Nguyễn Bá Thanh ‘ra Ba Đình’: Gian hùng trị tham nhũng?

Bổ nhiệm tân trưởng ban nội chính TƯ: Dùng kẻ gian hùng để lật tên tham nhũng? 

Thu Hương, Duy Tân (Danlambao) – Khi nghe tin Nguyễn Bá Thanh ra Trung Ương, điều đầu tiên chúng tôi cảm nhận là sự ngỡ ngàng. Sau đấy là cảm giác xót thương cho cái nước Việt mình rõ ràng là đã hết nhân tài nên nhà cầm quyễn vẫn quanh đi quẩn lại chỉ dùng mấy gương mặt mốc đã cũ xì.
Gần đây nghe tin bà Hillary Clinton phải nhập viện khẩn cấp tự nhiên thấy lo cho sức khỏe của bà nhưng không hề lo cho đất nước của bà vì nếu Madame Clinton có mệnh hệ nào thì Tổng Thống Obama không chút khó khăn trong việc lựa chọn một tân bộ trưởng ngoại giao ở một quốc gia lắm nhân tài như Mỹ. Rồi tự nhiên thấy ganh tỵ với đất nước của chú Sam, một sự ganh tỵ có lẽ là khập khiễng.
Đất nước mình gần 90 triệu dân nhưng đi theo chủ nghĩa cộng sản xơ cứng bao năm nay nên có nhân tài cũng không thể nào ngoi lên nổi. Để rồi những lãnh đạo của gần 90 triệu dân Viêt mình vẫn là nhưng tên quan tham, gian hùng có cỡ.Nhìn sang nước Nga và nhớ lại thời điểm cựu Tổng Thống Boris Elsin chọn ông Putin là một nhân vật rất mới làm người kế vị đã khiến cả nước Nga kỳ vọng nhưng thực tế cho thấy chính quyền cộng sản Nga mạt vận chỉ có thể chuyển đổi thành những tập đoàn maphia đỏ độc tài mà thôi chứ không hề có sự đột phá dân chủ nào cả. Cho nên bây giờ quan sát những chiêu thức đang được chính quyền Việt Nam đạo diễn quanh vụ phải bố trí một tay gian hùng như Nguyễn Bá Thanh vào Bộ Chính Trị càng khiến ảo vọng về một xã hội dân chủ văn minh ngày càng xa vời.

Thực ra chúng tôi không định viết về nhân vật này vì có rất nhiều người hiểu rõ Nguyễn Bá Thanh hơn chúng tôi, nhất là những người ở Đà Nẵng. Có 2 người thường hay viết công khai về bí thư Đà Nẵng trên mạng là blogger Trương Duy Nhất và blogger Phước Béo. Tuy nhiên những bài viết của ông Nhất gần đây nếu tinh ý nhận định có thể thấy “thà độc tài còn hơn dân chủ ỡm ờ…”, dường như có ý đồ toan tính thay vì là một chủ trang blog có tiếng. Còn blogger Phước béo nhận định cũng rất thâm thúy nhưng có cách diễn đạt cứ úp úp mở mở khiến người đọc khó nắm bắt được bản chất của sự việc. Cho nên chúng tôi đành phải mạn phép mà chấp bút.
Ông Phạm Minh Thông

Nhắc đến Nguyễn Bá Thanh chúng tôi muốn nhớ đến một người quen cũ của ông. Nhân vật này là ông Phạm Minh Thông nguyên giám đốc Công Ty Hợp Danh Xây Dựng và Kinh Doanh Nhà Quảng Nam Đà Nẵng, là bị can bị án tù giam trong vụ án cầu Sông Hàn xử năm 2004.

Ông Thông là dân Miền Nam tập kết ra Bắc, sau ngày thống nhất đất nước ông trở lại Đà Nẵng, thủ phủ của tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng làm cán bộ của Sở Xây Dựng. Ông này hiền lành, có trí thức. Khi mới về lại Đà Nẵng ông cùng gia đình ở trong khu nhà tập thể hóa giá của Sở Xây Dựng trên địa bàn phường An Hải Đông, quận 3 (Sơn Trà). Gia đình ông cũng như bao gia đình công nhân viên chức ngày xưa sống đạm bạc và lương thiện. Thuở hàn vi ông hay chạy trước Lambretta màu trắng -vừa chạy vừa sửa- là tài sản lớn nhất của gia đinh lúc đó. Vợ ông cũng người hiền lương nói năng nhỏ nhẹ, 3 con trai cũng ngoan hiền học giỏi…Khi Việt Nam đổi mới ông Thông bung ra làm ăn vì được lãnh đạo gợi ý theo kiểu phát triển kinh tế nhiều thành phần, ông làm chân trong chân ngoài rồi mở công ty hợp danh là sân sau cho các vị lãnh đạo của Sở Xây Dựng và Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố. Trong những năm này ông làm ăn khấm khá và chuyển ra nhà mặt tiền trên đường Phan Chu Trinh bên quận 1 (Hải Châu). Năm 1997 khi Đà Nẵng tách tỉnh, trở thành đô thị trực thuộc Trung Ương cơ hội của ông cón nhiều hơn vì Đà Nẵng lúc đó là một đại công trường và chủ tịch thành phố Nguyễn Bá Thanh vừa là đồng chí vừa là cánh hẩu của ông.

Trong vụ án cầu Sông Hàn ông bị tuyên 40 tháng tù và là người duy nhất bị giam trong khi 4 đồng phạm thuộc cấp đều được hưởng án treo. Tội phạm kinh tế án treo cũng coi như được tha bổng nên việc ông bị án tù giam có lý do của nó: Ông đã không giữ luật im lặng mà khai ‘lung tung’ rằng đã hối lộ 4,4 tỷ cho Nguyễn Bá Thanh cho nên Tòa Án muốn sửa tính ba hoa của ông bằng món quà 3 cuốn lịch rưỡi cho ông vào tù mà chiêm nghiệm. Còn số tiền thất thoát nó chạy đi đằng nào thì Tòa “quăng cục lơ”…

So với Nguyễn Bá Thanh thì ông Phạm Minh Thông lớn hơn 20 tuổi thuộc hàng cha chú. Khi ông Thông đã là cán bộ của Sở Xây Dựng QNĐN thì Bá Thanh mới bắt đầu trưởng thành nhưng do được các chú lớn châm chước nên người thanh niên này lên ào ào và rẹt rẹt 30 giây. Năm 1996 khi Trung Ương chủ trương tách tỉnh thì Nguyễn Bá Thanh được chấm ghế chủ tịch thành phố Đà Nẵng.

Cầu sông Hàn (Đà Nẵng). Ảnh: Lê Hữu Thọ

Cầu Sông Hàn có tổng kinh phí là 105 tỷ thời giá 1999-2000, nhân dân thành phố đóng góp 27 tỷ phần còn lại được lấy từ ngân sách nhà nước. Phạm Minh Thông khai chi cho chủ tịch 4,4 tỷ chỉ là một phần sự thật. Dân xây dựng cơ bản khu vực miền Trung ai cũng biết Nguyễn Bá Thanh ăn dầy, giá thông thường là 10% trên tổng vốn đầu tư. Đại công trường Đà Nẵng với không biết bao nhiêu dự án là bấy nhiêu suối tiền chảy vào túi Bá Thanh. Nhưng chỉ riêng con số được ông Thông khai ra 4,4 tỷ cũng đã là ấn tượng rồi, quy ra vàng là cả 1000 lượng mới thấy số tiền lớn biết bao nhiêu.

Qua những món lại quả của các chủ thầu mới thấy cái sướng của các ông quan dân, tiền các ông bỏ túi còn cân đối hóa đơn chứng từ doanh nghiệp muốn làm gì kệ xác doanh nghiệp. Chuyện lấy thầu xong đã phải chung chi rồi mà lại muốn có lời tất nhiên ông Thông và đồng bọn phải rút ruột công trình chứ không thể nào khác. Đồng bọn của ông và những người liên quan đông như quân Nguyên chứ không phải loe que có 4 mạng nhưng vì phía trên ông Thanh còn có các vị trưởng thượng nằm trong Bộ Chính Trị nữa nên người ta không thể khui ra và kết cục là ông Thông phải bị diệt. Kết cục của ông Thông tuy hẩm hiu nhưng dễ dàng đoán được, ông chung hàng với những kẻ xấu ăn tiền của dân thì tất nhiên ông phải nhận quả báo thôi. Về phần ông Thanh hẳn nhiên số tiền quá lớn như vậy ông cũng không thể nuốt trôi một mình mà phải nhớ đến các chú các bác.

Nhắc lại chuyện người quen cũ của Nguyễn Bá Thanh chúng ta mới thấy cái tàn bạo của người cộng sản Nguyễn Bá Thanh, ăn tiền cũng là ông mà bỏ tù người ta cũng là ông luôn. Mà những người bị bỏ tù cũng là những đồng chí cùng hội cùng thuyền của ông chứ chẳng phải ai xa lạ. Cách đây mười mấy năm, Nguyễn Bá Thanh đã tàn bạo như vậy rồi cho nên gần đây ông xuống tay hạ độc thủ thiếu tướng công an Trần Văn Thanh có thể nói ông đã là một con yêu thành tinh. Bởi vậy nhiều lần ông tham vọng vận động để ra Trung Ương đều bị các vị bô lão cạch mặt từ chối vì thấy thằng phản phúc xảo quyệt khó có thể tin được.Bây giờ mấy vị kia đã tuổi cao sức yếu mà Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã bí đường binh với Nguyên Tấn Dũng nên cực chẳng đã mới phải chơi con bài Nguyễn Bá Thanh. Ván bài năm ăn năm thua này được xòe ra trong bối cảnh chế độ đang trên đường lật nhào nên vị bí thư Đà Nẵng mới có cơ hội được ra Ba Đình và tạo bước đệm nhảy lên chức ủy viên Bộ Chính Trị. Một kẻ tham nhũng và gian ác như vậy mà vẫn được nhiều người dân Việt Nam mến mộ coi là một làn gió mới thì thật là nực cười trong tai họa.

Nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn Bá Thanh ăn được nhưng làm được nên vẫn nhất định ủng hộ thì quả là Việt Nam mình với con rồng cháu tiên đã đến hồi mạt vận rồi. Ở đâu ra cái nguyên lý làm được thì tham nhũng được vậy không biết nữa? Nó cũng giống như chuyện một đàn dê sắp bị hổ ăn thịt nên đành cam chịu và an ủi nên chọn con hổ ít dữ hơn vậy. Cũng phải khen cho Nguyễn Bá Thanh có tài mị dân, từ kẻ tham nhũng gian hùng thượng thặng mà sử dụng đồng tiền ăn cướp tuyên truyền bài bản để cả nước bây giờ hân hoan bái phục như một người cha khai sinh ra “thành phố đáng sống nhất Việt Nam”. Kết cục thế nào người dân Việt Nam cũng sẽ chóng biết!

Đà Nẵng vào thời điểm được tách riêng vẫn còn ít dân bên cạnh địa hình đa dạng có đủ sông, núi, biển… nên rất dễ quy hoạch để trở thành một thành phố đẹp. Khu vực được chỉnh trang quy hoạch chủ yếu nằm trên mấy quân nội thành diện tích nhỏ, phần lớn diện tích đất của thành phố nằm ở huyện ngoại thành Hòa Vang. Chưa kể trước 1975 thành phố này cũng được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trực tiếp quản lý và đã được lực lượng quân sự Mỹ thiết lập cơ sở hạ tầng cơ bản nên đã định hình một cảnh quan tổng thể. Những gì thiên hạ đánh giá Nguyễn Bá Thanh đã làm được cho Đà Nẵng thật ra chỉ là bề nổi và hoàn toàn chưa xứng tầm với thành phố này. Đà Nãng có thật sự được gọi là đẹp? Thành phố đẹp có phải là một thành phố đáng sống không? Thành phố đáng sống phải là một thành phố như thế nào? Hẳn nhiên so với nhiều thành phố khác của Việt Nam thì Đà Nẵng có thể gọi là đẹp nhưng để đáng sống thì cần nhiều yếu tố khác nữa.
Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
Thành quả của Nguyễn Bá Thanh tựu chung lại chỉ là giải tỏa, quy hoạch xây dựng Đà Nẵng với nhà cao đường thoáng mà thôi còn các tiêu chí như “đào tạo tài năng trẻ, biến Đà Nẵng thành trung tâm của cả miền Trung…” mà báo chí tung hô chẳng cái nào ra hồn cả.
Nếu bán tài nguyên đất lấy tiền để phân lô bán nền tạo cớ cho dân đầu cơ đổ xô vào Đà Nẵng kiếm lời trong cơn sốt bong bóng bất động sản thật sự không có gì khó cả. Chưa kể việc được Trung ương giao ngân sách và trao quyền tự tung tự tác vô biên còn là cơ hôi để vị quan đầu thành phố tha hồ vinh thân phì gia.Những khu quy hoạch chính của Đà Nẵng trước đây đều rất ít dân ở nên việc giải tỏa không quá khó khăn. Trục đường chính như đường Đông Tây – Nguyễn Văn Linh từ sân bay vào thành phố nguyên là những ao rau muống. Đường ven biển Liên Chiểu – Thuận Phước là những bãi cát hoang sơ. Đường Sơn Trà – Điện Ngọc cũng tương tự như vậy và từ bãi biển Mỹ Khê trở đi về phía Nam là đất thuộc Bộ Quốc Phòng chưa có ai khai thác rộng mênh mông bát ngát. Chỉ lấn cấn chút xíu khúc Tu viện Sao Biển thuộc phường Bắc Mỹ An là của bên công giáo còn lại là sân bay Nước Mặn cũng rộng bao la chi địa. Khu Công Nghiệp Hòa Khánh cũng toàn là những trảng cát và nghĩa địa…

Mở đường đa phần thuận lợi như vậy mà khi gặp nhà của dân, chính quyền chỉ đền bù theo giá rẻ mạt mấy chục ngàn một mét như phủ dụ “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Khi phân lô bán lại giá toàn cả triệu mỗi mét mà mỗi hộ chỉ được mua lại một nền. Hộ nào đất rộng thì tiền được đền bù phần xây lại nhà mới, phần mua sắm tiêu pha coi như bay hết, chẳng còn miếng đất hương hỏa của ông bà. Ai nhanh nhảu thì lao vào cơn sốt đầu cơ cũng có đồng ra đồng vào, cả thành phố làm bất động sản. Hộ nào ít đất thì nhà nước cho mua chịu quy theo giá vàng, nhiều hộ bây giờ vẫn không trả nổi. Chính quyền thu có hộ mất cả ngàn mét mà chỉ được mua lại một nền 100 mét, số còn lại nhà nước bán ra thị trường làm ngân sách của thành phố để tiếp tục đổ vào đại công trường và vào túi quan tham. Dân Đà Nẵng vốn hiền lại được nhà nước dụ khị nên coi như góp phần xây dựng quê hương. Thêm nữa những xóm biển Đà Nẵng như Xuân Hà, Thuận Phước, Bạch Đằng đông bây giờ rất nhiều nhà có tiền Việt Kiều gửi về nên cũng cố công xây được căn nhà theo đúng quy chuẩn của thành phố. Cả một thành phố rùng rùng chuyển động, nháo nhào xây cất, nháo nhào đầu cơ. Dân tứ xứ nghe đồn thổi cũng đổ đến kiếm ăn mới ra diện mạo Đà Nẵng bây giờ và đấy là những gì bàn dân thiên hạ dễ thấy khi đến Đà Nẵng.

Nếu bạn leo lên đỉnh Sơn Trà mà cầm ống nhòm nhìn xuống và chiêm nghiệm một bức tranh tổng thể bạn sẽ thấy Đà Nẵng có vẻ là một thành phố đẹp trong số những tỉnh thành của Việt Nam nhưng bị bê tông hóa quá nhiều mà thiếu màu xanh. Không gian công cộng cũng rất ít nếu không nói là không có. Các khu dân cư chẳng có mấy vườn hoa, công viên hoặc khu vui chơi. Sân vận động cũng biến đâu mất hết. Trong thời buổi kinh tế khó khăn, bất động sản đóng băng bạn sẽ thấy rất nhiều khu quy hoạch bị bỏ hoang. Xen lẫn trong đám hoang tàn đó là những khu dân cư được hình thành như những đám da beo loang lổ. Khu Vũng Thùng của phường Thọ Quang còn rất nhiều nền để trống, khu An Đồn cũng vậy. Khu Hòa Cường, Đò Xu bên mé tượng đài 2 tháng 9, ngoài những con đường chính ra có vẻ sầm uất với những quán nhậu, karaoke thì bên trong những khu dân cư cũng quá trời đất trùm mền. Cả khu có tượng Phật phường Hòa Minh cũng vậy. Chưa kể khu quy hoạch mới Hòa Liên trên đường đi Bà Nà cũng toàn đô thị trên giấy… Chưa hết còn khu lấp đất lấn vịnh Đà Nẵng ngay khách sạn Thanh Bình trên đường Nguyễn Tất Thành cũng sẽ là một thành phố bánh vẽ nữa ?
Nếu bạn chịu khó ghé thăm mấy khu hào nhoáng như Phạm Văn Đồng hoặc Đảo Xanh và cắc cớ hỏi thăm chủ nhà mấy căn biệt thự bạn hẳn sẽ ngạc nhiên khi không nghe họ nói giọng Đà Nẵng mà toàn giọng Bắc hoặc các vùng miền khác. Đà Nẵng bây giờ là của dân tứ xứ chứ dân chính gốc lấy tiền đâu xây nhà lầu, biệt thự. Thu nhập một tháng có mấy triệu biết bao giờ mới có nhà mấy tỷ. Còn dân Đà Nẵng ở khu này, xin thưa toàn là chánh văn phòng Ủy Ban Nhân Dân, Phó chủ tịch tỉnh, Giám Đốc sở… Nhân dân Đà Nẵng chính hiệu xin đừng mơ nhé !
Đấy là bức tranh xây dựng, phân lô bán nền. Còn kinh tế, văn hóa, xã hội… thì sao ?
Nếu nhìn tiếp các khu công nghiệp của Đà Nẵng chỉ có Hòa Khánh là thấy được. Còn như khu An Đồn, Thọ Quang, Hòa Cầm… diện tích chẳng đáng bao nhiêu.
Nông nghiệp thì các quận của Đà Nẵng đã bị phân lô bán nền hết quỹ đất duy chỉ còn huyện Hòa Vang là còn nhưng nông dân lâu nay canh tác lúa cũng chỉ đủ ăn.
Ngư nghiệp thì gần như phá sản. Đà Nẵng là xứ biển mà nay muốn ăn cá toàn do tàu của Quảng Ngãi cập bờ. Các ngư phủ ngày xưa bây giờ đã già trong khi con em không ai muốn theo nghề của cha anh. Phần vì không có vốn đóng tàu lớn ra khơi bên cạnh giá dầu càng ngày càng mắc trong khi tôm cá gần bờ cũng ít hơn xưa. Trong thành phố chẳng có mấy việc làm mà nghề biển lại vất vả, để dành tiền cá độ bóng đá và mua lô đề dễ có tiền hơn ?
Nguyễn Bá Thanh chủ trương chuyển hướng kinh tế du lịch và dịch vụ là chủ yếu nhưng chỉ là hô khẩu hiệu cho sướng miệng. Du lịch thì chẳng đầu tư gì mấy ngoài vài ngôi chùa với tượng Phật to tổ bố. Thành kính tại tâm, thờ Phật đâu cứ phải có tượng to mà hay. Có khu du lịch Bà Nà thì giao cho đám Phạm Nhật Vượng rửa tiền. Chính quyền bênh dân đâu không thấy lại câu kết với maphia từ Ukraina chèn ép lấy đất của dân Hòa Ninh nhưng chỉ đền bù mỗi mét bằng một quả trứng gà. Nguyễn Bá Thanh là dân Hòa Vang mà ức hiếp đồng hương Hòa Vang thật tệ hết chỗ nói.Về kinh tế dịch vụ thì công viên nước trên đường 2 tháng 9 lỗ chỏng gọng dẹp tiệm hồi nào không hay. Mấy công trình khách sạn ven biển Non Nước chạy dọc theo biển giáp tới Điện Dương, Điện Ngọc của Quảng Nam cứ để trùm mền chiếm đất. Khách sạn đâu không thấy chỉ thấy rừng phòng hộ ven biển bị chặt hết cho dân tình hứng mặt đón bão.

Còn Khu du lịch sinh thái Cồn Dầu bị Nguyễn Bá Thanh thẳng tay đàn áp khiến nhiều giáo dân phải trốn qua tị nạn tận Thái Lan. Tội của Nguyễn Bá Thanh vẫn còn, cái nợ đó sẽ có ngày đáo hạn. Khách du lịch ngoại quốc ghé đến Đà nẵng chỉ có mỗi chỗ để đi là Cổ Viện Chàm. Xe từ Huế vào là thẳng tiến Hội An luôn. Khách từ sân bay bước ra cũng vậy, 10 xe đón khách thì cả 10 xe chạy vào Quảng Nam châm chước lắm lâu lâu mới có một xe ghé ăn cơm trưa Đà Nẵng !

Về văn hóa, thể thao thì chỉ có đội bóng đá Đà Nẵng hơi xôm xôm chút xíu nhưng kinh phí nuôi đội cũng là tiền thuế của dân bị lãnh đạo thành phố vung tay chi vô tội vạ. Lê Huỳnh Đức là cầu thủ ăn lương mà được chính quyền thành phố đặc cách cấp cho nhà tiền tỷ đường Phan Chu Trinh. Trong khi thư viện thành phố nằm kế bên Hôi Đồng Nhân Dân và văn phòng của Nguyễn Bá Thanh chẳng có mấy cuốn sách. Cử một người vào đếm tay số đầu sách của thư viện này chắc khoảng 3 tiếng là hết.

Người cộng sản hay chê văn hóa của chế độ Việt Nam Cộng Hòa là đồi trụy nhưng trước 1975 ngoài thư viện chính trên đường Bạch Đằng, khu vực quận Nhì là Thanh Khê bây giờ cũng có thư viện trên đường Điện Biên Phủ. Bên kia sông là quận 3 cũng có một cái trên đường Ngô Quyền. Chưa kể ngay trung tâm thành phố trên đường Yên Bái còn có Phòng Thông Tin cho nhân dân vào đọc báo nữa. Còn sân vận động cũng mỗi nơi mỗi cái. Từ phường Nại Hiên cho đến An Hài rồi Hòa Cường, Xuân Hà… chỗ nào thanh thiếu niên cũng có chốn để vui chơi.

Bây giờ dân số Đà Nẵng đã đông lên rất nhiều nhưng tất cả mọi thứ như thế đều biến đi sạch sẽ như có ma làm. Như vậy chắc do ông Thanh nghĩ là người Đà Nẵng chỉ cần có lô đất xây nhà là đủ chứ không cần mở mang trí tuệ nữa. Bù lại Đà Nẵng bây giờ quán nhậu và nhà nghỉ mọc lên như nấm. Tham quan mấy khu dân cư mới như Vũng Thùng Nại Hiên thấy thanh niên thất nghiệp ngồi binh sập xám suốt ngày, người không binh thì ra ngồi cà phê. Ngồi đến chiều thì nhảy qua quán nhậu, tối nào cũng nâng lên hạ xuống dô dô 100% thành tệ nạ xã hội luôn. Thêm mấy kèo trên kèo dưới theo các giải bóng đá La Liga và Ngoại Hạng Anh với số đề số đóm… kể như tương lai của thanh niên Đà Nẵng là mờ mịt.

Dân mình đã hiền rồi mà trình độ hiểu biết chưa cao nên không ai dám lên tiếng. Có mấy bác lão thành cách mạng với hưu trí thì được Nguyễn Bá Thanh chỉ đạo cho lính lác o bế lương hưu đầy đủ với quà Tết cuối năm khỏi ọ ẹ. Kẻ gian hùng còn biết cách mị dân bằng lối hành xử giống quan dân phụ mẫu ngày xưa. Dân đến chầu chực xin cứu xét cứ lấy bút phê vào đơn ngay tại chỗ bất kể quy trình, pháp lệnh hành chính của nhà nước ra sao. Giải quyết cho một vài dân oan ngay tại nhà thấy có vẻ ấn tượng nhưng thật ra không thể bằng đôn đốc cấp dưới chí công vô tư thừa hành theo đúng tinh thần thượng tôn luật pháp. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa chẳng mấy chốc danh tiếng Nguyễn Bá Thanh nổi như cồn trong khi tính toán cho ngay, đất đai cấp cho dân oan chẳng phải là tài sản riêng của ông. Mấy đồng hỗ trợ cho dân xe thồ và xe ôm mỗi dịp tết cũng chỉ là mấy xu lẻ so với số tiền mà bè lũ của ông đã ăn cướp được.
Đà Nẵng nói có kinh tế du lịch và dịch vụ mà bây giờ kinh tế đình đốn ăn còn không đủ thì làm sao du khách ghé đến Đà Nẵng tham quan. Nhà hàng kháchh sạn không có khách lấy đâu nguồn thu, cả thành phố không công ăn việc làm sẽ đói đồng đều rồi đây.
Kẻ độc đoán chuyên quyền còn tự cho mình là vua một cõi dám mạnh tay vi phạm nhân quyền dẹp những người ăn xin, bán hàng rong trong khi chưa tạo sinh kế cho họ. Rồi dám ra chỉ thị vi hiến cấm quyền tự do cư trú của công dân trong nội thành Đà Nẵng. Rồi cho dân ăn bánh vẽ “bầu cử tự do cho chức danh chủ tịch thành phố” nữa… Thành phố nhỏ như Đà Nẵng mà ông Thanh chỉ làm được có thế mong gì xoay chuyển được cả một quốc gia.
Và bây giờ kẻ ấy là Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương đang nghấp nghé chức ủy viên Bộ Chính Trị, trở thành 1 trong 14 ông vua tập thể. Ông Trương Vĩnh Trọng hẳn phải cười cay đắng khi hay tin, vì khi ông giữ chức này mấy năm trước ông đã cố gắng tỏ ra thanh liêm và đã ghét cay ghét đắng kẻ gian hùng, xảo trá, tham nhũng Nguyễn Bá Thanh. Chính ông đã nhiều lần ngăn cản không cho Nguyên Bá Thanh ra Trung Ương. Vậy mà bây giờ khi ông đã về vườn thì chính cái tên gian hùng, xảo trá, tham nhũng ấy lại ngồi vào cái chức ông để lại để phụ tá cho Tổng Bí Thư làm trong sạch bộ máy của Đảng, bài trừ tham những…Rõ ràng Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đến hồi cáo chung và đang sắp chết đến nơi mà vẫn đong đưa trên dây. Ông Tổng Trọng muốn dùng một kẻ vừa gian hùng vừa tham nhũng để trị một tên ít gian hùng, nhưng tham nhũng nhiều.

Chúng ta còn nhớ thời Đà Nẵng tách tỉnh thì Nguyến Bá Thanh đã nổi như cồn mà Nguyễn Xuân Phúc của Quảng Nam vấn chẳng mấy ai hay. Vậy mà Nguyễn Tấn Dũng đã chọn ông Phúc làm đàn em ruột chứ không phải Nguyễn Bá Thanh thâm độc lừng lẫy giang hồ. Mối hận của Bá Thanh còn nguyên đó với Nguyễn Tấn Dũng nên bây giờ thấy Đảng đang bế tắc kẻ gian hùng quyết định chớp thời cơ. Chỉ cám cảnh cho ông Trần Văn Minh phải từ bỏ chức Phó ban tổ chức Trung Ương để quay trở lại dọn dẹp cho Nguyễn Bá Thanh trong thời buổi suy thoái. Tài nguyên của Đà Nẵng đã bị khai thác hết rồi mà công ăn việc làm của dân bị tắc tị thì thu thuế sao được? Lấy đâu cho đủ ngân sách thành phố trong tương lai.

Bàn cờ chính trị Việt Nam còn đầy sự ly kỳ và sinh mệnh của dân tộc Việt Nam vẫn như chuông nặng treo mành chỉ. Với bản chất của một kẻ gian hùng chúng ta đừng mong một sớm một chiều họ sẽ phút chốc hóa thành thiên nga thánh thiện để đem tự do dân chủ cho nhân dân. Tất cả chỉ là sự đấu đá trong nội bộ của họ nhằm duy trì vị thế quyền lực cũng như tình trạng độc Đảng chuyên chế.Tình hình trong những ngày sắp tới sẽ rất khó lường với sự câu kết của nhóm cộng sản miền Trung khu Năm khắc chế lên Trung Ương. Trong quá khứ từng có những nhóm cộng sản miền Trung với Võ Chí Công, Hồ Nghinh, Hoàng Minh Thắng… rất mạnh do kiên cường trong chiến tranh nên được sự ưu ái của Lê Duẩn, nhưng vì cục bộ địa phương nên chẳng làm được cơm cháo gì cho đất nước. Hôm nay có một nhóm cộng sản miền Trung trẻ khác đang gắn kết với nhau vì một mưu đồ nào đó. Bên cạnh Nguyễn Bá Thanh gian hùng là một Thân Đức Nam – kẻ buôn vua mới nổi. Có lẽ sự va chạm với Nguyễn Tấn Dũng sẽ dẫn tới đảo chính không chừng vì Ba Dũng không dễ gì bị triệt hai êm thấm.

Chúng ta mong một sự biến động có lợi cho dân tộc nhưng cũng cảnh giác trước nguy cơ nồi da xáo thịt xâm phạm đến muôn dân.

Thông tin lề trái, ề dân hãy luôn tỉnh táo và đề cao cảnh giác !

Cười chút chơi – 8 GIAI ĐOẠN TRONG CUỘC ĐỜI CỦA MỘT ÔNG CHỒNG !

1.Giai đoạn 1: năm 20 – 30 tuổi


Chồng em chẳng thích ăn quà
Ngày nào cũng chỉ về nhà ăn cơm
Cơm nhà rất dẻo rất thơm
Chồng em chỉ thích ăn cơm ở nhà …
2.Giai đoạn 2: năm 30 – 40 tuổi

Chồng em đã biết ăn quà,
Bây giờ thỉnh thoảng về nhà ăn cơm.
Cơm nhà vẫn dẻo vẫn thơm,
Chồng em giờ biết ăn cơm lẫn quà….
3.Giai đoạn 3: năm 40 – 50 tuổi
 
Chồng em chỉ thích ăn quà,
Bây giờ anh chẳng về nhà ăn cơm.
Cơm nhà vẫn dẻo vẫn thơm,
Chồng em giờ đã bỏ cơm ăn quà.
4.Giai đoạn 4: năm 50- 60 tuổi
 
Chồng em chẳng thích ăn quà,
Mà giờ cũng chẳng về nhà ăn cơm.
Cơm nhà hết dẻo hết thơm,
Chồng em giờ đã bỏ cơm lẫn quà
.
5.Giai đoạn 5: năm 60 – 70 tuổi

Chồng em bỏ cả cơm, quà;
Chỉ ăn được phở, cháo gà mà thôi.
Chê quà, cơm dẻo hôi hôi;
Phở bà hàng xóm kề môi húp liền.
6.Giai đoạn 6: Năm 70 – 80 tuổi
 
Chồng em tóc bạc như tiên,
Phở ăn chẳng được, có tiền như không.
Ngồi thèm nhìn ngó các ông,
Trẻ trung húp phở mà lòng xôn xao.
7.Giai đoạn 7: năm 80 – 90 tuổi
 
Chồng em da hết hồng hào,
Quà, cơm, phở, cháo gà sao chẳng thèm.
Không còn có chút tòm tem,
Ngó qua liếc lại nhìn xem đất trời
.
8.Giai đoạn 8: năm 90 – 100 tuổi
 
Chồng em chán sống trên đời,
Muốn đi chầu Chúa, Phật, Trời, Diêm Vương.

Nguyễn Bá Thanh là ai ?

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

aaabaNguyễn Bá Thanh (sinh 8 tháng 4 năm 1953) là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng, Ủy viên Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Việt Nam. Ngày 28/12/2012, Bộ Chính trị đã ban hành các quyết định về việc thành lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương; các quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của hai ban này. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng ban hành Quyết định 655 phân công ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng giữ chức Trưởng ban Nội chính T.Ư và Quyết định số 656 phân công Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ giữ chức Trưởng ban Kinh tế T.Ư.

Tiểu sử

Nguyễn Bá Thanh quê ở xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Học vị: Tiến sĩ. Chức vụ hiện tại: Trưởng ban Nội chính Trung ương, trước đó là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Ông tốt nghiệp trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội

Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 13 tháng 2 năm 1980.

Ông từng là Chủ nhiệm HTX Hòa Nhơn, Phó Bí thư Huyện ủy Hòa Vang, Giám đốc Nông trường Chè Quyết Thắng, sau đó là Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng.

Năm 1996 ông được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng đầu tiên sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, khi đó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng là ông Trương Quang Được. Năm 2003, ông Nguyễn Bá Thanh thay ông Phan Diễn giữ chức vụ Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá IX, XI và XII.[1]

Gia đình một vợ và 2 con. Con trai là Nguyễn Bá Cảnh (hiện là Phó Bí thư Thành đoàn kiêm Chủ tịch hội sinh viên thành phố Đà Nẵng) và con gái là Nguyễn Thị Hoài An.

Hoạt động điều hành

Trên cương vị Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng ông đã có chủ trương thực hiện một số chính sách nổi bật về các công tác:

  • Quy hoạch, xây dựng thành phố;
  • Đền bù giải tỏa;
  • Sử dụng và đào tạo thế hệ trẻ, nhân tài;
  • Xây dựng thành phố Đà Nẵng thành một trung tâm khu vực miền Trung về các mặt, thành phố “5 không”.

Khiếu nại và tố cáo

Trong cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam khoá 12, Nguyễn Bá Thanh bị xem xét tư cách ứng cử viên vì có những tố cáo của người dân về nhiều vi phạm trong quản lý đất đai, đô thị của ông[2]. Tuy nhiên, theo kết luận của các cơ quan có thẩm quyền thì ông không vi phạm các quy định về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội[3] và 8 nội dung trong các đơn thư tố cáo ông đều không đúng sự thật[4] và ông trúng cử.

Vụ án tướng Trần Văn Thanh

Năm 2007, công an thành phố Đà Nẵng đã khởi tố các ông Đinh Công Sắt, Nguyễn Phi Duy Linh, tướng Trần Văn Thanh (Chánh Thanh tra Bộ Công An), và trung tá Dương Ngọc Tiến (trưởng đại diện Báo Công An thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội)[5] với tội danh “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân“.[6] Tuy nhiên, “cán bộ lãnh đạo của Đà Nẵng” bị ảnh hưởng uy tín, bị tố cáo sai sự thật, chính xác là ai thì không được nhắc đến.[5][7]

Cho đến khi vụ án được đưa ra xử phúc thẩm, nhân vật bí ẩn “có dấu hiệu bị xâm hại uy tín” mới được hé mở chính là Nguyễn Bá Thanh.[7] Trong phiên tòa phúc thẩm, luật sư của ông Dương Tiến, bà Nguyễn Thị Dương Hà, đại diện văn phòng luật sư Cù Huy Hà Vũ xác định người bị Đinh Công Sắt tố cáo là Nguyễn Bá Thanh, và những tài liệu “truyền đơn” mà tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng kết luận là ông Dương Tiến đã đưa cho Đinh Công Sắt đem đi rãi là Công văn số 73/KSĐT-KT (ngày 31/10/2000) và Công văn số 77/KSĐT/KT (ngày 01/11/2000) của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng gửi Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao và ông Phan Diễn (lúc đó là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng).[8]

Những cáo buộc về nhận hối lộ 4,4 tỉ đồng

Theo RFA thì cả hai công văn số 73 và 77 nói trên đều đề cập đến việc ông Nguyễn Bá Thanh đã nhận hối lộ của Phạm Minh Thông 4,4 tỉ đồng trong các công trình xây dựng Cầu Sông Hàn và đường Bắc Nam ở Đà Nẵng.[7] Ngoài ra, Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ (ngày 26/10/2007) và Báo cáo số 38/BC-VPBCĐ (ngày 07/4/2008) của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Thủ tướng Chính phủBan Bí thư Trung ương Đảng, xác nhận các đơn tố cáo về hành vi tham nhũng của ông Nguyễn Bá Thanh của một số công dân thành phố Đà Nẵng (trong đó có đơn tố cáo của Đinh Công Sắt) là có cơ sở. Và Kết luận thanh tra số 524/KLTT-BCA (V24) ngày 06/6/2008 của Bộ Công an xác định có đủ căn cứ để khởi tố vụ án và bị can, nhưng Công an thành phố Đà Nẵng không khởi tố ông Nguyễn Bá Thanh để điều tra.[7]

Luật sư Dương Hà đã đọc tại tòa rằng Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rõ: “Thông khai có đưa cho ông Nguyễn Bá Thanh (Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng) nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích lại cho ông 5% trên số vốn do công trình xây dựng bằng vốn ngân sách và 150.000đ/m² trên số mét vuông đất do Ủy ban nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Nam… Chiều ngày 31/10/2000 sau khi phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, thì có 5/7 thành viên Ủy ban Kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội: Nhận hối lộ.” Theo lời của chồng của bà Dương Hà, ông Cù Huy Hà Vũ thì micro của luật sư đã bị tòa án tắt đi khi bà luật sư nhắc đến hành vi tham nhũng của ông Nguyễn Bá Thanh.[9]

Được biết trong vụ án Phạm Minh Thông, Thông khai đã dùng tiền “tham ô” được để “đi quà biếu một số cá nhân và tập thể”, và đi “chúc tết” một số người nào đó, nhưng đó là những ai thì không bao giờ được làm sáng tỏ.[10][11] Cuối cùng chỉ mình Phạm Minh Thông bị tù, còn đối tượng nhận tiền và đòi hối lộ không được xác định.[12][13]

Những cáo buộc về trả thù và giật dây phiên tòa

Trước đó, ông Cù Huy Hà Vũ cũng đã cho rằng phiên toà xử tướng công an Trần Văn Thanh “mang hàm ý đe dọa người dân, đe dọa những người chống tham nhũng.”[14] Theo ông Vũ, vụ án này “được tạo nên nhằm tiêu diệt tướng Thanh” vì ông Trần Văn Thanh “là viên tướng chống tham nhũng”, dẫn chứng là Thiếu tướng Trần Văn Thanh đã từng “chỉ đạo điều tra vụ án tham nhũng liên quan trực tiếp đến ông Nguyễn Bá Thanh lúc đó là chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng và hiện nay là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.” Ông Vũ cho rằng đây “là hành vi trả thù đối với việc chống tham nhũng.”[15]

Ông Đỗ Xuân Hiền, nguyên Trưởng ban Kinh tế Đà Nẵng, huyện ủy thường vụ Đà Nẵng, một người có liên quan trong vụ án cho biết: ” Ông Trần Mẫn (chánh án xử vụ Trần Văn Thanh) là em ruột bà Trần Thị Thủy. Bà Trần Thị Thủy là vợ ông Nguyễn Văn Chi, ông Nguyễn Văn Chi là uỷ viên Bộ chính trị, kiêm Trưởng ban Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng là bạn thân của ông Nguyễn Bá Thanh”.[16] Ông Hiền cũng nói rằng “Nguyễn Bá Thanh lấy đất của dân, mỗi mét vuông đất đền bù cho dân có 19.500 đ/m² trong khi bản thân ông Nguyễn Bá Thanh lấy của chủ nhà thầu đất là 150.000 đ/m², thử hỏi là gấp bao nhiêu lần. Như vậy có phải là tham nhũng, hối lộ hay không?”[17]

Nhận xét và đánh giá

Theo phóng viên Ian Timberlake của hãng thông tấn AFP, ông Thanh tuy bị xem là một “nhà độc tài” nhưng lại có tài trong một đất nước nghẹt thở vì tệ nạn quan liêu: ông có thể làm cho mọi thứ thực hiện được.[18][19]. Dưới sự lãnh đạo của ông, Đà Nẵng được xếp loại thành phố thông thoáng và thuận lợi cho kinh doanh hàng đầu của Việt Nam.

Đào Tuấn: Nguyễn Bá Thanh – Nói và Làm hay Nhảy vào Lửa

Đào Tuấn

“Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh”

Anh em báo chí gọi ông là “hot boy”. Bài này sửa thành “Hot man” cho đỡ phạm.

“Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh”, “Góc nhìn Nguyễn Bá Thanh”, “sự kiện Nguyễn Bá Thanh”… Có lẽ không còn thiếu từ ngữ nào, thể hiện sự “khác biệt” mà báo chí chưa dùng để nói về vị Bí thư của Đà Nẵng.

Nếu phải chọn lựa một từ ngữ để nói về Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh, hẳn nhiều người sẽ chọn hai từ “Quyết đoán”. Quyết đoán một cách…quyết đoán. Và quyết đoán một cách thẳng thắn.

Tháng 5-2012, trước nghị trường, ông Thanh có câu nói để đời về vụ Vinashin “Cứ như chuyện đùa”.

“Cử tri kêu nhiều, chỉ riêng vụ Vinalines lỗ, làm chìm dưới biển không biết bao nhiêu tiền. …Vinalines thua lỗ, Chủ tịch bỏ trốn. Nói ra cứ như chuyện đùa, cử tri bức xúc hỏi mà không biết trả lời thế nào. Sự việc trên cho thấy cách điều hành quá lỏng lẻo. Chúng ta quản lý con người, tập đoàn kiểu gì? Trước khi có kết luận, thanh tra phải đi lại 5 đến 10 lượt, yếu kém như thế nào thì lãnh đạo thừa biết rồi nhưng bất chấp đề bạt, phản cảm ghê gớm. Hơn nữa, khi phát hiện có dấu hiệu sai phạm, mà không giám sát, để bỏ chạy, dân họ không tin…”.

Hình như không có nhiều quan chức địa phương “dám” bàn đến những câu chuyện “ngoài Hà Nội”. Mà lại bàn bằng những từ ngữ xe ôm, sướng lỗ nhĩ người này nhưng lại như tạc đạn với người kia.

Ông Thanh được coi là người “NVL”. Ở Đà Nẵng thì hiểu rằng “Nói và làm” cũng được.

Bây giờ, khi ông “ra Hà Nội”, có lẽ, “NVL” còn có thêm một ý nghĩa nữa. Hẵng cứ để xem ông nhảy vào lửa thế nào, mà trước hết là các vụ bê bối liên quan đến mấy ông họ Vina mà ông Thanh từng phê phán.
Đoàn ĐBQH Đà Nẵng không lớn, không nhỏ, thường ngồi chung với Hải Phòng và Thanh Hóa ở Chu Văn An trong các phiên thảo luận tổ ở Quốc hội. Nhưng có lẽ, đây là một trong những “địa chỉ quan tâm” của báo chí. Rất đơn giản, vì ở đó có Nguyễn Bá Thanh, có Đinh La Thăng. Đám phóng viên nghị trường thường hỏi nhau: Hôm nay “cụ Thanh” có nói gì không? Và câu chuyện không “sứt” phát biểu nào của vị Bí thư xứ Quảng trên báo được đương nhiên coi như “tất lẽ dĩ ngẫu” của thú vui nghe chém gió. Tất nhiên đừng có ảo tưởng về một vị trưởng Ban cởi mở với báo chí, bởi trước nay, dù chém thế nào thì chém, cấm có ai cậy ở ông được một bài phỏng vấn.

Nhớ trong phiên thảo luận tình hình KT-XH hôm 31-10, ông Thanh là vị ĐBQH bấm nút phát biểu gần như cuối cùng, để nói về vấn đề nóng nhất tại nghị trường trong suốt một ngày rưỡi của phiên thảo luận là nợ xấu. Và đó là phát biểu không thể thẳng thắn hơn: “Đất nước đang đổi mới, phát triển, có nhiều thành tựu, trong đó cũng có công rất lớn của ngành ngân hàng, nhưng nếu mai này có sự đổ vỡ nền kinh tế, thì cũng bắt đầu chính từ hệ thống ngân hàng…”Một đất nước còn nghèo mà không dưới 100 tỷ USD chỉ trông vào nhà, đất, kể cả vàng”.

Hồi đầu năm 2012, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh gây sự chú ý đặc biệt của dư luận khi có buổi nói chuyện, truyền hình trực tiếp-với hơn 4000 cán bộ địa phương công khai toàn bộ nội tình của Thành phố, kể cả vấn đề cán bộ trước nay vẫn được coi là “nhạy cảm”. Thậm chí, ông bình luận từng vị trí. Thậm chí, ông kêu gọi “mỗi chức danh quy hoạch từ hai đến ba người” kể cả cho chức Bí thư Thành ủy và Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng: “Ít nhất là phải hai, và không làm lấy được. Công khai hóa quy hoạch cho toàn đảng, toàn quân, toàn dân biết…”Mấy ông thi đua với nhau, tới hồi ông nào tốt nhất, mình chọn, thế thôi, phải có cạnh tranh”.

Dường như với ông, không có gì là tế nhị, là nhạy cảm cả.
Báo chí vẫn gọi ông là “hot man”. Đơn giản là tất cả những điều ông nói, tất cả những việc ông làm đều mang một cách thức “thẳng thắn và quyết đoán”- nhãn hiệu Nguyễn Bá Thanh.

Rất nhiều người lo lắng cho “khí chất người xứ Quảng”, cho “cá tính Nguyễn Bá Thanh” khi ông “ra Hà Nội”. Nhưng có lẽ, chỉ cần ông vẫn giữ lối nói, cách làm như “thủa Đà Nẵng”, hẳn nhiên ông sẽ nhận được sự tin tưởng không chỉ của riêng người xứ Quảng, không chỉ của riêng báo chí.

Xã tắc và ‘lửa’ Nguyễn Bá Thanh?

Bùi Văn Bồng

Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam phân công ông Nguyễn Bá Thanh giữ chức Trưởng ban Nội chính, cơ quan được thành lập lại và giao các nhiệm vụ mới.

Thành lập lần đầu ngày 5/1/1966 (với tên gọi ban đầu là Ban Pháp chế Trung ương), 40 năm qua, Ban Nội chính đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của đất nước như kiên quyết đưa vụ Năm Cam và một số vụ tham nhũng lớn ra ánh sáng pháp luật.

Vụ án Năm Cam (chuyên án Z5.01) là vụ án lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều cán bộ cao cấp ở Trung ương và ngành công an, cùng một số bộ, ban, ngành, nhưng Ban Nội chính Trung ương quyết tâm cao, kiên quyết, vẫn làm được (phát hiện 1995, phá án 5-2001, xét xử 2-2003).

Cách đây hơn 20 năm, Ban Nội chính lại được giao chức năng, nhiệm vụ mới theo Quyết định số 17-QĐ/TW ngày 23-12-1991, do ông Đào Duy Tùng ký.

Theo quyết định này, Ban Nội chính là cơ quan tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực xây dựng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; nắm tình hình bảo vệ pháp luật, chống và phòng ngừa tội phạm.

“Đặc biệt, đối với một số vụ án quan trọng có ảnh hưởng chính trị rộng hoặc có liên quan đến cán bộ cao cấp mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần cho phương hướng chỉ đạo thì Ban Nội chính Trung ương có trách nhiệm theo dõi, chuẩn bị ý kiến đề xuất; đồng thời giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở các ngành: kiểm sát, toà án, tư pháp, thanh tra, hải quan, trọng tài kinh tế nhà nước, Hội luật gia…”

“…Các tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương cần có Ban Nội chính để giúp cấp uỷ theo dõi hoạt động của các ngành nội chính, phối hợp các ngành này trong việc nghiên cứu đề xuất những vấn đề về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có liên quan chung và giúp nắm các cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý,” theo văn bản định nghĩa chức năng của Ban khi đó.

Những năm đầu trong công cuộc Đổi Mới đất nước, Ban này đã có nhiều đóng góp to lớn: tham mưu, nghiên cứu, trình Bộ Chính trị và Ban Bí thư ban hành các Nghị quyết, chỉ thị quan trọng, như Nghị quyết 08-2/1/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp”; Chỉ thị 09-6/3/2002 “Về một số việc cần thực hiện trong giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay”; Nghị quyết 49-2/6/2005 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.

Chức năng, nhiệm vụ

“Ban Nội chính đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của đất nước như kiên quyết đưa vụ Năm Cam và một số vụ tham nhũng lớn ra ánh sáng “

Ngày 15-7-2002, Bộ Chính trị lại ra Quyết định số 40-QĐ/TW quy định lại chức năng, nhiệm vụ của Ban Nội chính Trung ương, do ông Phan Diễn ký. Theo quyết định này, Ban bị thu hẹp bớt một số nhiệm vụ và một số quyền, nhưng nghiêng về tham mưu, phối hợp, giúp việc, đề xuất ý kiến, hướng dẫn những chủ trương chính sách rất chung chung, nhất là các quyền về pháp chế không còn như Quyết định số 17-QĐ/TW ngày 23-12-1991, do ông Đào Duy Tùng ký.

Từ đầu năm 2002, Ban Nội chính Trung ương đã ký với Thụy Điển “Dự án Nghiên cứu đấu tranh chống tham nhũng”. Vào thời điểm tham nhũng bắt đầu mọc lên như nấm sau mưa, mọi người đang đặt nhiều kỳ vọng vào “Dự án Nghiên cứu đấu tranh chống tham nhũng” đã ký kết giữa Việt Nam – Thụy Điển thì xảy ra thực trạng ngay từ Đại hội IX và X người ta đã buông lơi cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng.

Đến ngày 11-4-2007, Ban Nội chính được hợp nhất cùng Ban Kinh tế, Ban tài chính-quản trị thành Văn phòng Trung ương Đảng. Như vậy, từ một Ban có nhiều quyền lực và nhiệm vụ trọng yếu thể hiện vai trò khá quan trọng ở Trung ương Đảng, Ban Nội chính coi như bị giải thể chỉ bằng sự “gộp lại”, trở thành bộ phận thuộc Văn phòng Trung ương Đảng.

Dư luận (đây chỉ là dư luận – để tham khảo) cho rằng khi đó (tháng 4-2007) ông Trương Tấn Sang làm Thường trực Ban bí thư, phải chăng có ý định chuyển quyền từ Đảng sang Chính phủ.

Không biết đằng sau đó có hướng ông Sang sẽ làm Thủ tướng chăng, vì đến 26-7, ông Nguyễn Tấn Dũng mới nhậm chức Thủ tướng do Quốc hội nhất trí?

Chuyện đó thuộc “bí mật cung đình”, không ai muốn lạm bàn nhiều.

Đảng bị mờ nhạt

Ban Nội chính Trung ương ‘tham mưu cho Đảng về các vụ tố tụng’

Theo quy định thì Văn phòng Trung ương sẽ có 20 đơn vị trực thuộc trong đó có vụ Pháp luật và vụ Nội chính.

Hơn 10 ngày sau, ngày 24/01/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 13/2007/CT-TTg quy định về thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và Quy chế hoạt động của Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (sau đây gọi là Văn phòng Ban Chỉ đạo).

Văn phòng Ban Chỉ đạo là cơ quan hoạt động chuyên trách, giúp việc của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (sau đây gọi tắt là Ban Chỉ đạo) và Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (sau đây gọi tắt là Trưởng Ban Chỉ đạo); có chức năng tham mưu, tổ chức phục vụ các hoạt động của Ban Chỉ đạo và Trưởng Ban Chỉ đạo.

Theo Quyết định số 79-QĐ/TƯ ngày 21/8/2007 của Bộ Chính trị do ông Trương Tấn Sang ký về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Văn phòng Trung ương Đảng, có 14 Vụ, 5 Cục, trong đó có Vụ Nội chính, Vụ Pháp luật và cải cách tư pháp – Vụ Quản lí đầu tư và xây dựng.

Nhưng đến ngày 10-4-2012, sau Hội nghị Trung ương 4 được hơn ba tháng, Bộ Chính trị lại ban hành Quyết định số 80-QĐ/ về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Văn phòng Trung ương Đảng.

“Sau gần 5 năm bị sáp nhập vào Văn phòng Chính phủ, cơ quan nội chính của đảng lại có cơ hội để khẳng định vị trí độc lập tương đối của mình”

Không hiểu lý do gì mà cùng là quyết định của Bộ Chính trị, nhưng quyết định này do ông Lê Hồng Anh ký lại trùng số với QĐ 80-QĐ/TƯ do ông Trương Tấn Sang ký ngày 28-8-2007 về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của ban Tuyên giáo Trung ương.

Quyết định 80 –QĐ/TW quy định lại nhiệm vụ Văn phòng Trung ương Đảng biên chế tổ chức còn 11 Vụ, bỏ bớt đi hai Vụ Quản lý đầu tư – xây dựng và Vụ Thư từ – tiếp dân. Hai nhiệm vụ này của Vụ Nội chính còn gắn với kinh tế-xã hội bị lược bỏ luôn.

Tại Hội nghị Trung ương 5 (bế mạc ngày 15 tháng 5 năm 2012) đã quyết định lập lại Ban Nội chính Trung ương có chức năng một ban Đảng và là cơ quan thường trực phòng chống tham nhũng trên cơ sở Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng.

Ban Nội chính Trung ương đã trải qua nhiều bước thăng trầm, biên chế đi, tổ chức lại, sau gần 5 năm bị sáp nhập vào Văn phòng Chính phủ, cơ quan nội chính của đảng lại có cơ hội để khẳng định vị trí độc lập tương đối của mình.

Hơn lúc nào hết, đảng cần đến Ban Nội chính, không phải chỉ với tư cách tham mưu như trước đây, mà cùng với Ban Chỉ đạo Phòng chống Tham nhũng, đây là những vũ khí sắc bén còn lại cho cơ hội để đẩy mạnh nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI).

Tái lập rồi ra sao?

Ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn chỉ đạo các hướng đi chủ chốt như “cứu” thị trường bất động sản.

Theo ông Trần Đại Hưng, nguyên Phó trưởng Ban thường trực Ban Nội chính Trung ương: “Qua kinh nghiệm công tác cho thấy hoạt động tố tụng thường rất phức tạp, quá trình điều tra, truy tố, xét xử thuộc chức năng của các cơ quan khác nhau tùy theo từng công đoạn cụ thể. Nếu các cơ quan đó hoạt động trong điều kiện có Ban NCTW thì ban này sẽ tham mưu cho Đảng để nắm tình hình hoạt động của các cơ quan tố tụng, đồng thời phát hiện, đề xuất sự phối hợp khi cần thiết.”

Nhưng ông Hưng cũng cho rằng không thể giữ nguyên mô hình của Ban Nội chính trước đây, cần phải có sự đổi mới, phát triển. Trước hết phải làm rõ chức năng, nhiệm vụ của Ban Nội chính lần này là gì, tổ chức ra sao và họ phải có thực quyền, chịu trách nhiệm trước nguyên tắc điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước.

Trước đây cũng có lúc này lúc khác Ban Nội chính làm chưa đúng chức năng, can thiệp quá sâu vào công việc của các cơ quan chuyên môn. Ban Nội chính được tái lập lần này phải đi vào nghiên cứu, tham mưu cho Đảng những quyết sách lớn về xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật cũng như hoạt động của các cơ quan tư pháp.

“Đảng kiên quyết vào cuộc lãnh đạo chống tham nhũng mà như Hội nghị Trung ương 6 mới rồi thì cũng coi như “hòa cả làng””

Ban Nội chính lần này vừa kế thừa được những chức năng quan trọng trước đây, đồng thời đảm bảo không làm thay cơ quan nhà nước, nhưng phải được giao quyền rõ ràng.

Nên chăng phải giao cho Ban Nội chính có quyền quyết định những vụ việc nổi cộm, cấp bách, không chỉ làm tham mưu đơn thuần rồi lại chờ “tập thể lãnh đạo”.

Khi đã giao như vậy thì người ta phải có lực lượng và được áp dụng biện pháp tố tụng, đụng chạm đến “cỡ bự” như Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ chính trị… Ở nước ta lâu nay chưa có một cơ quan trực tiếp làm như vậy, nhưng chúng ta có sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành.

Theo mô hình tới đây, khi Ban Nội chính tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị để có sự chỉ đạo đối với các tổ chức Đảng ở các cấp, các ngành thì hoàn toàn có thể xử lý những vấn đề đặt ra từ thực tiễn.

Điều quan trọng ở đây là chống sự thỏa hiệp. Chẳng hạn với một vụ án phức tạp, Ban Nội chính Trung ương xuống làm việc với ngành tòa án, giữa hai bên mà thỏa hiệp với nhau làm sai thì cái đó rất nguy hiểm. Ở vị trí của Ban Nội chính cần phải hết sức công tâm, trong sáng mới làm việc được.

Quyền và hành đến đâu?

Dư luận đang trông chờ ông Nguyễn Bá Thanh ‘ghi bàn’ chống tham nhũng

Trong tình hình hiện nay, nên chăng cần mạnh dạn giao thực quyền như kiểu “Thượng phương bảo kiếm” trao cho Ban Nội chính Trung ương, tự chịu trách nhiệm trước nguyên tắc, điều lệ Đảng và Pháp luật Nhà nước, có quyền kịp thời tạm đình chỉ chức vụ trong đảng từ cấp ủy trở xuống và báo cho Tổ chức, chính quyền biết để tạm ngưng chức vụ bên phía chính quyền trong quá trình điều tra để có kết luận đúng sai, tránh những vụ như Dương Chí Dũng và một số trường hợp khác đã xảy ra?

Về vấn đề này, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ông Vũ Quốc Hùng, cho rằng đây là sự thay đổi sáng suốt và tích cực.

Nhưng có người lại cho rằng việc chống tham nhũng hiện nay đầy gay go, phức tạp, chưa hẳn Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng do ai nắm mà có thể tin vào hiệu quả được. Đảng đứng ra kiên quyết vào cuộc lãnh đạo chống tham nhũng mà như Hội nghị Trung ương 6 mới rồi thì cũng coi như “hòa cả làng”.n chờ

Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã thảo luận Luật Phòng-chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, cho rằng cần phải có Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng, nhưng dứt khoát không phải do cơ quan hành pháp thực hiện. Nhưng đề nghị này khi đó đã không được chấp thuận.

Việc chuyển đổi mô hình từ trực thuộc Chính phủ sang thuộc Bộ Chính trị là coi như cuộc thay đổi “mã đáo”, như chạy một vòng quanh sân vận động, nay lại trở về chỗ cũ.

Ông Nguyễn Bá Thanh đã được giao nhiệm vụ chính thức làm Trưởng ban Nội chính Trung ương năm thứ 41, sau khi gián đoạn 5 năm.

“Với chủ kiến, tính khí và phong cách Nguyễn Bá Thanh làm cái việc nội chính lúc này quả là trần thân cơ lược, nhất là trừng mắt trước “cả bầy sâu chúa sâu chùm lâu năm đã đã thành tinh hóa quái”.”

Thời gian gần đây, ông Nguyễn Bá Thanh là nhân vật được truyền thông chú ý nhiều sau những thông điệp khá thẳng và mạnh liên quan tới tình hình kinh tế xã hội của đất nước. Dư luận trong nước cho rằng so với nhiều chính khách “không nói cũng không làm”, thì ông Nguyễn Bá Thanh là một lãnh đạo biết tạo ấn tượng cả qua lời nói và việc làm.

Trong bối cảnh này, ông Nguyễn Bá Thanh “xoay trở”, chí quyết, vũng lòng để hoàn thành được “đại trọng trách” này quả là không dễ. Đã ở cương vị mới giữa thời điểm “nước sôi lửa bỏng” của mặt trận chống tham nhũng và chỉnh đốn Đảng, mong sao ông Thanh sẽ làm được như ông đã nói: “Vấn đề là phải có người chịu trách nhiệm cá nhân chứ không thể cuối cùng rồi hoà cả làng… Miễn sao biết đội xã tắc lên đầu, một lòng vì dân.”

Không biết sắp tới “xã tắc và vì dân” được ông đội trên đầu như thế nào?

Và cái “lửa” của ông tại Ban Nội chính Trung ương “mã đáo” lần này có độ nóng và tỏa sáng đến đâu? Nhìn xưa lựa nay thì thấy cái thực quyền trong xã hội không thuộc người có tâm có tài, mà thực quyền nhất vẫn là túi hầu bao cá nhân, là thủ đoạn ngang ngược, liều lĩnh đầy tội ác và sự cố kết phe nhóm bất tuân pháp luật, coi người như rác.

Suy cho cùng, tình thế hiện nay, cái ghế Trưởng ban Nội chính cũng chẳng thực quyền và chẳng có vai trò gì nếu mọi sự chung quanh vẫn vậy. Với chủ kiến, tính khí và phong cách Nguyễn Bá Thanh làm cái việc nội chính lúc này quả là trần thân cơ lược, nhất là trừng mắt trước “cả bầy sâu chúa sâu chùm lâu năm đã đã thành tinh hóa quái”.

Đối trận trước cả “rừng họng súng phản pháo” của “một bộ phận không nhỏ” quả là không đơn giản chút nào. Ban Nội chính “mã đáo”, nhưng thành công được bao nhiêu, phát huy vai trò, nhiệm vụ, quyền hành và hiệu quả thế nào có lẽ ai cũng phải chờ. Chờ đợi những kết quả tốt đẹp, có hứa hẹn tin cậy, được nhân dân đồng thuận.

Tức là: “Hãy đợi đấy. Hồi sau sẽ rõ!”

@bbc

Sinh viên 8X phản bác toàn bộ những lời tuyên bố của tướng Vịnh

Vũ Huy Hoàng (Danlambao)

Sáng nay, đọc báo Tuổi trẻ, qua bài phỏng vấn thể hiện những quan điểm lớn về đường lối đối ngoại của đất nước từ phát ngôn của ông Vịnh, tôi không khỏi giật mình khi một người làm chiến lược cấp cao là một UV BCH TW Đảng lại có thể mơ hồ và đơn giản đến thế.

Là một sinh viên 8X đang mài đũng quần trên ghế giảng đường Đại học, tôi không có nhiều thời gian và thông tin để nghiên cứu chiến lược đối ngoại như ông, nhưng tôi dễ thấy có quá nhiều sơ hở chết người về mặt nhận thức và quan điểm khi đọc những tâm sự nghề nghiệp rất nóng hổi qua các vấn đề thời sự hiện nay từ nội dung cuộc trò chuyện được chú ý này.
Ông Vịnh sinh năm 1957, như vậy là cách thế hệ chúng tôi khoảng 30 năm, khoảng cách thời gian đó đủ để nhìn nhận lại những diễn biến lịch sử vừa diễn ra một bình tĩnh nhất và đánh giá khách quan về nó. Mong rằng, với tuổi đời ấy, ông có thể lắng nghe một cách bình tĩnh những gì mỗi người trong thế hệ chúng tôi đánh giá nhận định theo cách riêng của mình.
Tôi sẵn lòng dành hẳn một buổi tối đầu năm mới 2103 để tranh luận cùng ông Vịnh về những gì ông ngụy biện, đánh tráo và sai trái về tình hình hiện nay qua những ý kiến thô sơ, bằng chính cách viết và dùng từ ngữ đơn giản thẳng thắn của mình.
Mọi cuộc tranh luận chỉ là để gạn lọc và cần tìm những gì cần tìm thấy cho những ai quan tâm và tham gia. Không có người tranh luận nào là hoàn hảo hay toàn mỹ, bởi khi ấy nó không còn là tranh luận nữa.
Tôi chân thành mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của mọi người qua bài viết này.
Chào năm mới 2013

Không ai quên lợi ích quốc gia, dân tộc 

TTO – “Ước mong của tôi có lẽ cũng nằm trong ước mong chung của mọi người Việt Nam, đó là sang năm 2013 đất nước ta tiếp tục ổn định, nền kinh tế ấm hơn và hòa bình ở biển Đông”.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) tâm sự như trên trong cuộc trò chuyện trước thềm năm mới với Tuổi Trẻ.
Một trật tự đa cực đang dần rõ nét
“Một vấn đề rất cụ thể là chủ quyền trên biển Đông không chỉ có những nước liên quan trực tiếp, mà cả cộng đồng thế giới đều không thể chấp nhận việc bất kỳ một quốc gia nào đó muốn độc chiếm biển Đông, muốn biến đường vận tải quốc tế thành ao nhà của mình, Trung Quốc cũng vậy, Mỹ cũng vậy, và bất kỳ nước nào khác với bất kỳ lý do gì cũng đều không thể chấp nhận”
* Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi cách đây vừa tròn một năm, khi nhận định về an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung và đặc biệt là Đông Nam Á, ông nói rằng nguy cơ lớn nhất chính là một cuộc chạy đua vũ trang mới, một cuộc chiến tranh lạnh mới và một chiến lược “ngoại giao pháo hạm” mới của các nước lớn khi triển khai sự can dự của họ. Trong năm qua đã có những diễn biến gì mới xung quanh vấn đề này?
– Chúng ta đã và đang chứng kiến sự can dự một cách mạnh mẽ, khẩn trương và hết sức quyết liệt của các nước lớn vào khu vực, làm cho tình hình khu vực thay đổi rất nhanh chóng, không loại trừ sẽ có những thay đổi về chất so với trước đây.
Trước hết là việc Mỹ tuyên bố tái cân bằng chiến lược, quay lại châu Á – Thái Bình Dương. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tuyên bố từ nay đến năm 2020, lực lượng quân sự Mỹ sẽ chuyển dịch cán cân ở Thái Bình Dương và Đại Tây Dương thành 60-40 thay vì 50-50 hiện tại.
Dù sự chuyển dịch đó chỉ là 10% nhưng có ý nghĩa rất lớn về mặt biểu tượng. Hoa Kỳ vẫn tự xem mình là một quốc gia Thái Bình Dương, và sự can dự của Mỹ vào đây là rất ồn ào, chúng ta hãy nhớ câu nói của Ngoại trưởng Hillary Clinton: “Trong thế kỷ 21 này, điều quan trọng là chúng ta phải khẳng định rất rõ chúng ta có mặt tại đây để ở lại đây”.
Bên cạnh đó, đã xuất hiện cách tiếp cận mới của Trung Quốc. Trong diễn văn khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào tuyên bố “xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc về biển”. Bối cảnh nêu trên không khỏi khiến các nước trong khu vực cảm nhận thấy có hai thế lực nổi lên trong khu vực và mỗi thế lực có hướng đi riêng. Có thể là những câu chuyện như đối đầu, xung đột, “hai phe” đang ở đâu đó rất xa xăm phía chân trời, nhưng về mặt chiến lược thì sự cọ xát của các thế lực này cũng đã tạo ra năng lượng làm cho khu vực nóng lên.
* Ý kiến: Ông Vịnh né tránh hoàn toàn những vấn đề quan trọng mà Phóng viên đã đề cập đến. Nói nhiều về sự can dự của các siêu cường nhằm đánh lạc hướng sự chú ý đến những hành động chuẩn bị tương xứng của Việt Nam phải như thế nào trước sự thay đổi tình hình quốc tế.
Ông Vịnh đã hoàn toàn lạc đề khi đối chiếu với câu hỏi của người hỏi. Ông chỉ nói chút ít về sự dịch chuyển chiến lược của Mỹ từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương mà phớt lờ nhấn mạnh “đặc biệt là khu vực Đông Nam Á” trong câu hỏi đặt ra.
Theo cách tư duy của một người dân thường như tôi, ông đang thể hiện kỹ năng chính trị như là một thành viên chính phủ trên các phiên chất vấn của Quốc Hội, thay vì thực hiện cho đúng nhiệm vụ của một Cán bộ Ngoại giao Quân đội trong tình hình mới, nói chuyện thời sự với báo chí và nhân dân của mình với các tiêu chí nghề nghiệp tối thiểu được kỳ vọng cần phải có : Thành thật, thẳng thắn và cụ thể.
*
Một số học giả quốc tế cho rằng cùng với vị trí siêu cường của Mỹ và sự trỗi dậy của Trung Quốc, quan hệ giữa hai nước này có “cơm lành canh ngọt” hay không sẽ ảnh hưởng đến cả thế giới. Những nước trong khu vực, nhất là các nước đang có “vấn đề” với những cường quốc này, sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất. Ông nghĩ sao về nhận định này?
– Đúng thế, trên bình diện quốc tế hiện nay, chiến lược của hai cường quốc là Mỹ và Trung Quốc cũng như mối quan hệ giữa hai quốc gia này đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng an ninh ở phạm vi toàn cầu, từng khu vực và đối với từng quốc gia.
Đặc trưng của mối quan hệ giữa hai cường quốc này là vừa hợp tác vừa cạnh tranh, hay nói nôm na là nước nào cũng muốn vượt nhau nhưng lại cần nhau, dù cạnh tranh gay gắt nhưng buộc phải hợp tác chặt chẽ, chia sẻ lợi ích với nhau để cùng tồn tại và vươn lên. Ví dụ như trong lĩnh vực kinh tế, dù muốn hay không Trung Quốc cũng buộc phải hợp tác với nền kinh tế cùng tiềm năng khoa học công nghệ hàng đầu thế giới là Mỹ, ngược lại, Mỹ cũng không thể bỏ qua một thị trường hơn 1,3 tỉ người với nguồn vốn dồi dào của Trung Quốc…
Nếu mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác này được tăng cường, đem lại lợi ích cho Mỹ và Trung Quốc, đồng thời đem lại lợi ích chung cho tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần duy trì hòa bình ổn định thì chắc chắn sẽ được hoan nghênh. Tuy nhiên nếu mối quan hệ này phát triển theo hướng thỏa hiệp và nhằm can dự, xâm phạm, làm tổn hại đến lợi ích các quốc gia khác, gây mất ổn định cho khu vực thì các nước xung quanh sẽ gặp rất nhiều khó khăn và chắc chắn không thể hoan nghênh cách hành xử như vậy của các cường quốc.
Trong bối cảnh tình hình hiện nay, với một trật tự đa cực đang dần rõ nét cùng quá trình hội nhập, toàn cầu hóa mạnh mẽ, mối quan hệ giữa hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc buộc phải mang tính chất hợp tác theo hướng mở. Họ không thể chỉ tập trung vào lợi ích cục bộ của mình hoặc một nhóm nhỏ vài đồng minh thân cận mà bỏ qua lợi ích của “phần còn lại”, lôi kéo các nước vào phe này hay phe kia, tạo nên tranh chấp, xung đột gây thiệt hại cho tất cả các bên.
* Ý kiến: Tôi cho rằng nhận định “họ không thể…” của tướng Vịnh là rất mơ hồ và chủ quan. Nếu các nước nhỏ còn lại như Việt Nam mà bạc nhược, thiển cận và nông cạn như đã thể hiện trong quá trình ngoại giao và bình thường hóa quan hệ với họ (Mỹ và TQ) suốt từ sau 1975 đến nay thì xung đột, tranh chấp chắc chắn sẽ lại xảy ra đối với chúng ta. Và thiệt hại, mất mát, tủi nhục sẽ là chúng ta chịu đựng, trả giá chứ không phải là “cho tất cả các bên” như ông và các lãnh đạo của ông cứ lên tiếng thản nhiên như vậy!
*
Quay lại với khu vực, rõ ràng tất cả các nước, trong đó có Việt Nam, chịu ảnh hưởng từ chính sách của hai cường quốc này cũng như mối quan hệ của họ với nhau. Tuy nhiên, dù là nước nhỏ nhưng không thể chỉ ngồi chờ các tác động tích cực của mối quan hệ Mỹ – Trung Quốc để hưởng lợi, cũng không thể mặc nhiên chấp nhận các tác động tiêu cực từ mối quan hệ này mà không có phản ứng gì. Có hai yếu tố mà chúng ta cần kiên định để phản ứng một cách chủ động, tích cực – đó là đường lối độc lập tự chủ trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế; tăng cường mối quan hệ liên kết với các quốc gia trong khu vực hoặc ở phạm vi toàn cầu có cùng nhu cầu ổn định và phát triển, cùng phải ứng phó với các thách thức giống nhau. Nếu các nước nhỏ tạo nên được tiếng nói chung, thống nhất thì các cường quốc có lớn mạnh đến đâu chăng nữa cũng không thể tự tung tự tác, không thể muốn làm gì thì làm mà phải tính tới hai yếu tố này.
* Ý kiến: Ở mệnh đề thứ nhất, ông nói về hai yếu tố: Độc lập tự chủ, và tăng cường liên kết với các quốc gia trong khu vực hoặc ở phạm vi toàn cầu có cùng nhu cầu ổn định để phát triển, thoạt nhiên nghe có vẻ rất hợp lý. Tuy nhiên tôi chỉ ra cái không thể mà ông là người được đẻ ra trong hệ thống, sẽ không thể nhận biết được như sau:
Ông nói độc lập tự chủ, nhưng thật ra các ông đã để cho mỗi một người trong giới lãnh đạo chóp bu các ông và Đảng của mình kéo theo cả dân tộc VN lệ thuộc mọi thứ vào Trung Quốc: Từ kinh tế, chính trị, ngoại giao cho đến văn hóa xã hội. Không chỉ trong thời chiến (với Pháp, Mỹ) mà ngay cả thời bình từ sau độc lập đến nay. Cố gắng lớn nhất của TBT Lê Duẩn là đã thoát ra khỏi cái vòng kim cô “Anh em – Đồng chí” bẩn thỉu của TQ bằng nỗ lực chống lại cuộc chiến Biên giới năm 1979, sau khi mất đi sinh mạng hàng trăm nghìn đồng bào chiến sỹ và sự hủy diệt toàn bộ các tỉnh biên giới phía Bắc đã kiên quyết đoạn tuyệt quan hệ và tuyên bố xóa bỏ “cái ơn” nhận viện trợ súng ống, đạn dược trước đây (nhưng thực chất là để người Việt Nam chết thay người TQ chống Mỹ). Các ông cũng phá tan tành bằng hiệp định Thành Đô năm 1990. Cho đến nay các ông vẫn không ngừng biết ơn và biết ơn giặc, chấp nhận vô ơn với dân, vô ơn với các tiền bối cách mạng, với các bậc tiền nhân đi trước! Đó hoàn toàn không phải là độc lập tự chủ, mà là càng ngày càng bị lệ thuộc, sai khiến! Tôi tin rằng cố TBT Lê Duẩn nếu sống lại được, sẽ chỉ mặt các ông mà mắng như vậy thay cho nhân dân!
Về việc tăng cường mối quan hệ liên kết với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới có cùng nhu cầu ổn định và phát triển… Tôi nghĩ rằng ông hơi ảo tưởng quá thái theo não trạng ăn theo, nói theo chưa suy nghĩ thấu đáo.
Thứ nhất, cũng là cụm từ “nhu cầu ổn định và phát triển” thoạt nhiên nghe giống nhau, nhưng theo cách diễn giải của một nhà ngoại giao như ông tôi thấy ông chưa hiểu nổi rằng: Ở phạm vi quốc gia, trong quan niệm của các nước khác, sự ổn định đó là của chung của toàn xã hội, sự phát triển kinh tế mà hiểu theo cách đúng đắn nhất là người dân giàu lên, khoảng cách giàu nghèo ngắn lại và nhân dân hài lòng với túi tiền của mình ngày càng nhiều lên cùng đời sống tốt đẹp hơn. Sự phát triển xã hội của các quốc gia khác được định nghĩa bằng các chỉ số minh bạch và cụ thể về phát triển y tế, giáo dục, quyền con người, quyền tự do thông tin báo chí, xuất bản, phát ngôn, biểu tình,thành lập đảng chính trị, thể hiện chính kiến, công bằng xã hội, thậm chí các chỉ số này được nhân dân theo dõi đánh giá theo từng quý, từng năm một…
Còn với các ông, sự ổn định trước tiên là sự ổn định của Đảng cầm quyền, ổn định chính trị được định nghĩa bằng sự cầm quyền độc tôn, không có sự thách thức, không ai được phép đặt ra câu hỏi về sai sót của Đảng, của Nhà nước. Sự ổn định đó được mô tả phải là “Đảng lãnh đạo xã hội trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện”. Ngược lại, ở các nước được ông nhắc đến, sự ổn định chính là sự vận động, cọ xát không ngừng của các thành phần xã hội mà căn bản là người dân giữ vững và vận hành thường xuyên quyền con người, quyền làm chủ xã hội của mình bao gồm biểu tình, chất vấn chính phủ quyền bầu trực tiếp Nguyên thủ và các đảng phái mà mình tin tưởng, và cả quyền “đuổi Chính Phủ” mà họ không ưng ý – cách nói dân dã về quyền của dân theo lời ông Hồ.
Vậy khái niệm ổn định đó khác nhau đến vậy, sao có thể nói là tương đồng ? Cũng theo đó, khái niệm phát triển mà các ông cần hoàn toàn chỉ là những con số láo khoét về tăng trưởng trên giấy, không cần biết đến thực trạng đời sống nhân dân ra sao. Kinh tế phát triển được định nghĩa giả dối bằng việc khai thác tài nguyên thô đem bán tống tháo và ngửa tay xin tài trợ của các nước khác cho nhiều, đồng thời con cháu và nhóm lợi ích trực thuộc các ông thu lợi, yên ổn, còn chính sách thì xoay vòng quanh các cuộc mua bán lợi ích chính trị, chính sách đó, mặc kệ hệ thống Y tế rách rưới, bần cùng thê thảm, nên giáo dục giả dối băng hoại làm hư hỏng con người, đâu đâu cũng thấy ốm đau, bệnh tật, cưỡng hiếp buôn bán phụ nữ, thiếu nữ sang bên kia biên giới nước lạ, cướp của giết người táo tợn, biển đảo mất dần từng ngày từng giờ, ngư dân treo lưới bỏ thuyền chuyển sang làm đời cửu vạn. Như vậy mà các ông luôn nói là “đời sống kinh tế ngày càng ổn định”, “trật tự kỷ cương xã hội ngày càng được củng cố”, “quốc phòng an ninh ngày càng vững chắc”
Ngay cả quyền và lợi ích của chính nhân dân, chính dân tộc đã đẻ ra các ông, nuôi nấng các ông và cấp tiền hàng ngày cho các ông, các ông còn không tôn trọng và tuân thủ, thì làm sao các quốc gia khác trên thế giới có thể tin tưởng rằng, các ông có thực tâm hợp tác, tôn trọng lợi ích của họ và lợi ích của họ là đồng nhất giống lợi ích của các ông.
Tóm lại, cũng y như đảng của mình, ông vẫn nhầm lẫn hoàn toàn về khái niệm lợi ích của nhân dân ở các quốc gia khác và lợi ích cầm quyền, bắt nạt nhân dân ở Đảng của các ông, như vậy về phương thức cũng như mục đích hợp tác là không thể có sự tương đồng và thích hợp !
Từ đó chúng ta có thể thấy, ở mệnh đề thứ hai, cái mà ông gọi là “Nếu các nước nhỏ tạo nên được tiếng nói chung, thống nhất…” là không bao giờ xảy ra, chí ít là với VN nếu Đảng của các ông và các ông vẫn giữ não trạng bắt nạt dân, duy trì quyền cai trị độc tôn của mình, dẫm lên quyền dân sinh, nhân sinh của chính dân tộc mình – quyền con người đã là phổ quát ở các quốc gia khác – nhưng lại muốn oai phong sánh vai các cường quốc năm châu trên con đường phát triển chân chính của nhân loại bằng những lời dối trá cửa miệng không kém phần thắm thiết, trong sáng về con người và tình hữu nghị trong sáng!
Đó là lý do chưa bao giờ các ông hiểu ra, tại làm sao Anh, Mỹ, Canada và các Quốc gia tiến bộ ở châu Âu luôn “can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam”. Người dân chúng tôi hiểu đơn giản rằng, nếu làm con người, cái cần nhất trước tiên giáo dục và đạo đức căn bản để được người khác chấp nhận, thì trên phương diện quốc gia, nếu tự cho mình là một nhà nước “xã hội – dân chủ – cộng hòa” (Chứ chưa nói là dám tự xưng tụng mình là CNXH hay CNCS), cái tối thiểu cần có là hiểu được quyền con người, nhân quyền, tự do, dân chủ của con người. Nhà nước do các ông toàn trị hiện nay không có đủ cái đó và ngược lại còn rất ác với dân, chiếm đoạn quyền đó của chính nhân dân đang nuôi sống các ông, làm sao các nước, các dân tộc văn minh khác họ tin tưởng rằng các ông sẽ đủ tử tế để hợp tác với họ?
Rất cố gắng để diễn đạt, dù hơi dài một chút về vấn đề này, tôi mong rằng ông hiểu ra được những gì cần hiểu mà từ trước tới nay có lẽ ông chưa được thấu đáo.
*
– Với góc độ là một nhà nghiên cứu chiến lược, theo ông, sự can dự của các cường quốc bên ngoài vào khu vực sẽ tác động ra sao đối với các thành viên trong khu vực?
– Sự can dự này sẽ có lợi cho các nước trong khu vực nếu nó được khống chế bởi ba yếu tố: thứ nhất, đó phải là sự can dự đem lại hòa bình, ổn định và phát triển; thứ hai, phải tuân thủ luật pháp quốc tế; thứ ba – rất quan trọng – là những can dự đó phải được sự đồng thuận của những nước chịu ảnh hưởng.
* Ý kiến: Ông nói trơn tru như vậy, nhưng tôi hiểu rằng, ông thừa biết, ông cũng như Đảng của ông sẽ không thể nào khống chế nổi TQ chấp nhận dù chỉ 1, chứ đừng nói cả 3 yếu tố ông kể ra.
Do vậy, tôi nhắc lại cho ông nghe, lời của một ai đó rất hay, đại ý: Người lính phải xung trận bằng khẩu súng và đường đạn bắn thẳng, còn xung trận bằng những từ “nếu” để đánh võ mồm kiểu giả định mơ hồ, vô nghĩa để lòe chính mình và dân mình nghe mong tạm quên đi cảm giác sợ hãi và kẻ thù sừng sững trước mắt, thì cái kết cục chung là sẽ thất bại thảm hại và trở thành nô lệ cho ngoại bang.
*
Trước đây, một nước lớn nào đó có thể can dự vào chỗ này, chỗ kia bằng cách tiến hành một cuộc chiến tranh. Thời đại hiện nay khó có thể diễn ra khả năng đó. Lịch sử đã chứng minh cách can dự theo kiểu đó không sớm thì muộn đều chuốc lấy thất bại.
* Ý kiến: Từ sau năm 1979 đến nay, TQ hay Việt Nam đã liên tiếp thất bại và sẽ sớm muộn tiếp tục thất bại ? Và TQ can dự vào Việt nam suốt quãng thời gian vừa qua đâu chỉ bằng chiến tranh, chính ông cũng biết biết đấy, ở mặt trận nào, dù là kinh tế, văn hóa, chính trị hay ngoại giao mà họ can dự vào, chúng ta cũng thua thiệt lấm lưng, trắng bụng.
Mà can dự không chiến tranh nghĩa là phải bằng biện pháp hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế, phải có sự đồng thuận của người ta.
* Ý kiến: Câu lý luận ngộ nghĩnh trẻ con này của ông sẽ làm chính TQ phì cười, còn nhân dân chúng tôi đang hết sức thất vọng và chán nản về cách lý luận ngây thơ mộc mạc đó của ông.
Họ phủ dụ các ông, dọa nạt các ông và đứng ra bảo kê cho cá nhân, tập thể hoặc một phần tập thể Đảng các ông để duy trì quyền lãnh đạo độc tôn của một hoặc một số trong các ông thì đương nhiên các ông đang ngày càng đồng thuận với Trung Quốc như nhân dân đang thấy, thậm chí là đến từng từ ngữ mà họ sử dụng, các ông cũng không dám sử dụng khác đi vậy mà ông còn hùng hồn giả dối : “Phải có sự đồng thuận của người ta!”. Vì sự ươn hèn, hám lợi hám quyền của các ông, vì sự đồng thuận  ”Đồng chí – anh em” với họ mà Đất nước và nhân dân đang từng ngày mất biển mất đất, và lệ thuộc trầm trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa… Chúng tôi thừa hiếu cái kiểu họ đồng thuận với các ông như thế nào.
Từ cách tiếp cận như vậy, chúng ta thấy rằng chính sự can dự của các nước lớn sẽ trở thành một xung lực làm cho khu vực này có giá trị hơn
* Ý kiến: Vâng, nhưng nó còn tùy thuộc vào con mắt nhìn nhận giá trị của từng người mà thông thường là khác nhau. Đất nước ta, nhân dân ta có giá nhiều giá trị thật, nhưng cầm quyền mà ko tôn trọng giá trị của dân thì đất nước sẽ trả giá đắt đỏ và đau thương như suốt quãng thời gian vừa qua đó thôi. Còn giá trị với thế giới, công nghệ, trí tuệ các ông không có gì, chẳng nhẽ ông lại vẫn còn tiếp tục tự hào về giá trị của tài nguyên thô và sức lao động rẻ?
Nói một cách nôm na là như một miếng đất đẹp, nhiều người dòm ngó thì đương nhiên sẽ có giá trị cao hơn.
* Ý kiến: Đừng ảo tưởng như vậy, nó còn tùy là người ta nhòm ngó nhau để xây ở đó một ngân hàng sang trọng, làm ăn minh bạch hay một dãy phố đèn đỏ ô uế và nuôi những cô đào lẳng lơ cùng bọn xã hội đen luôn trấn áp, cướp bóc một cách bẩn thỉu !
Một vấn đề nữa là khi không dùng vũ lực để can dự thì sẽ tạo ra sự bình đẳng tương đối giữa nước lớn với nước nhỏ.
* Ý kiến: Ngay cả nhận xét này của ông cũng sai bét. Đôi khi không dùng vũ lực mà mua chuộc bằng chính trị, tiền bạc và làm cho suy sụp rồi dẫn đến lệ thuộc bằng kinh tế, và chính trị tiếng nói của các chính quyền bị mua chuộc đó còn vâng dạ khúm núm hơn nghìn lần khi so với việc chính phủ đó biết dựa vào nhân dân, cùng nhân dân đường hoàng đáp trả tay đôi trên võ đài một cách sỏng phẳng bằng vũ lực ông Vịnh ạ.
Hãy nhìn sang Israe mà học tập, họ sống trên một giải đất nhỏ và vẻn vẹn chỉ có khoảng 7 triệu dân nhưng đã đáp trả và đương đầu hiên ngang cả với một thế giới Hồi giáo như thế nào? Tôi không cổ xúy chiến tranh, nhưng khi cần thiết chúng ta buộc phải cầm và sẵn sàng cầm vũ khí, và biết dựa vào dân, vì nhân dân, thì chính như ông nói đấy thôi, mọi kẻ thù sẽ đánh thắng, vậy tại sao phải hèn mạt đến vậy để làm gì?
Tiếng nói của nước nhỏ sẽ được quan tâm, vì khi tham gia vào công việc quốc tế thì nước lớn hay nước nhỏ cũng là một lá phiếu, tại các diễn đàn quốc tế cũng là một tiếng nói
* Ý kiến: Các ông yêu cầu các nước lớn tôn trọng sự cầm quyền hợp pháp, đại diện cho dân tộc VN của các ông một cách bình đẳng, dân chủ, nhưng chính các ông không tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân VN, tôn trọng sự ra đời và sinh hoạt bình đẳng của các đảng chính trị khác cũng của người Việt Nam ta trong cùng một quốc gia, dù các đảng chính trị ấy ban đầu có là nhỏ bé, yếu ớt, các ông cũng không để cho ra đời và tìm cách triệt từ trong trứng nước.
Các ông leo lẻo về lý thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp, rằng “giai cấp tồn tại trong xã hội khách quan với nhận thức con người…”, nhưng các ông lại không công nhận vai trò và vị trí đương nhiên của các giai cấp đó trong xã hội và đồng thời phủ nhận luôn hạt nhân lãnh đạo tiên phong của các giai cấp ấy – tức là các đảng chính trị khác – và tìm mọi cách triệt hạ họ. Tuy vậy các ông lại luôn bắt toàn xã hội công nhận hiển nhiên cái gọi là hạt nhân lãnh đạo tiên phong của Giai cấp công nhân và nhân dân lao động – tức đảng Cộng sản VN – mà các ông đã bóp chết từ lâu và hiện nay đang trá hình họ để cai trị dân tộc, đẩy một phần lịch sử bi hùng của Đảng Lao động VN mà Đại tướng Thân phụ ông – người tôi vô cùng ngưỡng mộ – cũng là một Ủy viên Bộ chính trị, xuống vũng bùn đen tối và làm xấu thêm hình ảnh về CNXH và CNCS mà các ông không ngừng rêu rao là lý tưởng.
Chúng ta đừng quên rằng các nước lớn can dự vào đây không phải bằng chính sách ngoại giao chung chung. Bao giờ cũng vậy, lợi ích kinh tế là động lực đầu tiên và cũng là mục đích sau cùng. Khi anh vào đây vì lợi ích của mình mà lại muốn có sự đồng thuận thì nhất định phải chia sẻ lợi ích với các nước trong khu vực. Qua đó, các nước trong khu vực nếu tận dụng được cơ hội thì sẽ có thêm nguồn lực để phát triển.
* Ý kiến: Trung Quốc đã bao giờ chia sẻ quyền lợi gì thực sự cho dân tộc VN chưa, hay họ chỉ đi đêm bắt nạt các ông buộc các ông phải thoải hiệp và ôm lấy những thua thiệt đau đớn cho đất nước, rồi sẻ lại cho các ông một chút ít nhỏ nhoi là quyền lợi được bảo trợ, bão lãnh chính trị, bảo lãnh sự cầm quyền của cá nhân và tập thể trong Đảng? Cái này họ luôn phủ dụ lừa bịp các ông bằng thuật ngữ “tin cậy chính trị” ở cấp lãnh đạo Tứ trụ, còn trên phương diện quốc gia, họ gọi một cách diêm dúa là “tương đồng ý thức hệ”. Việc này dân chúng đã biết thừa, các ông còn cố tình lòe bịp sao?
– Thế còn những mặt bất lợi, nếu có?
– Dù mục đích như nhau nhưng cách thức can dự của mỗi thế lực bên ngoài khu vực vào đây có những điểm khác nhau. Có nước chọn cách vào khu vực bằng “cửa trước”, có nước lại chọn đi “cửa sau”, bằng các biện pháp kinh tế, chính trị… và cả những biện pháp “phi truyền thống” mà bây giờ mới thấy. Bao giờ cũng vậy, một sân chơi chung khi bị ngoại lực tác động mà có thành viên nào đó chạy theo lợi ích cục bộ, ngắn hạn sẽ dẫn đến chia rẽ.
* Ý kiến: Ông ngụy biện hay quá ngây thơ? “Lợi ích cục bộ” mà ông nói đến đó là lợi ích tối thượng của các quốc gia tham chiếu từ góc độ của họ. Cái ông nhận định “ngắn hạn sẽ dẫn đến chia rẽ đó” thực ra là sự thích ứng, linh hoạt nhanh chóng để tự bảo vệ lợi ích tối thượng của Quốc gia mà các đảng cầm quyền của họ không thể phản bội. Họ khôn ngoan và luôn linh hoạt, còn các ông u mê, nhầm lẫn bạn thù, tù mù chiến lược nên khi các nước bạn hành xử không giống mình muốn thì gào lên “chạy theo lợi ích cục bộ” hay “chia rẽ” một cách rất giản đơn và thiếu trưởng thành.
Trong thực tế, dù chỉ trong một thời gian rất ngắn, vài năm gần đây đã có những tham vọng được bộc lộ, những tuyên bố và cả những hành động trên thực tế khiến các nước trong khu vực cảm thấy lo lắng. Có nước lo xa, có nước lo rất gần.
Đơn cử như việc một số nước tuyên bố về chủ quyền, không hiểu họ dựa vào đâu, cơ sở pháp lý nào? Nay đưa ra bản đồ này đã rất tham vọng rồi, mai lại đưa ra bản đồ khác tham vọng hơn nữa thì sao?
Một vấn đề rất cụ thể là chủ quyền trên biển Đông không chỉ có những nước liên quan trực tiếp, mà cả cộng đồng thế giới đều không thể chấp nhận việc bất kỳ một quốc gia nào đó muốn độc chiếm biển Đông, muốn biến đường vận tải quốc tế thành ao nhà của mình.
Trung Quốc cũng vậy, Mỹ cũng vậy, và bất kỳ nước nào khác với bất kỳ lý do gì cũng đều không thể chấp nhận.
* Ý kiến: Ông định vẫn lu loa với những từ ngữ số đông “bất kỳ nước nào khác” hay “cả cộng đồng thế giới”, “không thể, không ai chấp nhận” một cách rất ngây thơ như vậy khi TQ đánh chiếm trong nay mai toàn bộ phần còn lại của quần đảo Trường Sa, giết chết những người lính kiên cường, con em nông dân còn trẻ măng mười tám đôi mươi trên của chúng ta và hất xác họ xuống biển hay sao…?TQ đã đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 74, một phần Hoàng sa năm 88, giết hại, bắt bớ biết bao nhiêu Ngư dân của chúng ta suốt nhiều năm nay, nhân dân chúng tôi có thấy nước nào đứng ra nói “không thể chấp nhận” hay sẵn sàng giúp VN chống lại sự xâm hại đó đâu ?
Chỉ trong vài năm qua, Hoa Kỳ bày tỏ tham vọng và trên thực tế họ đã can dự, đã hiện diện rất ồ ạt vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương (có thể thấy rõ nhất qua một số hiệp ước mà Mỹ đã ký với Nhật, Hàn Quốc, Úc, Philippines… gần đây). Như vậy ở đây ai là người đã cho Mỹ có một lý do để can dự vào khu vực? Và họ vào dễ dàng như thế, ít gặp phải sự phản đối hay quan ngại như thế? Chắc rằng mỗi chúng ta đều tự có câu trả lời.
Cách can dự của Mỹ, như họ tuyên bố là ủng hộ các giải pháp hòa bình và luật pháp quốc tế, làm cho một số nước đồng tình mà có thể không lưu tâm đúng mức đến mặt trái của nó. Tôi đã có lần nói với một quan chức quốc phòng cao cấp của Mỹ: “Nếu như các ông làm đúng những gì đã nói thì tôi hoan nghênh, còn nếu không các ông sẽ buộc phải rời khỏi khu vực như năm 1975 rời khỏi Việt Nam”.
* Ý kiến: Tôi giật mình kinh hãi vì cách thể hiện quan điểm xuẩn động và hoang tưởng của ông qua câu nói này. Ông nghĩ VN ta là siêu cường, và ông là Tổng tư lệnh tối cao của tất cả các lực lượng vũ trang các quốc gia trong khu vực sao? Tôi ước gì ông có lấy một phần 10 khẩu khí ấy khi nói chuyện với các lãnh đạo Trung Quốc mà ông gặp.
Điều đáng lo ngại nhất là sự can dự và cạnh tranh của các cường quốc vào khu vực sẽ tạo nên xung đột buộc các nước bị cuốn vào hoặc bị ảnh hưởng. Nếu chưa đến mức xung đột thì cũng đáng lo ngại không kém khi sự can dự đó khiến các thành viên trong khu vực bị buộc phải lựa chọn theo thế lực này hoặc thế lực kia, buộc phải lựa chọn “bên này hay bên kia”.
Chúng ta nhất thiết phải chống lại các xu hướng đó, nhưng còn các nước khác thì sao?
* Ý kiến: Tâm tư này thể hiện chính xác lo ngại mà nhân dân lo ngại về các ông: Chưa hề trưởng thành và biết cách sống trong thế giới phẳng đa cực (vì các ông quen bắt nạt dân trong một thế giới nhỏ toàn trị đơn cực). Các ông nên ôm sách đi học Campuchia, Thailand, Singapore, Philippine và rất nhiều những quốc gia khác về nghệ thuật này!
Một vấn đề nữa là chúng ta hãy nhìn Bắc Phi và Trung Đông, sự biến động ở mỗi nước trước hết do những nguyên nhân bên trong, nhưng nguyên nhân sâu xa là sự can dự của các nước lớn.
* Ý kiến: Chúng tôi thì thấy nhân dân các nước Bắc Phi và trung đông dù phải đổ máu cũng hân hoan mong đợi sự can sự đó của các nước lớn, bởi nó là liều thuốc cần thiết cho các chế độ cầm quyền toàn trị ung thư giai đoạn cuối kia. Các ông nên sớm thức tỉnh rằng, tai họa chính từ sự tham lam ngu dốt và suy đồi của các ông thì sẽ thoát khỏi cái não trạng ngu xuẩn rằng, các nước lớn cứ tìm cách can dự.
Họ sẽ luôn can dự, tôi cảnh báo ông, nhưng chỉ là can dự không đúng ý đồ của các ông và nếu xảy ra, việc đó có lợi cho dân thì các ông phải biến tháo đi, thế thôi ! Bởi vậy các ông luôn lo ngại ?
* Trước sự can dự của các cường quốc vào khu vực, để thụ hưởng được những lợi ích và ngăn chặn mặt trái thì phải làm gì?
– Trước hết mỗi nước phải có được tinh thần độc lập, tự chủ không riêng trong vấn đề giữ chủ quyền mà còn về đường lối chính trị, về kinh tế, văn hóa… thì mới làm chủ được vận mệnh và con đường phát triển của đất nước mình.
* Ý kiến: Rất tiếc là hiện nay các ông đang làm ngược lại hoàn toàn, ngành ngành, ban ban, bộ bộ, các Địa phương cũng như cấp TW, Bộ chính trị thi nhau sang TQ ca bài ca đoàn kết hữu nghị lấy lòng. Tứ trụ triều đình thì thụp thăm viếng đều đặn bao nhiêu thì kinh tế, văn hóa lệ thuộc bấy nhiêu, biển đảo mất dần bấy nhiêu. Cha ông ta cống đầu Liễu Thăng bằng vàng khi xưa để giữ hòa hiếu trên ý nghĩa vật chất, nhưng là sau khi đánh cho chúng “tan tác chim muông” và cảnh báo ý đồ xâm lược bằng sức răn đe của lịch sử tái hiện qua cái đầu bị trảm của viên tướng lẫy lừng của chúng, dù là… bằng vàng.
Cha ông ta oai nghiêm, uy danh như thế, sao lại đẻ ra lũ con cháu đớn hèn như các ông. Đến mức ngày nay các ông còn dám xuyên tạc leo lẻo “đến cha ông ta khi xưa còn phải CỐNG NẠP đều đặn”. Cha ông ta cống nạp nhưng giặc sợ, còn ngày nay các ông dâng cả đất liền, biển đảo chủ quyền, lấy lịch sử bỏ lọ đậy nút chôn xuống đất để lấy lòng quân thù mà chúng đâu có ngừng xâm lấn, chê bai, chửi bới khinh bạc các ông, khinh bạc nước Việt Nam này ?
Thứ hai là mỗi quốc gia cần có đủ sức mạnh để đứng vững trước sự nghiêng ngả của tình hình – trước hết là sức mạnh về chính trị, về sự ổn định nội bộ, phát triển về kinh tế, văn hóa và có một nền quốc phòng vừa đủ mạnh để bảo vệ đất nước.
* Ý kiến: Như tôi nói ở trên, do khái niệm của các ông về ổn định nội bộ, về sức mạnh chính trị -là: lãnh đạo xã hội toàn diện, trực tiếp và tuyệt đối – đến từ não trạng xuẩn động, tham lam ích kỷ và cục bộ, từ sự biến chất suy đồi, do tự nuông chiều bản thân mình, lười học hỏi nhân dân, lười học hỏi tham khảo sự tiến bộ của nhân loại ở các quốc gia văn minh tiên tiến, thì như chúng ta đang thấy, nhất là trong suốt 6, 7 năm nay, chúng ta có một nền kinh tế, văn hóa và quốc phòng đáng lo ngại đến như thế nào. Tiếp tục phương thức lãnh đạo tài ba này, nhân dân đang lo lắng khắp nơi rằng, chỉ trong thời gian ngắn nữa thôi các ông sẽ kéo dân tộc xuống bờ vực suy vong, nô lệ. Nhân dân mong các ông hồi tỉnh và tu thân, rèn mình, lấy nhân dân làm đối chứng, làm người bảo ban cho mình sớm ngày nào, may ra tình hình được cải thiện sớm ngày đó.
Thứ ba là phải có một nền đối ngoại minh bạch, rộng mở, có trách nhiệm, trên tinh thần thêm bạn bớt thù, đi đến chỉ có bạn, có đối tác mà không có thù.
* Ý kiến: Cũng như tôi đã phân tích ở trên, nếu các ông không thực tâm mà tử tế ngay với chính nhân dân đang ngày đêm bám biển bám ruộng còng lưng nuôi sống các ông, thì đừng mong gì các quốc gia tiến bộ khác sát cánh và tin tưởng vào sự tỏ ra tử tế và chân thành bề ngoài của các ông. Một quốc gia không hề có minh bạch trong các hoạt động kinh tế, từ cấp Chính phủ, bộ ngành cho đến các địa phương, không hề có một chút tí tí dân chủ nào trong vận hành xã hội cũng như các sinh hoạt chính trị, tư pháp, hành pháp, luôn bắt bớ, đàn áp bất đồng chính kiến và hăm dọa, quấy nhiễu công dân yêu nước bằng những hành vi ti tiện, đớn hèn làm sao lại có thể có được một nền đối ngoại minh bạch được. Điều này là hoang tưởng.
Nếu có nước lạ nào đó cổ xúy cho cách lãnh đạo tài ba hiện nay của các ông thì đó chính là họ đang muốn nô lệ các ông đó.
Và tôi cũng tin rằng, với cách mà các ông luôn ngửa tay phơi mặt xin tài trợ, nhưng sau lưng các ông lại leo lẻo chửi người ta bằng những khái niệm như “thế lực thù địch”,”dân chủ phương tây”, “can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam”, mà dẫn chứng gần đây nhất là bài phát biểu nóng hổi của ngài TBT tại CuBa được đọc cho toàn dân nghe suốt gần 1 tiếng đồng hồ trên VTV1 thì sẽ chẳng có quốc gia nào tin vào cái miệng lưỡi các ông nói ra trước mặt họ đâu. Chính những phát biểu phần đầu của ông về quốc gia ông gọi là đồng chí anh em đó cũng tự nói lên ông và đảng của ông có thực tâm coi họ là đồng chí anh em hay không. Rồi sớm hay muộn, với cung cách đối nội, đối ngoại này, họ sẽ đấm vào mặt các ông và nhân dân cũng sẽ quay lưng với các ông mà thôi !
*
Bên cạnh đó là những diễn đàn đa phương ngày càng trở nên quan trọng. Đẩy mạnh hợp tác đa phương trên tất cả các lĩnh vực sẽ tạo ra “khung” để “giằng” với nhau, không cho anh nào một thân một mình muốn làm gì thì làm. Hay nói nôm na chỉ có một cơ thể mạnh khỏe, trong một môi trường tương đối sạch sẽ, lành mạnh thì mới thụ hưởng được làn gió mát, chống đỡ được gió độc khi mở rộng cửa ra bên ngoài.
* Ý kiến: Tôi cần phải dựng ngược câu nói của ông lại để cho ông rõ, ông đang tư duy ngược như thế nào :
Hãy mở toang cửa ra để đón ánh nắng rạng rỡ và luồng gió trong mát thổi từ vô vàn những tiến bộ mạnh mẽ của nhân loại, từ những dân tộc có lương tri ở các quốc gia phát triển đang ngày một văn minh, giàu mạnh. Thực tâm học hỏi họ để “thoát Hán”, thoát khỏi cái vòng kìm tỏa xấu xa, bẩn thỉu mê muội bấy lâu bằng ràng buộc ý thức hệ và củ cà rốt “luôn ủng hộ, hỗ trợ hết mình đối với quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng CSVN” sai trái, thoát khỏi não trạng tương đồng đầy dã tâm xấu xa nhưng miệng bắt chước nhau lải nhải Đồng chí – Anh em hảo hảo kia.
Các ông quen rúc đầu trong sự sợ hãi nên luôn tưởng tượng ra những làn gió độc bên ngoài mà quên mất rằng, thật ra chính các ông tự đầu độc lẫn nhau trong nỗi mê muội của sợ hãi và nghi kị. Những khái niệm “thế lực thù địch” hay “diễn biến hòa bình” nói cho cùng nó đến từ tâm tưởng hẹp hòi, nông cạn thiếu tri thức về thế giới và loài người của các ông mà thôi. Và nếu nghiêm túc nhìn lại, các ông sẽ thấy, những khái niệm đó chỉ có tác dụng khi các ông vu cáo chính trị lẫn nhau hoặc dùng để nhẫn tâm tàn ác khép tội nhân dân, chứ tuyệt nhiên các khái niệm đó không bạn bè quốc tế nào công nhận hay đồng tình. Thậm chí, nó còn làm hại các ông trên bình diện ngoại giao quốc tế.
Nói nôm na, một kẻ yếu kém, bệnh tật, ghẻ lở đầy mình và không thực tâm, chân thành thì dù có ba hoa lời lẽ gì ở đâu cũng không ai tin và giúp đỡ. Người ta quan tâm đến hắn vì thật ra thương cha mẹ vô tội của hắn mà thôi.
Việc đầu tiên và cần nhất hắn phải làm là tập cách tránh xa người bạn to xác, xấu xa đã được điểm mặt chỉ tên, để có không gian, có sự tĩnh lặng yên tương đối mà nhìn lại sự thật về con người mình. Sau đó, thành tâm ăn năn hối cải, dựa vào bạn bè tốt mà học tập, tu dưỡng vươn lên một cách chân thành với nỗ lực hết mình. Đó là con đường duy nhất để trở thành con người có nhân cách tốt, có tư cách chân chính cũng như một sức mạnh thể chất, tinh thần đủ mạnh mẽ để làm chủ được bản thân mình, cứu vớt số phận mình dựa vào một cộng đồng những người bạn tốt văn minh, tiến bộ hơn ! Ông hiểu ý tôi chứ ?
*
Nếu ví ASEAN như bó đũa thì thực tế thời gian qua cho thấy có chiếc đũa chịu ảnh hưởng của nước lớn ngoài khu vực đã làm suy yếu bó đũa?
– Bất cứ đất nước nào, dân tộc nào cũng phải lo cho lợi ích của mình. Người phương Đông có câu “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. ASEAN có lợi ích chung, quan tâm chung trên nhiều lĩnh vực, trong đó nổi lên vấn đề hòa bình, ổn định và an ninh – an toàn hàng hải. Như vậy trong cách vận hành cũng như những vấn đề mà ASEAN đặt ra phải chứng minh được thật sự là tổ chức có đóng góp tích cực về hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển khu vực. Mỗi quốc gia thành viên phải có trách nhiệm với ASEAN và ASEAN phải có trách nhiệm với từng thành viên trên cơ sở đoàn kết. Nếu “tan đàn xẻ nghé” thì cái lợi chung không còn và cái lợi riêng cũng nhất định sẽ bị ảnh hưởng.
Việc một tuần sau khi hội nghị các bộ trưởng ngoại giao không ra được tuyên bố chung chỉ vì những bất đồng trong cách đề cập vấn đề biển Đông, các nguyên thủ ASEAN đã lại đồng lòng ra bản “Tuyên bố sáu điểm về biển Đông” đã chứng minh sự đồng thuận vì mục đích chung, lợi ích toàn cục vẫn là mục đích cao nhất mà các quốc gia ASEAN hướng đến
Bộ đội Trường Sa luôn sẵn sàng bảo vệ chủ quyền đất nước – Ảnh tư liệu
“Tất cả đều bày tỏ sự lo ngại”
* Qua tiếp xúc với quan chức quốc phòng các nước trong ASEAN, ông thấy phản ứng của họ đối với những diễn biến gần đây xung quanh vấn đề biển Đông như thế nào?
– Tất cả đều bày tỏ sự lo ngại.
Trước hết là trước những tuyên bố rất khó hiểu của Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông, chẳng ai có thể chứng minh nổi nó từ đâu ra, trên cơ sở pháp lý nào, được quản lý và sử dụng ra sao trong suốt bề dày lịch sử?… Và liệu còn “đường…” nào nữa không mà họ sẽ đưa ra trong tương lai? Và không dừng lại ở đó, mà vấn đề quan trọng hơn là Trung Quốc có tuân thủ luật pháp quốc tế không, có tuân thủ các điều ước và các quy tắc ứng xử của thế giới hiện đại hay không?
Bên cạnh đó sự hiện diện, can dự ồ ạt của Mỹ – theo đúng kiểu Mỹ – đem lại sự hứng khởi ban đầu cho một số nước, nhưng cũng làm xuất hiện những quan ngại. Mỹ nói là can dự vì hòa bình, ổn định và phát triển, nhưng sao chưa thấy gì về kinh tế, văn hóa mà chỉ thấy đông tàu chiến, máy bay quá? Ngay đối với cả những nước đồng minh thân cận của Mỹ, họ cũng tự hỏi (và có những nước đã hỏi ra miệng): Liệu các ông đến, rồi đến lúc nào đó các ông lại đi không? Và đôi khi những bài học trong lịch sử được nhắc lại: Liệu các “ông lớn” đến lúc nào đó lại thỏa hiệp trên lưng mình không ?
* Ý kiến: Sau rất nhiều kinh nghiệm ê chề từ sự nông cạn, ngây thơ của mình, Đảng ta rồi cuối cùng cũng tự đặt ra được câu hỏi này. Nhưng các ông biết nghĩ như thế, thì cũng hãy nhớ rằng, từ những việc các ông làm bấy lâu nay, nhân dân cũng đã đặt câu hỏi: “Liệu Đảng rồi đến lúc nào đó lại thỏa hiệp với Tàu, trên lưng của nhân dân không?” (Thành Đô 90, Bắc Kinh, Hà Nội 90 đến nay?).
Trong nội khối, các nước châu Á – Thái Bình Dương, trong đó trọng tâm là Đông Nam Á, cũng gợn lên những lăn tăn về sự đoàn kết, thống nhất, vai trò trung tâm của ASEAN liệu có đứng vững được không khi thì cái gậy, khi thì củ cà rốt của các ông lớn đua nhau xòe ra trước mặt từng nước, tùy theo hoàn cảnh, điều kiện, thời điểm… (mà thời đại này họ sử dụng các công cụ ấy khéo lắm, thành nghệ thuật cả rồi)…
Không nước nào trong khu vực lại không muốn vấn đề biển Đông được giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cụ thể là UNCLOS 1982, DOC, tiến tới COC. Không một nước nào không muốn sự can dự của các nước lớn mang lại hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế.
Vì vậy nước nào cũng quan tâm, cũng lo ngại, nhưng mức độ phát ngôn, phản ứng của mỗi nước khác nhau do nhu cầu của họ trong quan hệ quốc tế rất đa dạng, khi phát ngôn thì họ phải tính đến lợi ích của nước họ vào mỗi thời điểm nhất định.
Vấn đề của các nước trong khu vực là cần phải tìm được một tiếng nói chung, không áp đặt, không phương hại đến lợi ích của bất kỳ nước nào nhưng giữ cho được nguyên tắc của ASEAN về những vấn đề chung, đó là: Đồng thuận, đoàn kết, hợp tác. Vì hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, công khai minh bạch, tôn trọng lẫn nhau.
* Ý kiến: Cách đặt vấn đề như thế này sẽ sớm dẫn đến phá sản, kéo theo hàng loạt những sai lầm căn bản về sách lược và chiến lược.“Không phương hại đến lợi ích của bất kỳ nước nào là một khái niệm mơ hồ và không thể định lượng. Ông chỉ có thể nhìn thấy và nói đến những lợi ích hiện hữu bất biến từ góc nhìn của ông, nhưng đằng sau bức màn được trưng ra của các quốc gia trong cuộc còn có những lợi ích nhân nhượng, đi đêm giữa các bên và chỉ họ mới biết, ông tính sao về điều này ?
* Một số nhân sĩ trí thức cho rằng bảo vệ chủ quyền là công việc không phải của riêng Đảng và Nhà nước, người dân cũng phải chung tay. Ông suy nghĩ gì về cuộc biểu tình phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam?
– Trước đây tôi đã nói về vấn đề này và bây giờ vẫn nói rằng những cuộc biểu tình đó là không nên. Để đối phó với tình hình phức tạp trên biển Đông hiện nay, chúng ta cần một sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và Nhà nước cũng như giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Có thể người dân chưa thật hài lòng và yên tâm vì chưa được cung cấp đầy đủ thông tin nhưng tôi chỉ muốn nói với những người biểu tình nói riêng và tất cả người dân rằng những người có trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, quân đội không một ai chịu để mất chủ quyền lãnh thổ cả. Người dân phải tin vào điều đó.
* Ý kiến: Mọi niềm tin đều xuất phát từ việc làm được nhìn thấy ông Vịnh ạ. Xin ông đừng nói suông nữa. Mọi lo ngại của nhân dân là hoàn toàn đúng trên thực tế. Người dân không phải chỉ là không hài lòng như ông ngụy biện đâu, họ căm phẫn với dã tâm của TQ và phẫn nộ trước sự nhu nhược hèn yếu của Đảng và Chính phủ các ông. Đừng đổ lỗi chỉ cho việc các ông không và chưa cung cấp đầy đủ thông tin. Tôi sợ rằng, các thông tin còn lại các ông không dám và không bao giờ dám nói ra, vì nếu nói ra thì người dân sẽ tuyên bố xử tử các ông ngay. Chỉ bằng ấy thông tin ít ỏi được cung cấp nhỏ giọt từ các ông suốt hàng chục năm nay thôi, còn lại đa phần là do nhân dân tự quan sát thái độ ứng xử của các ông mà kết luận rằng các ông nhu nhược, hèn yếu. Khách quan mà nói, điều đó tuyệt đối chính xác.
Các ông coi thường nhân dân và quyền của nhân dân, nên hành xử tùy thích. Kết quả như các ông đã thấy, các ông luôn miệng nói các ông tinh khôn, khéo léo, hành xử đúng, vậy tại sao biển cứ mất, đảo cứ mất, thậm chí biên giới lãnh thổ cũng bị cắt xén, thua thiệt. Các ông có giỏi, có minh bạch thì chứng minh rằng những điều nhân dân nghi ngại kia là sai, bằng bản đồ, bằng số liệu cụ thể đi ?
*
Có thể đất nước ta có tham nhũng, lãng phí, có tiêu cực, có thể một bộ phận cán bộ suy thoái về đạo đức.
* Ý kiến: Tại sao đến giờ này ông vẫn còn dùng giả thuyết „ tại sao“, ông có khác gì con lạc đà rúc đầu vào cát không ?
nhưng tuyệt đại đa số nhân dân ta không ai có thể quên đi lợi ích quốc gia dân tộc, quên đi chủ quyền lãnh thổ.
* Ý kiến: Ông dùng từ nghe có vẻ hợp lý đấy, nhưng không được đánh tráo khái niệm, tuyệt đại đa số chứ không phải tất cả! Như vậy, vẫn còn một bộ phận, dù chắc chắn là nhỏ thôi, bên cạnh cái tuyệt đại đa số ấy vì cái ghế, cái quyền của mình, vì muốn cầm ghế, cầm quyền, nhưng vì năng lực kém, đạo đức kém, không chính danh, không chính đạo, nên sợ bị dân kéo xuống, sợ bị lật ngang mà cần đến TQ để vững chân, vững ghế thì ông tính sao? (Cái này lịch sử đã chứng minh rồi đấy! Nếu giả sử ông Hoàng Văn Hoan khi xưa mà chẳng may lên chức TBT Đảng ta, thì VN sẽ ra sao?).
Biểu tình bây giờ sẽ gây mất ổn định.
* Ý kiến: Lại là một mệnh đề hết sức sai trái, hời hợt về cả hai mặt nhận thức và thực tiễn, đồng thời thể hiện đậm nét não trạng vi phạm nhân quyền của thứ lãnh đạo vì mình, vì quyền của mình
*
Trong khi đó đất nước ta đang hơn bao giờ hết cần ổn định, cần sự đồng thuận để phát triển, để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
* Ý kiến: Có thật là hơn bao giờ hết cần… để phát triển, để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ không? Chỉ nói riêng hơn 6 năm nay, các ông có mọi thứ trong tay, một nền kinh tế chắc chắn, ổn định, trên đà tăng trưởng tích cực, lành mạnh như thế, nay đi xuống thê thảm như thế nào? Chủ quyền lãnh thổ quốc gia ngày càng bị xâm phạm, không chỉ ngư dân bị bắt, bắn giết, hành hung ngay trên lãnh thổ quốc gia, mà cả tàu kinh tế của Chính phủ cũng bị xâm hại ngay trong khi các ông đang tay bắt mặt mừng với họ bên bàn tiệc sang trọng và những lễ nghi hoành tráng tiêu tốn tiền bạc của nhân dân, các ông nói đi, ngoài việc thăm viếng qua lại tùy tiện, dày đặc, vô bổ, tốn kém, các ông đã nói gì, làm gì để bảo vệ nhân dân, bảo vệ chủ quyền và bảo vệ ra sao ?
Hay thật ra các ông có bảo vệ không ?
Các ông cần hòa bình, ổn định để trục lợi cho riêng mình, cho gia đình mình và cho các nhóm lợi ích mà mình đẻ ra, đồng thời dùng cái hòa bình, ổn định đó hòng củng cố cái quyền lực mà anh đang nắm giữ. Biểu tình là đụng đến những cam kết giữa các ông với Đồng chí anh em bên kia, đi ngược lại quyền lợi đồng thuận của các ông với họ, chứ chẳng có nguy cơ nào cho tổ quốc cả.
Ngược lại, các cuộc biểu tình của nhân dân như vừa qua củng cố và phát triển lòng yêu nước, bồi đắp nhiệt tâm đi tìm giải pháp tháo gỡ cho nguy cơ bị xâm lược hiện nay. Đồng thời làm ấm lên lòng yêu nước nồng nàn đã bị các ông vùi dập, ngăn chặn bưng bít bằng sự thờ ơ vô cảm, bằng chủ nghĩa quan liêu, chủ nghĩa lợi ích cá nhân bấy lâu nay.
*
Chúng ta trân trọng tình cảm, ý chí của những người thật sự biểu tình vì yêu nước. Nhưng cũng phải thấy rằng với những ai có dã tâm độc chiếm biển Đông thì họ sẽ viện cớ biểu tình để xuyên tạc thiện chí của Việt Nam, xuyên tạc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình của Việt Nam.* Ý kiến: Lại một suy diễn tùy tiện và sai trái nữa. Đâu cứ phải biểu tình là không thể hiện thiện chí. Thiện chí với bạn chính là bày tỏ thái độ một cách chân thực và thẳng thắn để bạn biết sai mà sửa, nếu họ là bạn bè thật, và ta có thiện chí thật, làm sao họ có thể xuyên tạc được thiện chí ấy.
Ở phương diện quốc gia, trên phạm vi toàn xã hội, biểu tình là hình thức bày tỏ chính kiến tối ưu nhất, phổ biến nhất mà toàn nhân loại đều biết, đều hiểu, đều coi là biểu hiện bình thừơng của một quốc gia có văn hóa, có quyền con người thật sự. Với nước ta quyền biểu tình đã ghi trong tất cả các hiến pháp từ khi thành lập nước đến nay. Tại sao các ông lại có thể nói lệch lạc và ngụy biện như vậy?
Còn nếu họ xuyên tạc thiện chí của ta, thì liệu họ có còn xứng đáng để ta xưng tụng là Đồng chí tốt, Anh em tốt được nữa hay không? Biết họ xấu bụng như thế nhưng ngoài miệng ta vẫn thơn thớt nói cười ngon ngọt thì ta là thứ người gì?
Ở phía của người TQ, họ cũng luôn nói họ có chính nghĩa và cơ sở lịch sử, phái lý, họ cũng sẽ nghĩ, ta chơi với họ, nhưng lại suy diễn họ xấu xa như vậy, liệu họ sẽ coi chúng ta ra gì ?
Nói theo cách nào, nghĩ theo cách nào cũng thấy những lời lẽ và cách tư duy mà ông thể hiện ra đại điện cho Đảng, Chính phủ và Nhà nước hiện nay là suy nghĩ của kẻ tiểu nhân, không đường hoàng, nghĩ một đằng nói một nẻo, nói một đằng, làm một nẻo. Chẳng trách vì thế dân TQ, dân Campuchia luôn nghĩ xấu và vơ đũa cả nắm về Việt Nam, dân tộc Việt Nam, con người Việt nam.
*
Vậy thì ai đang chờ biểu tình và biểu tình có lợi cho ai?
* Ý kiến: Với cách tiếp cận như thế, ta có thể thấy rằng, biểu tình hòa bình như vừa qua là vô cùng cần thiết cho đất nước, cho dân tộc, cho toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ hàng xóm láng giềng lâu dài. Tuy vậy, rõ ràng nó lại không có lợi cho những cam kết (riêng) của Đảng ta hay một số Lãnh đạo ta với Trung Quốc, và đằng sau cái đó là gì thì người dân đều hiểu. Điều căm phẫn và đáng lên án nhất là không có lợi cho riêng họ và những cam kết của riêng họ với phía bên kia qua những chuyến ngoại giao “đi đêm”, nhưng họ lại luôn ra rả là ko có lợi cho đất nước lấy đó làm lý do và cấm đoán, bắt bớ, đàn áp nhân dân một cách thản nhiên.
*
Nhìn lại thời gian qua, có một vấn đề nổi lên là những thông tin không chính thống, không đầy đủ và không chính xác trên mạng Internet về tình hình đất nước, về nội bộ Đảng và Nhà nước.
* Ý kiến: Chính những thông tin u u minh minh, chung chung theo kiểu „ theo chiều hướng tích cực “dần từng bước được củng cố” của đồng loạt các Loa phóng thanh dùng tiền Thuế của dân hiện nay đang phát ra hiện nay… mới là kiểu thông tin lừa gạt nhân dân, ngụy biện, không chính xác, không đầy đủ. Và những thông tin trên Internet về tình hình đất nước, nội bộ Đảng, về các Lãnh đạo X, Y, Z xấu xa, biến chất, hư hỏng đã bổ sung tích cực và đầy đủ cho nhân dân được biết về sự thật luôn bị che dấu đó.
*
Những loại thông tin này rất nguy hiểm, nhất là với những người dân chưa quen với chiến tranh mạng, chưa quen với cuộc sống thế giới phẳng.
* Ý kiến: Chính các vị mới là người chưa quen, chưa hề quen. Cách ứng xử cấm đoán, bắt bớ, doạ nạt, đàn áp bẩn thỉu của quý vị với nhân dân, với những người yêu nước chân chính và dũng cảm vừa qua đã nói lên điều đó. Nhân dân thừa trí tuệ và kinh nghiệm để biết được lãnh đạo nào là tốt, lãnh đạo nào là xấu, ai tìm mọi cách đưa hết đứa con này đến đứa con khác vào ghế lãnh đạo, họ cấu kết ngoại bang ra sao, trục lợi thế nào…
*
Chính vì vậy, cần phải làm sao để tất cả người dân Việt Nam có được nhận thức chung về những vấn đề có tính sống còn của đất nước, để từ đó tạo ra sức mạnh đồng thuận đưa đất nước đi lên.
* Ý kiến: Đúng, chúng tôi thấy rằng cùng cần điều này. Nhân dân cần có nhận thức chung, đúng đắn và khách quan về tình hình yếu kém của của Đất nước dưới sự lãnh đạo tài ba của quý vị, và để đất nước đi lên được, việc trước tiên là phải kéo quý vị xuống mặt đất, trở lại mặt đất, bắt các vị khiêm tốn trở lại, làm cho các vị biết điều hơn, biết nghĩ và biết thực hiện đúng hơn chức trách được dân giao phó hơn nữa. Và nếu quý vị không chịu trở lại mặt đất, có lẽ người dân dù phải đổ máu như cha anh họ, cũng buộc phải kéo các vị xuống, đào huyệt hôn chặt quý vị để những kẻ kém cỏi, biến chất, dối trá, xấc xược như quý vị vĩnh viễn không còn đội mồ sống lại mà làm khổ đất nước, làm khổ nhân dân được nữa!
*
Thế mạnh và công cụ đấu tranh quan trọng nhất của chúng ta lúc này là chính nghĩa, là tuân thủ luật pháp quốc tế, là quyết tâm rất rõ ràng giải quyết bằng biện pháp hòa bình.
* Ý kiến: Thật mơ hồ và nực cười! Ông Vịnh tư duy như vậy mà đòi làm chiến lược, sách lược. Chính ông vừa thừa nhận rằng Lợi ích kinh tế, lợi ích quốc gia mới là duy nhất, bất biến và lớn nhất, vậy thì làm gì còn cái gọi là Chính nghĩa chung chung nào đó nữa để mà nước ngoài ủng hộ ta, để ta tự mãn, tự cười trước TQ là ta có chính nghĩa?! Nói như ông, Trung Quốc không có chính nghĩa của chính họ, từ phía tư duy của chính họ sao?
Cái thế yếu của chúng ta thể hiện trên mọi phương diện: Không phải Thành viên TT HĐBA LHQ; kinh tế yếu kém, quặt quẹo, nghèo đói; dân số và quy mô lãnh thổ chưa nổi 1/10 so với họ, quân đội trang bị vũ khí thô sơ, nghèo nàn, lạc hậu cả về chất và lượng…v.v.. và v.v..
Chúng ta còn gì khác ngoài đấu tranh bằng luật pháp và trong hòa bình ?
Vậy mà cái đường cùng, ngõ cụt ấy thoắt một cái ông biến thành thế mạnh nhờ kèm thêm một yếu tố cực kỳ mơ hồ là chính nghĩa tự phong. Thế giới họ không nghĩ như vậy đâu ông Vịnh ạ. Bài học về từ “chính nghĩa” khi chúng ta chiếm đóng Campuchia chưa lâu vẫn đang còn nóng hổi đó ông. Và chúng ta có “chính nghĩa” tại sao LHQ lại ra nghị quyết phản đối, yêu cầu chúng ta rút quân. Và sau sự việc đó, từ người hùng chống Mỹ, chúng ta trở thành kẻ xâm lược?
*
Chỉ duy nhất một điều chúng ta không nhân nhượng đó là chủ quyền lãnh thổ.
* Ý kiến: Ông nói nghe có vẻ đúng, nhưng nếu quý vị đớn hèn nhân nhượng mọi thứ khác – và đương nhiên vẫn nói ra rả nói rằng cái không nhân nhượng duy nhất là chủ quyền, thì thực ra cái nhân nhượng chủ quyền ấy đã xảy ra từ lâu rồi – vì đơn giản nó chẳng qua là hệ quả đương nhiên của việc nhân nhượng quá nhiều các thứ khác (của nhân dân ) để có lợi cho quý vị mà thôi !
Có thế mạnh đó.  Vâng, xin thưa, như đã nói ở trên chưa bao giờ chúng ta có thế mạnh đó, và thế mạnh đó thật ra chưa và cũng không bao giờ tồn tại. Hỡi người làm chiến lược cả tin và nông cạn kia, xin đừng ảo tưởng trẻ con như vậy chúng ta sẽ có được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế thật nực cười và mơ hồ vô cùng ! Thưa ông Vịnh, đã qua rồi cái thời chống Mỹ xa xưa, thế giới ngày này không còn ngây thơ như thế nữa. Để ủng hộ quý vị, như đã nói, trước tiên là lợi ích của họ, và sau đó người ta nhìn xem quý vị đối xử với nhân dân vĩ đại và đáng thương của quý vị ra sao đã, chúng ta cũng sẽ dần dần làm cho Trung Quốc hiểu những điều kiện không nhân nhượng mà Việt Nam đưa ra là hoàn toàn chính đáng Thật là ngây thơ đến mức đáng thương ông Vịnh ạ. Tôi hỏi ông, từ năm 1974 đến nay, quý vị đã làm cho Trung Quốc hiểu được những gì, hay kết quả là ngày càng mất nhiều hơn biến giới đất liền, biển đảo, ngư trường và kinh tế, chính trị, văn hóa ngày càng bị lệ thuộc ?
Mục đích của chúng ta là bảo vệ chủ quyền một cách chính đáng theo luật pháp quốc tế quy định mà không để xảy ra xung đột đáng tiếc Ông Vịnh và các cấp trên của ông chưa quên liên tiếp các cuộc xâm lược lớn nhỏ toàn diện trên đất liền , trên biển của TQ suốt từ năm 1974 đến nay hay sao? Hay là lúc đó, các anh quên ko nói “không để xảy ra xung đột đáng tiếc” nên họ cứ nhè Việt Nam mà đánh?
*
Vậy yếu tố “ý thức hệ” có liên quan như thế nào trong việc giải quyết những vấn đề tồn tại giữa Việt Nam – Trung Quốc, đặc biệt là vấn đề tranh chấp trên biển?
– Rõ ràng di sản quý báu hàng đầu mà Việt Nam và Trung Quốc có được chính là sự tương đồng ý thức hệ. Điểm tương đồng đó đã tạo ra mối quan hệ đặc biệt giữa ta và Trung Quốc, nhất là thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
* Ý kiến: Phải nói ngắn gọn thế này mới đúng: Di sản lớn nhất từ việc tương đồng ý thức hệ với Trung Quốc chính là cội nguồn của mọi đau thương tang tóc xảy ra suốt từ sau năm 1954 đến hiện nay.
Với lý do tương đồng ý thức hệ mà TQ đã “phanh” chúng ta lại sau chiến thắng Điện Biên Phủ để chúng ta không làm nốt cái việc cực kỳ đơn giản nữa là quét nốt phần đồn bốt còn lại của Thực dân Pháp thực ra đã chuẩn bị sẵn sàng ngả súng đầu hàng trên toàn lãnh thổ VN sau cú ngã ngựa kinh hoàng ở căn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Với lý do tương đồng ý thức hệ mà TQ nhảy tót vào hội nghị Giơ ne vơ ngang nhiên vạch ra Vĩ tuyến 17 thay cho cả Hồ Chủ tịch và TT Phạm Văn Đồng, tạo ra vùng đệm an toàn cho họ )và bắt đầu từ đó vứt súng đạn vào tay chúng ta để thực hiện kế hoạch hiểm độc dài hạn của họ “Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng…”. Dẫn đến việc chúng ta rơi vào cảnh nồi da xáo thịt suốt 20 năm trời dưới cái khẩu hiệu “vẻ vang” Đánh Mỹ cứu nước !
Với lý do tương đồng ý thức hệ mà ngay khi quân đôi miền Bắc tiến sát Sài Gòn rồi, TQ vẫn còn ngăn cản Miền Bắc không nên giải phóng Sài Gòn, đồng thời ĐS TQ ngang nhiên điện thoại cho Tổng thống Miền Nam VN Dương Văn Minh khuyến nghị không nên đầu hàng, TQ sẵn sàng can thiệp với miền Bắc để giữ lại một chính quyền Miền nam thân Trung Quốc… Tất nhiên, miền Bắc lúc đó đã rút ra bài học từ sự can thiệp vào Điện Biên Phủ như nói trên mà phớt lờ sự can dự đểu cáng này của TQ, và may thay TThống Dương Văn Minh cũng là một người yêu nước, thương dân, không hèn đớn như quý vị bây giờ..
Không đạt được mục tiêu lớn kia, TQ tiến hành nốt mục nhỏ hơn: Đánh chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH và cai quản nó cùng với ý thức hệ tương đồng với miền Bắc Việt Nam cho tận đến ngày nay !
Ông Vịnh, ông còn gì để lừa bịp nhân dân chúng tôi về di sản quý báu “ý thức hệ” nữa không ?
Nếu không trả lời được câu hỏi đó của ông, thì chúng ta đánh bải ngửa luôn : Di sản quý báu đó là quý báu với Nhà cầm quyền độc tôn, toàn trị các ông thôi, vậy nên các ông liều mạng bảo vệ bằng mọi giá phải không ? Nhân dân chúng tôi phỉ nhổ từ lâu vào thứ di sản bẩn thỉu ấy. Xin ông đừng gắp lửa bỏ tay nhân dân như vậy.
*
Nền tảng di sản đó chi phối cách ứng xử của hai nước. Một trong những đặc trưng của ý thức hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nếu có được một người bạn XHCN rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.* Ý kiến: Ông càng nói tôi càng thấy ông vô cùng nông cạn, dại dột và mơ hồ, đồng thời cũng thể hiện rõ bản chất „gian manh, xảo quyệt“ của các ông – cách dùng từ của truyền thông Trung Quốc với Việt Nam : Trong khi một mặt thì nói đểu, nghĩ đểu về bạn, nhưng một mặt lại giả vờ tỉnh bơ xưng tụng bạn là „người bạn lớn, người đồng chí, anh em thân thiết“ để lợi dụng người ta. Điều này không chỉ đứa trẻ con VN nghe cũng hiểu, đọc cũng thấy, mà cả đứa trẻ TQ cũng biết, chứ chưa nói đến nhà cầm quyền của họ, vậy mà ông Vịnh vẫn thản nhiên nói ra rả như vậy là sao ?
*
Tôi nghĩ rằng khi đã là người cộng sản với nhau, để giải quyết bất cứ vấn đề nào đó mà gọi nhau là đồng chí, còn hơn là quay lưng không nhìn nhau hoặc đập bàn đập ghế “ngài” và “tôi”.
* Ý kiến:  Với người Đồng chí tốt TQ thì ông. nhường nhịn và tình cảm như thế, vậy tại sao với Miền Nam ruột thịt cùng một Mẹ sinh ra trước kia, các ông hết dùng chính sách khủng bố, chiến tranh du kích phá hoại, rồi đến tổng tiến công 1968, 1975 khủng khiếp như thế, và với nhân dân bây giờ thì các ông bắt bớ đàn áp, ứng xử vô văn hóa và thô bỉ tiểu nhân đến thế?*

Nhân đây, tôi cũng muốn nhắc lại rằng về mục tiêu của đối ngoại, lần đầu tiên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ trong cương lĩnh và báo cáo chính trị tại đại hội Ðảng.

* Ý kiến: Như vậy phải chăng chính ông đang lên án thế hệ cộng sản cha anh trước đây đẻ ra các ông, đưa các ông lên nắm quyền hiện nay, là có đường lối đối ngoại „ không vì lợi ích quốc gia, không vì lợi ích dân tộc“ ?Ông thừa nhận điều đó ?

Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Ðại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh’”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Dự báo thêm nhiều nước can dự
* Nhìn lại hoạt động đối ngoại trong năm vừa qua, ông ấn tượng điều gì?
– Năm 2012 là năm có nhiều sự kiện ngoại giao quan trọng và cũng là năm có nhiều lễ kỷ niệm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước. Một trong những sự kiện được xem mở đầu cho một năm kỷ niệm ngoại giao đầy thành công của chúng ta mà tôi tham dự là lễ khánh thành khu di tích Đoàn 125 Campuchia tại Long Giao, Đồng Nai ngày 2-1-2012.
Tôi đã từng chiến đấu, công tác gắn bó với Campuchia, nhưng lúc đó quả thật tôi chưa hiểu hết, chưa nhận thức hết được tầm vóc vĩ đại của cuộc chiến tranh mà chúng ta không mong muốn, cuộc chiến tranh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ nhân dân ta, và sau đó là cuộc chiến tranh để cứu cả một dân tộc khỏi họa diệt chủng do Khmer Đỏ gây ra.
* Ý kiến: Tương tự như thế, cũng chính vì não trạng “lẫn lộn bạn thù, tù mù chiến lược” như của ông Vịnh và Đảng ta mà chúng ta để cho quân đội của “ĐCS Khơ me đỏ anh em” tàn sát hàng chục nghìn người dân vô tội ở các tỉnh biên giới Tây Nam, và sau đó kéo cả nước VN bị sa lầy vào một cuộc chiến tranh quá mức cần thiết của phản ứng tự vệ, dẫn đến tổn thất thua thiệt, kiệt quệ nặng nề trên mọi góc độ, nhân lực, vật lực, kinh tế, ngoại giao, chính trị trên cả phương diện song phương, đa phương, khu vực và quốc tế đến như vậy.
Sự “lẫn lộn bạn thù, tù mù chiến lược” đó đưa VN ta đi hết sai lầm này đến sai lầm khác, mà kế tiếp theo đó là đẩy đất nước vào họng súng thí quân của bành trướng Trung Quốc, làm cho hàng trăm ngàn bộ đội, dân thường vô tội phải chết oan uổng, toàn bộ các tỉnh biên giới phía bắc bị tàn phá, hủy diệt. Sau cái việc thiếu tỉnh táo, khôn khéo để chuốc họa vào thân năm 1979 này là liên tiếp các cuộc đụng độ lớn nhỏ ở Biên giới với ngừơi “Đồng chí – Anh em” làm chúng ta mất quân, mất đất, mất đảo cho đến mãi đến cuối thập kỷ 90, mà kết cục là biên giới phía Bắc nước ta ngày càng… gần thủ đô Hà Nội hơn, Mạc Ga, Cô Lin, Len Đao, chủ quyền Biển Đông ngày càng rơi vào tay giặc nhiều hơn…
*
Qua lễ kỷ niệm này, được nghe tâm sự của những người bạn Campuchia tôi hiểu rõ hơn, tự hào hơn về đất nước ta, về khả năng tự bảo vệ mình đồng thời sẵn sàng giúp đỡ bạn bè, láng giềng khi gặp nguy hiểm, bất chấp những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt.* Ý kiến: Ông Vịnh có bao giờ được nghe đến những oán giận căm thù của dân Campuchia với VN được nói ra như chúng tôi được nghe hay không  Về những những tội ác, cướp bóc, cưỡng đoạt, ức hiếp trong suốt thời gian chiếm đóng 80-89 mà chúng ta gây ra trên đất bạn. Và tại sao bên cạnh cái mặt miễn cưỡng chấp nhận về việc giải phóng họ khỏi Polpốt, trong lòng nhân dân Campuchia còn rất nhiều oán hận khác không bộc lộ trực diện ra với Việt Nam? Điều này các ông có biết hay không, nếu không biết, các ông có dám nói đến để giải thích hay chứng minh tính chính nghĩa của mình không ?
*
Chính từ tinh thần quốc tế trong sáng này, từ những hi sinh xương máu này chúng ta mới có được vị thế quốc tế, có được hòa bình ổn định và quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng như hiện nay.
* Ý kiến: Chúng ta bảo vệ biên giới của chúng ta khỏi xâm lược, tàn sát của quân Polpot là mục tiêu chính đáng, nhưng việc tiến vào nước bạn là miễn cưỡng, và chiếm đóng trong thời gian tới hơn 10 năm là một sự sai lầm về chiến lược, sai trái về mặt đạo lý, xin hãy thẳng thắn, đừng đánh tráo và vo cục tất cả quãng thời gian dài như vậy với biết bao sự kiện sai đúng, đúng sai thành chỉ là “tinh thần quốc tế trong sáng”…
*
Điều này càng thể hiện rõ trong những ngày này khi chúng ta sống trong không khí kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Mỗi người cảm nhận chiến thắng oanh liệt này một cách khác nhau, riêng tôi có cảm nhận là một quốc gia dù nhỏ, dù còn nghèo, còn khó khăn nhưng khi người dân có quyết tâm, có được lòng tin vào khả năng bảo vệ Tổ quốc, có khát vọng chiến thắng để giành lấy hòa bình thì họ sẽ đánh bại mọi kẻ thù xâm lược dù mạnh đến đâu.
* Ông dự liệu như thế nào về tình hình khu vực trong năm 2013, nhất là vấn đề biển Đông?
– Tình hình khu vực sẽ tiếp tục sôi động theo những can dự của các nước lớn vào khu vực. Ngoài những gương mặt quen thuộc, dự báo năm nay sẽ có những quốc gia khác bước chân vào rõ ràng hơn như Ấn Độ, Nga, các nước lớn khác như Anh, Pháp, Đức, Canada…
Họ sẽ đến đây, mong muốn can dự vào vì họ thấy rằng trong “thế giới phẳng” thì lợi ích không phải nằm sau phạm vi biên giới, mà lợi ích nằm ở toàn cầu nếu biết cách ứng xử. Theo đó, xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển của khu vực sẽ có chiều hướng sôi động hơn, tốt hơn. Vị thế của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam, sẽ tiếp tục được nâng cao.
Vấn đề biển Đông vẫn sẽ luôn được quan tâm trên các diễn đàn song phương và đa phương không chỉ của các nước châu Á – Thái Bình Dương, không chỉ của các nước có biển Đông. Việc tranh chấp lãnh thổ, như nhiều lần đã nói, nếu là tranh chấp hai bên thì hai bên giải quyết, tranh chấp nhiều bên thì nhiều bên giải quyết, nhưng cần nằm trong mục tiêu chung là hòa bình, ổn định không xung đột và cần có sự hợp tác giữa các nước.
* Ý kiến: Ông dùng từ “sôi động” – từ góc nhìn vốn dĩ để mô tả một lễ hội quảng bá sản phẩm hoặc chương trình ca nhạc tài trợ ngoài trời, với một phong cách nhìn nhận tình hình rất bàng quang như thể người đi xem trẩy hội….
Tôi không đồng tình với thái độ đó, nó cho thấy một não trạng cơ hội của kẻ yếu kém nhưng lại luôn sẵn sàng trong tư thế “ngư ông đắc lợi” mà quên mất chính mình và số phận nhân dân mình, đất nước mình đang treo lơ lửng trên những sóng gió ấy.
Vẫn lối nói quen thuộc theo cung cách chỉ đạo của Thủ tướng X: “…cần nằm trong mục tiêu chung là hòa bình, ổn định không xung đột và cần có sự hợp tác giữa các nước” và cũng là thái độ trăm người như một trong hệ thống chính trị VN hiện nay, ông làm cho tôi sợ rằng, với cách tư duy như thế của ông và hệ thống của ông, các đối tượng hợp tác để đạt được mục tiêu chung (giữa họ) là hòa bình ổn định và cùng có lợi rồi sẽ lại là các nước lớn và ngoài ra là các nước nhỏ nhưng khôn khéo khác, chứ hoàn toàn không có nước Việt Nam ta trong đó.
“Nói một đằng, làm một nẻo”, “khôn nhà, dại chợ”, “ác với dân, hèn với giặc”, “ngửa tay xin tài trợ nhưng nói xấu lẻo lẻo sau lưng”…tất cả những phẩm chất lưu manh cộng sản ấy sẽ giết chết các ông, giết chết đất nước này nếu các ông không nhìn lại cho nghiêm túc, chứ đừng nói gì đến chính nghĩa, và quốc tế ủng hộ, v v..và ..v.v.. như các ông vẫn leo lẻo nói quen mồm theo thói quen của cha anh từ thời chống Mỹ. Thế giới thay đổi từng giờ phút, người làm chiến lược phải biết được điều đó. Sự thay đổi ấy nhanh đến nỗi kinh nghiệm đúng đắn thành công của ngày hôm qua có thể giết chết chúng ta vào ngày hôm nay, vì nó đã trở thành cũ kỹ và hoàn toàn không còn phù hợp nữa.
Mong ông ghi nhớ cho điều ấy.
*
– Thưa ông, ông muốn nói gì với ngư dân, nhất là ngư dân Việt Nam hoạt động ở vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa?
– Ngư dân Việt Nam có quyền hoạt động trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, trong đó có khu vực Hoàng Sa và Trường Sa, và có quyền đánh bắt ở khu vực biển quốc tế theo đúng luật quốc tế quy định. Đây là những quyền không ai có thể bác bỏ.
Có một điều quan trọng hơn, ngư trường của ngư dân là đất nước mình, ngoài chuyện đánh bắt cá, họ là những người trực tiếp đóng góp vào việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, những người ở trong bờ mang ơn họ về điều đó. Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của ngư dân đánh bắt cá ở những vùng như vậy.
Tuy nhiên, ngư dân không được làm những điều gì sai luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam.
– Ông có ước vọng gì cho năm mới 2013?
– Không có gì khác ngoài ước vọng chung của mọi người Việt Nam là đất nước ta tiếp tục ổn định, nền kinh tế ấm lên, đời sống khá hơn. Tôi mong đất nước ta tiếp tục mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, vị thế quốc tế của đất nước ta ngày càng được nâng cao, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc có bước phát triển tốt đẹp hơn, thúc đẩy hợp tác về kinh tế trên cơ sở hợp tác tốt về chính trị, từng bước giải quyết vấn đề biển Đông.
ĐÀ TRANG – VÕ VĂN THÀNH (thực hiện)
Nguồn Tuổi trẻ

Tiền Phong – Vì sao người dân ‘khoái’ ông Nguyễn Bá Thanh?

TPO – Người dân “khoái” ông Nguyễn Bá Thanh không chỉ bởi phong cách nói và làm cuốn hút, hết sức cụ thể và thiết thực, thậm chí thẳng đến mức nhiều khi làm cấp dưới toát mồ hôi…


Ông Nguyễn Bá Thanh giải đáp kiến nghị của dân. Ảnh: Nguyễn Huy.

Cũng đúng thôi, bởi những điều ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng vừa được Bộ Chính trị phân công làm Trưởng Ban Nội chính T.Ư, nói ra đều giống như mệnh lệnh, nhưng lại gần gũi và thiết thực với đời sống mỗi người dân, là động lực để biến nơi đây trở thành “Thành phố đáng sống nhất Việt Nam”.

Đã thành thông lệ, cứ mỗi khi ông Thanh đăng đàn nói chuyện hay tới mỗi kỳ đại hội HĐND thành phố sắp diễn ra, đa phần người dân Đà Nẵng đều có chung tâm trạng háo hức chờ đợi.

Người ta chờ không phải bởi có quá nhiều điều bức xúc cần phải giải quyết, người ta đợi không phải có quá nhiều điều trong cuộc sống cần phải đổi thay. Cái mà người dân chờ đợi ở đây chính là để nghe ông Bí thư sẽ nói gì, vì mỗi lời ông nói trước bàn dân thiên hạ đều gắn với những quyết sách quan trọng của thành phố, ảnh hưởng thiết thực đến cuộc sống người dân và làm cuộc sống của họ ngày một tốt lên.

‘Không biết mấy ổng làm kiểu chi?’

Mới đây thôi, tại kỳ họp HĐND thành phố Đà Nẵng, ông Nguyễn Điểu – Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường Đà Nẵng hồ hởi khoe: “Đà Nẵng được Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tôn vinh là một trong 20 thành phố sạch nhất thế giới”.

Nghe tin này, ông Thanh tỏ ra nghi ngờ: “Không biết mấy ổng chấm kiểu chi mà tui thấy chưa sướng lắm nghe. Chắc mấy ổng không đi vào chỗ mà hôm trước tôi và anh Huy (ông Trần Văn Huy – Bí thư quận Thanh Khê) lội vô ở ven sân bay. Mấy ông tới đó chắc không chấm điểm Đà Nẵng đâu. Úi chui cha, đô thị chi rứa mà là đô thị, ăn ở mất về sinh, rác rưởi vất tùm lum”.

Kỳ thật, đến được khen mà cũng chưa mãn nguyện. Dường như, cái hay nhất của ông Thanh làm mọi người thích thú ở chỗ đó. Ông thấy được cái vẫn còn hạn chế của thành phố, không tự vỗ ngực, dù đó là người khác khen; không tự cao tự đại để rồi dẫn đến tự mãn, mặc dù lời khen đó xét cho cùng cũng không phải không có sơ sở.

Tuy nhiên, cái hay của ông Thanh lại ở chỗ ông tự nhủ và “khích tướng” để mọi người làm tốt hơn: “Dù muốn hay không, họ cũng công bố rồi. Mình lỡ bị công bố nên phải làm cho tốt hơn, chứ làm không đạt là mang tiếng”.

Qua việc này, người dân lại càng thích ông hơn, bởi cái tính đi sâu sát, gắn bó với thực tế, với người dân lao động để tìm ra cái xấu, cái chưa tốt của thành phố, và đề ra những quyết sách có lợi hơn cho cuộc sống người dân, tốt hơn cho sự phát triển của thành phố.

“Không làm được thì nên từ chức”

Người dân “khoái” nghe ông Thanh không chỉ vì cái cách nói cuốn hút vừa dân dã, vừa dể nghe, dễ hiểu nhưng lại hết sức cụ thể và thiết thực. Nó không nặng nề kiểu Nghị quyết này, Thông tư nọ, chi bộ này, đồng chí kia, mà luôn đi thẳng vào vấn đề, không né tránh, không vòng vo, hết sức công khai và minh bạch.

Nhớ lại cách đây gần một năm khi ông Trần Văn Minh – nguyên Chủ tịch thành phố, mới được điều động ra làm Phó ban tổ chức TƯ và thành phố còn khuyết chức danh quan trọng như Chủ tịch, Phó chủ tịch và Giám đốc Sở Xây dựng, ông Thanh đã “đăng đàn” để nói chuyện với hơn 4.500 cán bộ chủ chốt.

Tại buổi nói chuyện này, rất nhiều người “không mời mà đến”, gồm cán bộ về hưu, người dân, cánh báo chí và được truyền hình trực tiếp… dẫn đến hội trường quá tải.

Tại đây, mỗi ứng viên vào những chức danh quan trọng trên đã được ông Thanh nêu lên và phân tích, mổ xẻ xem ông nào giỏi, ông nào tài và đâu là hạn chế của mỗi ông, để rồi cuối cùng, khi các chức danh trên được bổ nhiệm, đại đa số người dân đều đồng tình và cho là hợp lý và rất đúng người, đúng việc.

Có lẽ, đây cũng là địa phương duy nhất trên cả nước mà cái chức danh to nhất của địa phương được đem ra “bình” trước bàn dân thiên hạ.

Hay cũng mới đây thôi, khi nói về hiện tượng cướp giật lộng hành tại các thành phố lớn, ông Thanh cho rằng, để xảy ra tình trạng trên là “sự đáng xấu hổ” của chính quyền. Ông chỉ mặt điểm tên những cơ quan phải chịu trách nhiệm là chính quyền và công an.

Ông so sánh: “Ở Hàn Quốc hay Singapore có bao giờ người ta hô hào cả hệ thống chính trị phải vào cuộc khi tệ nạn xã hội xảy ra đâu, mà người đầu tiên phải chịu trách nhiệm là chính quyền và công an. Không làm được thì tự động xin từ chức đi, chứ đừng đổ lỗi cho tập thể, cho người dân. Trách nhiệm của chính quyền là phải đảm bảo cuộc sống bình yên cho người dân chứ sao lại cứ đổ lỗi cho người này, người nọ”.

Và cũng không ít lần trước thiên hạ, ông Thanh “răn đe” chính quyền: “Việc này là của chính quyền, nếu thấy có lợi cho dân thì phải làm ngay đi chứ, sao cứ phải chần chừ. Nếu các ông không làm tui sẽ dùng quyền Chủ tịch HĐND thành phố để quyết cho coi”.

Thế mới biết, để người dân đồng tình và nghe và làm theo không phải dễ. Muốn làm được điều đó, người lãnh đạo phải có cái tâm, cái tầm, công khai minh bạch và đặc biệt phải cương quyết thực hiện cho bằng được.

Phải thành thực mà nói, trong mấy năm qua, Đà Nẵng đã trở thành một địa phương có tốc độ phát triển vượt bậc, một “hiện tượng” về cải cách và phát triển kinh tế – xã hội trên cả nước, một mô hình để các nơi khác cần thiết phải suy ngẫm và noi theo.

“Thương hiệu” người đứng đầu

Nếu nói về lãnh đạo một tỉnh thành nào trên cả nước thì “Nguyễn Bá Thanh” chắc chắn là “thương hiệu” mà nhiều người biết đến. Đó là Bí thư thành ủy Đà Nẵng – ông Nguyễn Bá Thanh.

Người tán dương ông tài giỏi, xuất chúng, kẻ lại dè bửu chê bai ông chuyên chế, độc tài, nhưng tựu chung, bất cứ người dân nào của Đà Nẵng cũng phải tâm phục, khẩu phục mà công nhận: những gì ông Thanh làm được cho cái thành phố miền Trung này, để nơi đây trở thành “thành phố đáng sống” thì không cần bàn cãi.

Dù mỗi quyết sách mà Đà Nẵng đưa vào thực hiện đều có sự tham gia góp ý của nhiều “cái đầu”, tuy nhiên, những ý tưởng hay, những sáng tạo tốt bắt nguồn từ ông Thanh rất lớn. Nếu không có sự quyết liệt của ông Thanh, chắc chắn nhiều việc khó có thể mà thực hiện được.

Điều đầu tiên và cũng là thú vị nhất tạo ra “thương hiệu” Nguyễn Bá Thanh là sự mạnh mẽ, quyết liệt trong công việc. Trong bất cứ buổi họp hay nói chuyện nào, trong khi người dân thích thú và kéo đến rất đông để nghe ông Thanh, thì lãnh đạo các Sở, ngành lại rất “sợ” ông chất vấn.

Những vấn đề ông Thanh đưa ra rất cụ thể, sát thực và gần gũi với đời sống người dân, được hầu hết già trẻ, lớn bé quan tâm mong đợi. Trong khi đó, đây lại là những “bài toán khó” đối với lãnh đạo các Sở ngành, mà nếu không đi sâu sát, thì khó “giải được”.

Đã không ít lần, chính các vị “quan dân” này phải lúng túng “như gà mắc tóc”, khi ông Thanh nêu đích danh sự việc, địa điểm con người và yêu cầu phải có hướng giải quyết cụ thể, xác thực.

Tại một cuộc họp HĐND thành phố, khi bàn về lệnh cấm sử dụng Internet quá khuya trong các cửa hàng kinh doanh dịch vụ, vì xảy ra nhiều tệ nạn xã hội do thanh niên tụ tập đêm khuya chát chít và chơi các trò chơi bạo lực, một lãnh đạo Sở Thông tin truyền thông Đà Nẵng báo cáo lệnh cắt Internet từ 23h đến 5h sáng đang chờ phê duyệt và thuộc thẩm quyền của Bộ Thông tin – Truyền thông.

Ông Thanh ngay lập tức yêu cầu: “Tôi yêu cầu các ông phải làm ngay lập tức, tôi sẽ chịu trách nhiệm về việc này. Ở đây tôi to hơn các ông, nếu có ai cắt chức tôi sẽ là người mất chức trước. Những việc thấy có lợi cho dân, cho nước thì phải làm ngay chứ chờ đợi đến bao giờ”.

Cũng trong buổi họp hôm đó, một việc tưởng rất nhỏ nhưng ông Thanh đã làm rất quyết liệt, đó là khi hỏi Giám đốc Sở công an thành phố về số điện thoại nóng để người dân phản ảnh khi có sự vụ xảy ra.

Khi nghe xong, ông Thanh thủng thẳng: “Số điện thoại các ông cho là nóng mà sao lủng củng khó nhớ vậy, tôi nghe còn khó nhớ thì người dân sao mà nhớ nổi. Tôi yêu cầu ngay ngày mai bên viễn thông cấp cho công an một số khác thật đẹp, thật dễ nhớ để làm số điện thoại nóng. Số có đẹp, có dễ nhớ thì người dân mới gọi cho công an nhanh được chứ”.

Trong các cuộc họp, trong khi lãnh đạo các tỉnh thành khác hay nhắc đến câu “tôi nghe báo chí, người dân nói rằng…” thì cái mà mọi người nghe được từ ông Thanh lại là “hôm trước tôi đi ngang qua chỗ này… chỗ nọ và thấy…”.

Nếu chỉ xét về nội dung thôi thì 2 cụm từ trên quả không khác nhau là mấy, nhưng suy ra thì sự khác nhau là rất lớn, một bên là thụ động, chờ đợi người khác mách bảo mới biết, còn một bên là chủ động tìm hiểu và quan sát. Và rõ ràng do tự chủ động nên ông Thanh thấy rất rõ những cái hay, cái dở và đưa ra hướng giải quyết rất nhanh

Tại kỳ họp HĐND thành phố lần thứ 4 khóa VIII, ông Thanh đã yêu cầu Giám đốc các Sở phải đi sâu, đi sát cơ sở để nắm bắt tình hình thực tế của người dân, không chỉ chờ cấp dưới báo cáo lên mới biết.

Ông Thanh nhấn mạnh: “Lãnh đạo các Sở, ngành phải thực sự tâm huyết, hành động quyết liệt, tự chịu trách nhiệm trước lãnh đạo thành phố và nhân dân. Nếu cảm thấy mệt quá, không thể hoàn thành nhiệm vụ thì xin nghỉ, còn làm thì phải làm đến nơi đến chốn, không thể nói chung chung và trách nhiệm chung chung”.

Một câu chuyện có thật, nhưng cũng khá hài hước do chính ông Thanh kể ra đó là cách đây mấy năm khi mà Sân bay Đà Nẵng mói vừa được khởi công, do nhìn bản thiết kế thấy xấu và chưa hợp lý nên ông Thanh đã cho mời lãnh đạo Tổng Công ty Hàng không miền Trung đến và yêu cầu điều chỉnh lại sao cho đẹp và phù hợp hơn.

Vị lãnh đạo hàng không khi nghe xong đã nói lại đại ý rằng: đây là dự án do Bộ GTVT làm chủ đầu tư chứ có phải của Đà Nẵng đâu mà thành phố can dự vào.

Ông Thanh nghe xong không lưỡng lự mà ngay lập tức trả lời: “đúng, đây là dự án của Bộ nên thành phố không có quyền tham gia, nhưng tên của sân bay mới khi xây xong sẽ là: Sân bay quốc tế Đà Nẵng. Vậy nếu các ông không sửa thì xin bỏ cái tên Đà Nẵng đi, khi đó các ông muốn làm gì thì làm, chắc chắn chúng tôi cũng sẽ không có ý kiến gì nữa”.

Với thái độ quả quyết như vậy nên sau đó Bộ GTVT đã có những điều chỉnh để sân bay Đà Nẵng to đẹp và hoanh tráng như ngày hôm nay.

Chỉ Đà Nẵng mới có

Có lẽ chưa ở đâu trên đất nước này mà cái chức Chủ tịch của một thành phố trực thuộc TƯ lại được bình chọn một cách công khai trước bàn dân thiên hạ như ở Đà Nẵng.

Trong buổi nói chuyện với gần 4500 cán bộ công chức ở Đà Nẵng và được truyền hình trực tiếp trên sóng truyền hình, ông Thanh công khai giải thích tại sao Thường vụ thành ủy lại bầu ông này, mà không bầu ông kia vào chức Chủ tịch thành phố Đà Nẵng.

Ông cũng nêu đích danh 3 ứng viên được chọn và phân tích mặt mạnh, điểm yếu của từng ứng viên khi được bầu vào chức danh đó.

Cũng nhân cơ hội này, ông Thanh yêu cầu mọi cán bộ phải làm trước khi nói và tuyệt đối không được sách nhiễu, vòi tiền người dân hay doanh nghiệp.

Ông Thanh yêu cầu: “các đồng chí đừng biến mình thành những con thú trong rạp xiếc, cứ thấy cho ăn thì mới làm mà hãy làm trước đi, và nếu làm tốt thì người dân cũng sẽ không quên ơn đâu”.

Ông Thanh cũng khẳng định, việc thăng quan tiến chức ở Đà Nẵng tuyệt nhiên không có chuyện chạy vạy, mất tiền mà do năng lực thực tế. Bất cứ ai phát hiện việc chạy chức, quyền báo cho lãnh đạo thành phố sẽ điều tra và nếu có thật sẽ cách chức ngay lập tức.

Ông Thanh còn an ủi những cán bộ giỏi, cán bộ có tâm huyết: “nếu vì một lý do gì đó mà những người giỏi, có năng lực và tâm huyết chưa được đến đáp đúng mức, chưa được đề bạt một cách công bằng thì hãy kiên nhẫn chờ đợi, một ngày nào đó sẽ được thăng quan tiến chức xứng đáng, thành phố luôn dõi theo những người này và chắc chắn không để rơi họ”.

Một việc mà không chỉ người dân Đà Nẵng mà trên cả nước đều rất đồng tình đó là quyết định hỗ trợ mỗi chiến sĩ CSGT 5 triệu đồng/tháng. Giải thích về điều này, lãnh đạo Đà Nẵng cho rằng, việc hỗ trợ nhằm giảm bớt những khó khăn về đời sống kinh tế cho các cán bộ chiến sĩ để họ yên tâm công tác, tránh mọi cám dỗ, tiêu cực.

Tuy nhiên, đổi lại tất cả CSGT đều phải tuyệt đối không được nhận tiền của các chủ phương tiện với bất cứ hình thức nào và với giá trị bao nhiêu, nếu bị phát hiện sẽ tước quân tịch và cho nghỉ việc ngay lập tức.

Chính vì lẽ đó nên nếu bất cứ ai, chức vụ nào mà vi phạm luật lệ giao thông tại địa bàn thành phố Đà Nẵng đều mau chóng chấp hành phạt mà không hề kêu ca hay xin xỏ, bởi họ thừa biết rằng nếu kêu ca hay nhờ vả cũng không có ai dám tha. Không những vậy, bất cứ ai dù ở chức vụ gì mà xin xỏ cho người vi phạm giao thông nếu phát hiện cũng sẽ bị kỷ luật.

Tôi có một anh bạn từ Hà Nội vào Đà Nẵng mua đất, do việc mua bán đến gần 12 giờ trưa mới hoàn tất nhưng vẫn thiếu một khâu quan trọng là công chứng giấy tờ. Trong khi đó, do chủ quan nên anh bạn tôi đặt vé máy bay để 2h chiều ngày hôm đó bay ngay ra Hà Nội.

Sau một hồi lưỡng lự, anh bạn tôi vẫn quyết định ra phòng công chứng nhưng trong lòng tự nhủ sẽ khó mà làm được vì lúc đó đã hết giờ làm việc, nếu để đến chiều chắc chắn sẽ trễ chuyến bay.

Tuy nhiên, khi đến nơi và được nghe trình bày, cô nhân viên phòng công chứng rất vui vẻ nhận lời giúp. Sau khi mọi việc hoàn tất, với tâm trạng hết sức cảm kích, anh bạn tôi chân thành lấy ra chiếc phong bì, trong đó có vài trăm ngàn nói lời cảm ơn và biếu cô nhân viên một chút gọi là bồi dưỡng làm việc ngoài giờ.

Nhưng kỳ thay, cái việc mà anh bạn tôi cho rằng rất hợp lý và chắc chắn sẽ xảy ra đó đã không diễn ra. Cô gái kia kiên quyết từ chối chiếc phong bì và mỉm cười nói rằng đó chỉ là bổn phận và cô ta cũng chẳng mất gì khi làm việc đó cả.

Thế là kể từ đó đến nay đã gần 2 năm trôi qua, mỗi khi “trà dư tửu hậu” hay có ai đó nhắc đến Đà Nẵng, anh bạn tôi đều kể lại câu chuyện này với một vẻ hết sức ngưỡng mộ và hào hứng.

Chúng tôi, những người làm trong nghề đều hiểu rằng, nếu ở một xã hội khác, một quốc gia nào đó trên thế giới này thì đây có lẽ chỉ là “ba cái chuyện lẻ tẻ” và không có gì đáng phải bàn, nhưng sao ở Việt Nam nó lại trở thành chuyện “hiếm như sao buổi sáng”.

Và chắc chắn không có bất cứ một phương tiện truyền thông nào lại tuyên truyền tốt hơn cái cách truyền miệng để đến bây giờ Đà Nẵng được nhiều người mến yêu như thế

Không chỉ đưa ra những quy định hay chế tài hợp lý mà những chính sách của Đà Nẵng còn rất có tình. Do thời gian gần đây, mật độ xe cộ bắt đầu khá đông nên Đà Nẵng đã chọn một số tuyến làm đường một chiều. Vài ngày đầu, do thói quen nên khá nhiều người dân và du khách ngoại tỉnh vẫn vi phạm và đi vào đường ngược chiều và bị phạt.

Biết được điều này, đích thân ông Trần Văn Minh khi đó còn là Chủ tịch UBND thành phố đã ra “chỉ dụ” cho lực lượng công an và dân phòng: “tuyệt đối không được phạt người dân hay xe ngoại tỉnh khi họ đi vào đường ngược chiều, chúng ta phải cắm biển cấm và chỉ dừng xe để nhắc nhở người vi phạm trong 2 tháng đầu tiên.

Trong thời gian đó, tôi cũng yêu cầu các phương tiện thông tin đại chúng phải liên tục đăng tải để người dân biết các đường ngược chiều để họ có ý thức và tránh đi vào, sau 2 tháng triển khai nhắc nhở nếu ai vi phạm thì mới được phạt.

Còn với xe ngoại tỉnh, chúng ta chỉ dùng xe để nhắc nhở thôi vì họ đâu có phải người dân ở đây mà biết đường cấm. Tôi tin là nếu biết chắc chắn không ai dám đi vào. Họ có yêu thì mới đến với Đà Nẵng, nếu vì vô tình mà ta cứ phạt thì sẽ để lại hình ảnh xấu cho du khách”.

Nhờ những chính sách kiểu như vậy mà đến nay người dân Đà Nẵng chấp hành rất nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, trong khi du khách không hề có cảm giác lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, đề phòng bị “vặt” khi vô tình vi phạm giao thông như các thành phố lớn khác.

Đối với vấn đề giải quyết chỗ ở cho đối tượng thu nhập thấp, có lẽ không đâu trên cả nước có giá rẻ như vậy. Chỉ cần tối thiểu hơn 200 triệu một chút là có thể mua được một căn hộ khá gần trung tâm thành phố với diện tích 50m2 có thang máy lịch sự, vườn hoa và chỗ sinh hoạt công cộng.

Không chỉ giá rẻ, điều kiện sinh hoạt tốt, gần trung tâm mà nhà thu nhập thấp ở Đà Nẵng mua cũng khá dễ dàng, ngay cả những vợ chồng công chức làm ở ngân hàng cũng rất dễ được xét duyệt.

Sự dễ dàng này bắt nguồn từ việc trong nững năm qua Đà Nẵng đã dành rất nhiều sự quan tâm cho nhũng đối tượng chính sách, người nghèo nên sự cấp thiết về nhà ở không còn nhiều, mặc dù trong những năm qua, Đà Nẵng luôn là thành phố có số lượng người ngoại tỉnh định cư nhiều nhất.

Nếu chỉ nói những việc lớn, vĩ mô hay cái hay, đẹp thì thật là thiếu sót bởi cuộc sống chung quanh ta đôi khi có những cái tầm thường nhưng lại tạo nên một cái đẹp, cái văn minh làm cho cuộc sống thêm phần thi vị.

Một trong những cái nhỏ đó vẫn đang hiện hữu trong cuộc sống thường ngày tại Đà Nẵng. Một câu chuyện nhỏ tưởng như “chuyện lạ có thật” là cái nhà vệ sinh công cộng ở bến xe khách liên tỉnh Đà Nẵng.

Tại đây, bất cứ ai “buồn cái sự đời” đều được nhà vệ sinh công cộng đón tiếp miễn phí. Tuy nhiên, điều đặc biệt mà chắc chắn chưa ở đâu trên đất nước Việt Nam này, thậm chí là ở trên toàn thế giới có được, là bất cứ ai vào đây cũng phải để giày dép ở ngoài, sau đó thay dép khác mới được vào.

Chưa ai có thể khẳng định việc bỏ giày dép ở ngoài là hay hay dở, nhưng một sự thật mà ai cũng có thể hiểu được, đó là nhà vệ sinh ở đây chắc chắn phải rất sạch sẽ thì người ta mới làm được cái điều lạ lùng đó.

Lại bàn về chuyện tuân thủ quy định, luật pháp tại Đà Nẵng. Hình như người dân ở đây rất “ngại” đụng chạm đến pháp luật, họ tuân thủ một cách tự nguyện và vui vẻ.

Một chuyện rõ nhất đó là việc thu tiền tại các nơi công cộng hay bãi biển. Ở bất cứ chùa chiền nào, dù ngày rằm, mùng một hay những lúc cao điểm, giá trông giữ xe vẫn luôn như vậy, giá cho mỗi xe máy vẫn là 2000 đồng. Thậm chí, ở một ngôi chùa rất nổi tiếng là chùa Linh ứng, các phật tử hay du khách đến thắp hương còn tự tâm muốn bỏ bao nhiêu cũng được.

Một chuyện mà đã rất nổi tiếng cho Đà Nẵng là thu phí trông xe, tắm biển. Mặc dù giữa những ngày hè nóng nực 39, 40 độ, người dân Đà Nẵng cũng như du khách kéo đến các bài biển đông ngẹt, giá gửi một xe máy và hai người tắm tráng cũng chỉ mất 4000 đồng, cái giá mà rất nhiều người Hà Nội vào đây phải sửng sốt vì quá rẻ.

Đã có lần tôi thử hỏi một người trông xe tại sao không tăng giá lên một chút khi khách đông, câu trả lời chỉ đơn giản là không được, nếu thành phố mà biết thì chỉ còn cách giải nghệ mà thôi.

Phải chăng sự kiên quyết của các cấp chính quyền Đà Nẵng là rất tốt để ai cũng phải tự giác chấp hành. Nói đến vấn đề này, tôi lại chạnh lòng khi nghĩ đến Hà Nội với vô số việc tăng giá vô tội vạ mà người dân phải cam chịu mà không biết kêu ai, bởi ngay chính cả Giám đốc Công an thành phố cũng từng là nạn nhân.

Nhiều người ở địa phương khác có dịp ghé Đà Nẵng rất ‘nể’ ông Thanh bởi ở đây hầu như không có cảnh giữa đường chỉ vì một va chạm nhỏ mà giành giật đâm chém.

Không có chuyện lợi dụng sự khó khăn của người khác mà bắt chẹt, chèn ép. Không chỉ có thế, người dân ở đây còn được sống trong một môi trường sống hết sức lành mạnh, không có chuyện ra đường hễ một tý là sừng sộ đâm chém một cuộc sống có cạnh tranh nhưng không hề xô bồ bon chen, một đô thị lớn đang phát triển rất nhanh mà từ không khí, điều kiện sống rất tốt.

Để kết thúc bài viết này, tôi xin khẳng định, trên đây chỉ là một số nhỏ những cái bề nổi mà tôi cũng như nhiều người từng nhìn và nghe thấy. Chắc chắn đằng sau cái hay, đẹp đó sẽ có cả những điều dở, những điều còn chưa tốt. Nhưng tôi tin rằng, cái dở, cái không hay đó chỉ là cá biệt và chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

Một thành phố mà cái hay thấy nhiều, cái dở rất hiếm gặp, chắc chắn nơi đó phải là đô thị được quản trị tốt, bởi nếu không phải vậy tại sao người dân Đà Nẵng lại rất yêu, khách du lịch lại rất thích khi đến với thành phố biển miền Trung đầy thơ mộng này.

Người dân lao động đồng tìnhCái cách nói chuyện của ông Thanh không chỉ cuốn hút những cán bộ, trí thức mà còn rất dễ làm cho người dân lao động đồng tình. Mỗi chính sách ông đưa ra bao giờ cũng có mục đích tạo ra cuộc sống thuận lợi, sung túc cho người dân.Tại cuộc họp HĐND vừa rồi, khi bàn về vấn đề đất đai, ông Thanh nêu rõ: Tôi yêu cầu trong năm 2013 này, thành phố phải hoàn tất việc làm sổ đỏ cho dân.Người ta sinh sống lâu năm trên mảnh đất của họ mà không trong diện kiện cáo hay quy hoạch thì phải làm sổ đỏ cho người ta chứ. Cái sổ đỏ không chỉ là tấm bìa sở hữu mà còn để trong lúc khó khăn bà con còn đêm ra thế chấp vài đồng làm ăn hay giải quyết khó khăn qua ngày”.

Tuấn Bình
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, ngày 28/12/2012, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 158-QĐ/TW về việc thành lập Ban Nội chính Trung ương; Quyết định số 159-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương.Cùng ngày, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Quyết định số 160-QĐ/TW về việc thành lập Ban Kinh tế Trung ương; Quyết định số 161-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Kinh tế Trung ương.Bộ Chính trị cũng ban hành các Quyết định số 655-QĐNS/TW về việc phân công ông Nguyễn Bá Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, giữ chức Trưởng ban Nội chính Trung ương.Đồng thời, Quyết định số 656-QĐNS/TW của Bộ Chính trị phân công ông Vương Đình Huệ, Ủy viên Trung ương Đảng, giữ chức Trưởng ban Kinh tế Trung ương.

Theo Thông Tấn Xã Việt Nam