoại lúc nào cũng ưu tư về quê hương mình,” ông nói thêm.

Tuy nhiên, ông nói Trung tâm Asia có thể thưa kiện việc chính quyền Việt Nam cấm đĩa Asia 71 với Bộ Ngoại giao và Bộ Thương mại Hoa Kỳ vì ‘giao thương không công bằng’.

“Họ đi ngược lại luật lệ buôn bán của WTO. Họ không cho những sản phẩm của Hoa Kỳ về Việt Nam là không công bằng,” ông giải thích.

Bài hát ‘Triệu con tim’ của Trúc Hồ cũng nhằm để cổ súy cho chiến dịch ‘Triệu con tim, Một tiếng nói’ để vận động một triệu chữ ký vào thỉnh nguyện thư gửi lên Liên Hiệp Quốc về tình trạng nhân quyền của Việt Nam.

“Chính Trúc Hồ và một phái đoàn đã tới Liên Hiệp Quốc để gặp chủ tịch Hội đồng nhân quyền và trình thỉnh nguyện thư,” ông cho biết.

Ông cũng nói rằng từ cuộc vận động này mà ‘những nhà lãnh đạo của thế giới tự do đã có cái nhìn rõ nét về những gì xảy ra ở Việt Nam’.

“Nếu những người Việt Nam ở trong nước và hải ngoại đều đồng lòng thì chắc chắn những người hiện đang bị cầm tù vì tội yêu nước chắc chắn một ngày sẽ được thả,” ông nói.

@bbc

Doanh nghiệp nhà nước nợ 60 tỷ đôla

Thủ tướng Dũng tại hội nghịThủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì hội nghị

Tổng nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà nước ở thời điểm này là hơn 1,33 triệu tỷ đồng, tức hơn 60 tỷ đôla.

Đây là con số gây chấn động được đưa ra tại Hội nghị Chính phủ với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì hôm thứ Tư 16/1 tại Hà Nội.

Báo trong nước cho hay ông thủ tướng dự hội nghị để “lắng nghe tiếng nói từ phía các doanh nghiệp, cùng các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất trong năm tới”.

Người đứng đầu chính phủ đã phải nghe báo cáo của ông Phạm Viết Muôn, Phó Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp của Chính phủ, về tổng quan hoạt động của doanh nghiệp nhà nước năm 2012, trong đó ông Muôn đưa ra các thống kê giật mình.

Theo báo cáo, tổng nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà nước là hơn 1,33 triệu tỷ đồng, hệ số nợ phải trả / vốn chủ sở hữu bình quân là 1,82 lần (lớn hơn tỷ lệ 1,77 lần của năm 2011). Tổng tài sản/ tổng nợ phải trả là 1,6 lần.

Báo cáo cũng cho hay nợ nước ngoài của các công ty mẹ tập đoàn, tổng công ty là 158.865 tỷ đồng; tương đương 21,5% tổng nợ phải trả, tăng 11% so với năm 2011.

Các công ty mẹ của nhà nước có số nợ nước ngoài lớn là Điện lực Việt Nam (EVN), Hàng không Việt Nam (VNA)…

‘Trong mức cho phép’

Ông Phạm Viết Muôn, trong khi khẳng định rằng hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước “vẫn nằm trong giới hạn cho phép”, nhưng nói nếu xét riêng rẽ, một số tập đoàn, tổng công ty thì tỷ lệ này “cá biệt có nơi rất cao”.

Năm 2012, các doanh nghiệp nhà nước có doanh thu đạt trên 1.621.000 tỷ đồng, chỉ bằng 92% kế hoạch năm.

Lỗ phát sinh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong năm 2012 là khoảng 2.253 tỷ đồng; lỗ lũy kế của 10 tập đoàn, tổng công ty hàng đầu vào khoảng 17.730 tỷ đồng.

Nhiều doanh nghiệp nhà nước lỗ đi lỗ lại nhiều năm liên tiếp.

Tổng nộp ngân sách của các công ty là khoảng 294.000 tỷ đồng.

Các doanh nghiệp được trích lời nói đang trông chờ chính sách của chính phủ để tiếp tục xử lý khó khăn và điều chỉnh đầu tư.

Họ cũng yêu cầu được hỗ trợ tái cấu trúc doanh nghiệp.

Sự cố Vinashin và Vinalines trong năm 2010, 2011 với tổng nợ lên đến 6,5 tỷ đôla đã buộc chính phủ phải tăng nỗ lực cải cách các doanh nghiệp nhà nước, vốn chiếm một phần ba nền kinh tế và chiếm hết vốn đầu tư vào tư doanh.

Cải cách kinh tế ở Việt Nam bị giới quan sát cho là không giải quyết cốt lõi của vấn đề khi “Đảng Cộng sản vẫn còn nắm giữ vai trò chủ đạo, và doanh nghiệp Nhà nước vẫn là công cụ ổn định kinh tế vĩ mô”.

@bbc

Điều 88 bộ Luật Hình Sự Việt Nam: “Cố ý tạo ra một sự sợ hãi thường trực”

Tú Anh thực hiện

Nhân sĩ trí thức Việt Nam trong và ngoài nước thu thập chữ ký kêu gọi hủy bỏ điều 88 trong Bộ Luật Hình Sự. Báo Quân Đội Nhân Dân ngày 13/01/2013 cho đây là một âm mưu xóa bỏ chế độ bằng diễn biến hòa bình. Theo lập luận này, các công ước Liên Hiệp Quốc công nhận quyền công dân là “bảo vệ chế độ” và cao hơn nhân quyền. RFI đặt câu hỏi với Tổng thư ký Hiệp hội Quốc tế Nhân quyền (ISHR) Vũ Quốc Dụng từ Frankfurt, Đức.

RFI: Các trí thức Việt Nam cho rằng Điều 88 ‘‘bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận” và “gây nguy hiểm cho trí thức”, ISHR đánh giá như thế nào?

Vũ Quốc Dụng: Điều 88 ‘‘Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam’’ thuộc về chương ‘‘Các tội xâm phạm an ninh quốc gia’’của Bộ Luật Hình Sự Việt Nam (BLHS) là một công cụ đàn áp chính trị chứ không phải là một điều luật bình thường. Chúng ta có nhiều minh chứng cho điều này. Trước hết các từ ngữ và nội hàm của điều này rất mơ hồ và không được sách luật nào ở Việt Nam giải thích cho thấu đáo.

Ngay cả các luật sư tại Việt Nam cũng bị bắt vì những cáo buộc vi phạm điều 88. Chính luật sư tốt nghiệp ở Mỹ như Lê Công Định, luật gia tiến sĩ của Pháp là Cù Huy Hà Vũ, luật sư tốt nghiệp ở Việt Nam như Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân, Lê Trần Luật lẫn những luật gia mới tốt nghiệp như AnhBaSg Phan Thanh Hải và Tạ Phong Tần cũng không thể nào hiểu nổi điều 88.

Sự mơ hồ này giúp cho công an, viện kiểm sát và tòa án tha hồ suy diễn tùy tiện để bắt giam và kết án. Hơn một trăm tù nhân chính trị tại Việt Nam hiện nay đều có dính dáng ít nhiều đến những cáo buộc về tội tuyên truyền chống nhà nước. Trong những bản kết luận điều tra, cáo trạng và bản án của họ chúng tôi thấy lúc nào cũng thấy ẩn hiện điều 88. Việc dùng tội danh nào để cuối cùng kết án họ lại là một vấn đề khác nhưng rõ ràng họ bị làm tội vì không cùng chính kiến với chế độ cộng sản tại Việt Nam. Cho nên điều 88 – mà nhiều nhà hí họa đã vẽ thành 2 cái còng số 8 khóa môi người Việt Nam – như một lưỡi kiếm Damoclès treo lơ lửng trên đầu mọi người.

Việc áp dụng điều 88 tùy tiện đến nỗi họ không biết nó sẽ phập xuống lúc nào. Bắt họ hay xử tội họ lúc nào là quyền của công an. Hiệp hội Nhân quyền quốc tế (ISHR) cho rằng việc soạn thảo một điều luật 88 mơ hồ và việc áp dụng điều 88 một cách tùy tiện là một sự cố ý, cố ý tạo ra một sự sợ hãi thường trực và không thể xác định được một cách rõ rệt. Chính sự sợ hãi này đã bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận trên tất cả các lãnh vực từ báo chí, thông tin, truyền thông, internet, đến tư tưởng, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, nghiên cứu, giảng dạy ở Việt Nam chứ không phải chỉ trong lãnh vực chính trị và xã hội.

Chính vì vậy mà chúng ta thấy trong danh sách của bản kêu gọi bỏ điều 88 BLHS và Nghị định 38 vào ngày 25/12/2012 vừa qua đã có chữ ký của những đại diện rất có uy tín trên tất cả những lãnh vực này. ISHR cho rằng những trí thức này đang thực sự lo sợ khi thấy những phản biện và kiến nghị hợp pháp về chính sách, bộ máy cầm quyền có thể dẫn đến việc truy tố họ. Việc họ lên tiếng tập thể sẽ nhắc nhở chính quyền Việt Nam nên rà soát lại những điều luật lỗi thời – nhất là những điều luật hình sự trong chương “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia“.

RFI: Việt Nam bị quốc tế chỉ trích về Điều 88. Vậy Điều 88 có vi phạm quyền tự do ngôn luận theo luật quốc tế không?

Vũ Quốc Dụng: Việt Nam đã tham gia ký kết Công ước quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) cho nên mọi người Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới chờ đợi chính quyền Việt Nam thành tâm và hoàn toàn tuân thủ những điều khoản ghi trong đó, kể cả điều 19 về tự do ngôn luận. Liên Hiệp Quốc và các cơ chế của nó như Ủy ban Nhân quyền là uỷ ban đảm nhiệm việc giám sát thi hành ICCPR cũng như Hội đồng Nhân quyền đã có vô số văn bản để giải thích điều này. Cho nên việc tìm hiểu cho rõ và áp dụng cho đúng không phải là khó.

Chúng tôi xin tóm tắt những vi phạm của điều 88. Trước hết theo luật quốc tế, quyền tự do ngôn luận gồm có 2 quyền: thứ nhất là quyền tự do có quan điểm riêng và thứ hai là quyền tự do bày tỏ quan điểm của mình. Xin lấy thí dụ chị Phạm Thanh Nghiên bị bắt khi đang ngồi trong nhà riêng và cầm trong tay một tấm giấy ghi chữ “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, Phản đối công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng.” Xin nhấn mạnh là biên bản bắt chị Nghiên ghi rõ chị bị bắt vì cầm giấy ngồi trong nhà. Chị Bùi Thị Minh Hằng bị bắt đưa đi cải tạo vì đã đội nón lá và quàng khăn ghi chữ “Hoàng Sa – Trường Sa – Việt Nam” ra đứng trước Nhà thờ. Hai chị đã bị xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do có quan điểm, mà theo luật quốc tế, là một nhân quyền tuyệt đối, nghĩa là một nhân quyền không thể bị giới hạn hay xâm phạm trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Về quyền bày tỏ quan điểm thì điều 19 của ICCPR bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại thông tin trong khi điều 88 thì cấm tuyên truyền, làm ra, tàng trữ, lưu hành tài liệu chống Nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là ai, bị thiệt hại quyền lợi gì thì đến giờ cũng không ai rõ. Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ yêu cầu được đối chất với đại diện Nhà nước, là người bị xem là bị hại trong vụ án của ông, nhưng không được. Công an Việt Nam bắt cả những người nhận được bài từ một địa chỉ email không quen biết, buộc tội cả những bài viết chưa phổ biến tìm thấy trên máy tính, và thường xuyên dẫn chứng bằng những bài viết và bài phỏng vấn trên các cơ quan truyền thông có uy tín quốc tế.

Điều 88 đi ngược hoàn toàn với tinh thần của điều 19 của bản ICCPR và quyền tự do ngôn luận được diễn giải rất rõ trong các bình luận luật học của Uỷ Ban Nhân quyền LHQ. Việc giam giữ công dân Việt Nam theo điều 88 đã nhiều lần bị các cơ quan LHQ lên án, cụ thể, Cao ủy Nhân quyền LHQ và Tổ Công tác về Giam giữ Tùy Tiện của Hội đồng Nhân quyền LHQ đã phải nhiều lần can thiệp trong năm qua. Ngay cả Báo cáo viên Đặc biệt về Tự do Ngôn luận của LHQ cũng không được sang thăm Việt Nam mặc dù đã có yêu cầu từ năm 2002.

Tôi còn nhớ trong đợt Cứu xét Báo cáo Định kỳ toàn Thế giới về Nhân quyền hồi năm 2009, đề tài vi phạm quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam là đề tài bị nhiều quốc gia phê bình nhất. Chúng ta cần biết rằng Điều 88 ra đời năm 1999, nghĩa là, 17 năm sau khi Việt Nam gia nhập ICCPR. Tại sao lúc đó – năm 1999 – và ngay cả đến bây giờ điều 88 không chịu thích ứng với điều ước quốc tế này cho thấy Việt Nam không nội luật hóa những cam kết quốc tế và rõ ràng không thực tâm thi hành những cam kết.

RFI: Lý do an ninh quốc gia thường được chính quyền Việt Nam đưa ra để giới hạn quyền tự do ngôn luận. Vậy lý do này có xác đáng không?

Vũ Quốc Dụng: Chính luật quốc tế cũng không quan niệm rằng quyền tự do cá nhân phải tuyệt đối nên điều 19 của ICCPR cũng có đặt ra những giới hạn. Nhưng những giới hạn này phải hợp lý để không làm triệt tiêu chính cái quyền tự do ngôn luận. Luật quốc tế biết rằng việc giới hạn rất dễ bị lợi dụng và lạm dụng nên đã đưa ra những qui định rất chặt chẽ.

Như đã trình bày ở trên, điều 19 của ICCPR không cho phép giới hạn quyền tự do có quan điểm vì nó là một quyền tuyệt đối. Đối với quyền bày tỏ quan điểm thì điều 19 cho phép giới hạn để bảo vệ an ninh quốc gia, nhưng bắt phải ra luật đặc biệt thích ứng với hoàn cảnh ngoại lệ này. Trước hết luật quốc tế hiểu “nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia” là khi có xảy ra tình trạng khẩn trương thực sự đe dọa sinh mạng toàn quốc gia và Nhà nước chính thức công bố tình trạng khẩn trương này. Thứ đến, trong đạo luật liên quan, mục đích của việc giới hạn phải được định nghĩa rõ ràng, những biện pháp đưa ra phải liên quan trực tiếp đến mục đích và mức độ của những biện pháp phải có chừng mực tương xứng với mục đích nêu ra.

Điều 88 không thỏa mãn những điều kiện kể trên. Việt Nam đã có hòa bình trong bao năm nay và chưa bao giờ ban bố tình trạng khẩn trương vì quốc gia bị đe dọa toàn diện. Cho nên phải hiểu là cụm từ “an ninh quốc gia” được dùng trong BLHS chỉ là sự an toàn của chế độ cộng sản đương quyền và do đó không phải là trường hợp để áp dụng những giới hạn theo khoản 3 của điều 19 ICCPR.

Có một bài trước đây trên tờ Quân Đội Nhân Dân cũng nêu ra quyền tự quyết về chính trị theo ICCPR để biện minh rằng chế độ chính trị hiện nay cần được bảo vệ. Trong luât quốc tế quyền tự quyết dân tộc liên quan đến tư cách chính trị trên trường quốc tế của một quốc gia, nghĩa là 1 trong 3 tư cách: Độc lập, bị đô hộ hay bị bảo hộ; chứ không liên quan đến thể chế chính trị của một nước. Việc mạo xưng quyền tự quyết dẫn đến hiểu lầm cho rằng chính quyền có toàn quyền xử lý người dân và không cho bất cứ quốc gia nào can thiệp vào.

RFI: Quyền công dân và nghĩa vụ công dân được hiểu thế nào trong quan niệm nhân quyền?

Vũ Quốc Dụng: Quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch của một quốc gia và được Hiến pháp và luật pháp nước đó bảo vệ. Nhân quyền là quyền của con người, vì họ là người, có giá trị đối với mọi người ở mọi nơi trên thế giới, và được luật pháp quốc tế định nghĩa và bảo vệ. Nói chung quyền công dân không được phép mâu thuẫn với nhân quyền phổ quát. Nếu có mâu thuẫn hay khác biệt thì có thể xảy ra tình trạng vi phạm nhân quyền.

Trong trường hợp này, nếu quốc gia đó là thành viên của một công ước quốc tế thì cơ chế giám sát của công ước này sẽ xem xét trường hợp vi phạm. Nếu không tham gia bất cứ công ước nào và vụ vi phạm nhân quyền là nghiêm trọng thì Hội đồng Nhân quyền và các cơ chế của nó vẫn tiến hành xem xét. Cho nên không thể tách quyền công dân ra khỏi nhân quyền được và một quốc gia không thể tùy tiện mà xử lý công dân của mình được. Lý luận cho rằng mỗi nước có quyền xét xử công dân phạm pháp của mình theo luật riêng là đúng, nếu luật và việc xét xử không vi phạm luật nhân quyền quốc tế, và là sai nếu vi phạm luật nhân quyền quốc tế.

Trong tinh thần đó, điều 29 của Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế, đưa ra trách nhiệm hỗ tương giữa công dân và Nhà nước. Theo đó, người công dân phải có nghĩa vụ đối với “cái cộng đồng mà chỉ trong đó họ mới có thể phát triển một cách toàn vẹn tự do và nhân cách của mình“ trong những giới hạn chính đáng của một xã hội dân chủ. Cho nên ở đây vấn đề nghĩa vụ công dân chỉ đặt ra khi nhà nước cũng phải hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm đầy đủ các nhân quyền cho công dân.

Nói chung, những bài báo viết về nhân quyền trên tờ Quân Đội Nhân Dân thường có cố tình cắt xén chỗ này, lắp ghép khái niệm chỗ kia để biện hộ cho lập trường nhân quyền cá biệt của Việt Nam. Việc làm này sẽ làm cho người dân Việt Nam hiểu sai luật nhân quyền quốc tế và càng làm cho Việt Nam khó hội nhập với quốc tế về mặt nhân quyền.