Nhật kí làm rung chuyển nền giáo dục Mỹ

Đây là một câu chuyện có thật. Cuộc “vượt thác” của hơn 100 đứa trẻ bị chối bỏ thành những người viết văn ưu tú. 

Người Pháp có câu “Vouloir, c’est pouvoir” – “Muốn là sẽ được”. Câu nói này dường như rất gần với “Never give up!” – “Đừng từ bỏ”. Nếu mong muốn đủ lớn, mục tiêu đủ cao cả và nghị lực đủ nhiều…, có lẽ mọi nghịch cảnh sẽ đều nằm dưới sức mạnh chinh phục của con người.
Cuốn nhật kí được dựng thành phim “Nhật kí những nhà văn tự do” với Hilary Swank – nữ diễn viên từng đoạt 2 giải Oscar – vào vai chính (2007).
Năm 1994, Erin Gruwel – một giáo viên ngữ văn mới 23 tuổi và tràn đầy lý tưởng – về dạy tại trường trung học Wilson, Long Beach, bang California. Cô phải đương đầu với một lớp toàn học sinh cá biệt, những thành phần “hết thuốc chữa” và vô cùng nguy hiểm.
Những đứa trẻ (hầu hết là da màu) lớn lên tại một thị trấn của nạn phân biệt chủng tộc, của những tay găngxtơ sẵn sàng xả súng chỉ vì sự khác biệt, của những ông bố bà mẹ thất học khốn khổ vì nhập cư trái phép. Không một ai trong số họ đã từng tốt nghiệp trung học, chứ đừng nói đến học đại học. Và mỗi ngày trôi qua, lại có những đứa trẻ trong vùng ngã xuống vì những vụ bạo động và nổ súng.
Học sinh của cô giáo Erin Gruwel trẻ tuổi thủ sẵn súng trong người khi bước ra ngoài đường phố. Có những em trốn học để hút chích, lang thang, có những em đánh vật với gia đình thiếu thốn và thậm chí phải ngủ ngoài đường. Những em còn lại thì thất vọng cùng cực.
Cô giáo Erin Gruwel, nữ diễn viên  Hilary Swank và các học trò

Những đứa trẻ ấy nghĩ rằng cuộc đời của chúng đã chấm dứt. Thật khó để khơi gợi một niềm lạc quan, hy vọng, bởi cuộc sống của chúng chìm trong bóng tối, chán nản và bạo lực. Nhưng rồi, có 2 cuốn sách đã làm thay đổi cuộc đời chúng.

Đó là 2 cuốn nhật kí có nhiều nét tương đồng của Anne Frank (đã mất) và Zlata Filipovic (hiện đang sống). Hai cô bé đã viết lại cuộc sống và mơ ước của mình trong chiến tranh với những dòng nhật kí cháy bỏng niềm khát khao được sống, và sống tốt. Cô giáo Erin Gruwel khuyến khích các em viết nhật kí. Viết nhật kí là sự trung thực với chính mình. Không có điều gì trung thực hơn.
Đọc và viết. Đó là 2 điều đã làm thay đổi cả một thế hệ học sinh trong trường học. Những đứa trẻ bị ruồng bỏ được nhận vào những trường đại học danh giá bởi chính tài năng và quan điểm của mình.
Họ lấy tên gọi là “Những nhà văn tự do”. Lần đầu tiên xuất bản (1999), cuốn nhật kí đã gây tiếng vang lớn trong nền giáo dục Mỹ. Cuốn sách liên tục tái bản và lọt top bán chạy của New York Times. Không những thế, cô giáo Erin Gruwel và Những nhà văn tự do còn giành được giải thưởng Tinh thần Anne Frank, trực tiếp gặp gỡ bộ trưởng Bộ giáo dục và nhà làm phim huyền thoại Steven Spielberg. Năm 2007, câu chuyện của họ được dựng thành phim “Nhật kí những nhà văn tự do“ với vai chính thuộc về nữ diễn viên từng đoạt 2 giải Oscar – Hilary Swank.
* Trích đoạn dưới đây nằm trong cuốn sách “Viết lên hy vọng” (The Freedom Writers Diary) do cô giáo người Mỹ Erin Gruwel và các học sinh thực hiện. Bản dịch tiếng Việt bởi dịch giả Thu Huyền (Thaihabooks phát hành 2012).
Tập nhật kí được đánh số thứ tự chứ không đề tên học sinh đã viết ra nó, để bảo vệ danh tính các em trước những nỗi đau và sự thật bị phơi bày. 
Cô giáo và các học sinh
Nhật ký số 55
 Nhật ký thân yêu,
Cả tháng trước, bọn mình chỉ học về các nhà văn Mỹ như Ralph Waldo và Henry David Thoreau. Emerson viết về đề tài niềm tin vào bản thân. Ông từng viết thế này: “Đã là người, phải là người không theo lề thói nào“. Lớp mình thực sự bị Emerson hấp dẫn vì cô Gruwel đang khuyến khích bọn mình trở thành những người suy nghĩ độc lập và thách thức uy quyền.
Mình ngạc nhiên sao triết lý của ông lại có thể đúng với mình nhiều đến thế. Suốt bốn năm qua, mình đã luôn tự đổ lỗi cho bản thân vì những việc mình không thể nào kiểm soát được.
Đó chỉ là những bi kịch không mong đợi giáng thẳng xuống đầu mình. Mình vẫn luôn đổ lỗi cho mình vì cái chết của bà.
Mình chỉ mới 12 tuổi khi bà mất vì bị bỏng nặng bởi ngọn lửa được cho là do bố mình gây ra. Bà bị bỏng từ đầu tới chân. Bố rót dầu vào người bà và bật lò sưởi trong bếp lên. Bà bắt lửa ngay lập tức. Khi mình nhìn thấy bà, bà đã bị phồng rộp hết cả người và tóc bà đã cháy sém hết cả. Da bà đã cháy đen và tróc ra từng mảng. Bà khóc, nước mắt lăn dài trên má.
Mình có cảm giác tim mình muốn vỡ tung và bụng mình quặn thắt lại, vì mình cảm nhận được bà sắp mất. Cảm giác mất đi hai người mà mình thương yêu nhất trên thế giới này khiến mình như chết đi từ bên trong.
…….
Sau cái chết của bà, mình không thể ngẩng đầu lên được. Bất cứ khi nào mình bước đi, mặt đất là tất cả những gì mình nhìn thấy. Các thành viên trong gia đình thường xuyên nhắc mình nhớ về sự ra đi của bà. Mình tìm cách để chấm dứt nỗi đau và luôn luôn tự hỏi mình những câu hỏi như “Sao bố mình lại xử sự như vậy? Sao ông ta lại để lại mình với mặc cảm tội lỗi đó? Mình không hiểu ông ta đang nghĩ gì nữa. Liệu ông ta có suy nghĩ cho mình không?”
Khi Emerson kết thúc bài luận với câu “Vĩ đại là bị hiểu lầm“, mình đã nghĩ, không biết bao nhiêu người đã hiểu lầm mình. Không có ai thực sự hiểu mình cảm thấy thế nào. Họ quá quan tâm đến suy nghĩ của bản thân họ. Mình thấy khó chịu vì họ thậm chí còn không tìm cách hiểu mình. Sâu thẳm trong tâm can, mình chỉ là một cô bé đang sợ hãi và bị hiểu lầm.
Có thể bị hiểu lầm cũng không phải là điều gì tệ lắm. Giờ đã đến lúc mình phải học cách làm chủ và tự tin vào bản thân mình.
Nhật ký số 129
Nhật ký thân yêu,
Bọn mình vừa dành được giải thưởng Micah của Hội đồng người Do thái ở Mỹ cho việc đấu tranh vì sự bất công trong xã hội của bọn mình. Bên ngoài thư mời có nói “Bất cứ ai cứu một mạng sống cũng là cứu toàn bộ nhân loại“.
Câu nói này chắc chắn là một trong những câu nói có sức mạnh lớn lao nhất mà mình từng đọc. Vì im lặng, dân Đức quốc xã đã hành hạ sáu triệu linh hồn vô tội cho đến chết. Cũng vì im lặng, hơn một triệu người đã bỏ mạng trong suốt thời đại tàn ác của Khơme Đỏ. Cũng bởi im lặng, hai cô bé vô tội đã bị lạm dụng tình dục. Sự im lặng đồng nghĩa với việc lịch sử sẽ lặp lại.
Giành được giải thưởng Micah đã khiến mình có sự thay đổi quyết định trong cuộc đời mình, và mình sẽ không im lặng nữa.
Sau 9 năm tổn thương, cuối cùng mình cũng đã quyết định làm điều mình sợ hãi nhất – nói ra sự thật. Với tất cả sự sợ hãi trong trái tim, mình thu hết dũng khí để nói với mẹ rằng mình đã bị cưỡng hiếp. Mình bị lạm dụng lúc mới có 9 tuổi. Nhưng phải mất 9 năm mình mới có thể nói vẻ điều đó. Phần đau thương nhất của câu chuyện đó là thủ phạm chính là người gia đình mình tin tưởng – người trông trẻ – người đã làm hại mình trong chính ngôi nhà của mình.
Mới đây, mình tham dự một bữa tiệc với em họ mình. Mình hỏi em đã bao giờ bị lạm dụng chưa. Mình không dám tin rằng mình đã hỏi cô bé điều đó. Mình sợ hãi trước câu trả lời của em bởi mình không muốn ai khác cũng trải qua điều này. Và cô bé thú nhận chính người chú của em đã lạm dụng em. Mình thật sự bị sốc. Đó cũng chính là người đã cưỡng hiếp mình.
Tối hôm đó, mình không thể nào không nghĩ về câu nói “Bất cứ ai cứu một mạng sống cũng là cứu toàn bộ nhân loại“. Đã đến lúc mình phải bước ra khỏi sự im lặng. Mình quyết định sẽ đi tố cáo hắn đến hắn không thể gây tổn thương cho ai nữa.
Khi mình nói với em họ mình, cô bé đã nói riêng với mình, có một cô bé ít tuổi khác cũng bị lạm dụng giống như bọn mình. Ba cuộc đời trẻ tuổi sẽ bị ám ảnh mãi mãi. Mình biết con số có thể còn nhiều hơn thế nữa. Và sẽ còn nhiều hơn nữa nếu mình không làm gì.
Chính vì thế, mình đã đi đến quyết định cuối cùng. Mình sẽ tố cáo hắn. Mình không tố cáo để trả thù, mình chỉ muốn ngăn chặn sự bất công này, một lần nữa và mãi mãi. Cô G đã dạy bọn mình: “Tội ác tiếp diễn khi những người tốt chỉ đứng nhìn“. Mình là một người tốt và mình từ chối làm người đứng nhìn, người ngoài cuộc. Mình sẽ giải quyết vấn đề tận gốc. Mình sẽ cứu sống một cuộc đời, và tiếp theo, mình sẽ cứu cả nhân loại.
Và cảm ơn các bạn, những độc giả – bây giờ, chúng tôi trao cây gậy chỉ huy cho các bạn” – cô giáo Erin Gruwel.
Vân Sam
@Vietnamnet

Tư liệu lịch sử – Phạm Ngọc Thảo – Oanh liệt trong thầm lặng

Đăng trên báo Thanh Niên
từ ngày 20/12/2012 đến 26/12/2012
 

Hoàng Hải vân

1. Những giọt nước mắt của ông Mười Hương

20/12/2012 3:20

“Trong lịch sử tình báo ta, câu chuyện ly kỳ như Phạm Ngọc Thảo là hãn hữu, nếu bỏ qua không nghiên cứu đến nơi đến chốn là thiếu trách nhiệm đối với công cuộc tích tụ kho tàng tình báo Việt Nam” (Lời tướng Nguyễn Đức Trí (Sáu Trí), nguyên Thủ trưởng Cơ quan tình báo Miền)

Tấm hình đăng kèm theo đây do nhà báo Chin Kah Chong của hãng tin Pan-Asia Newspaper Alliance (PANA News) của Nhật Bản chụp Phạm Ngọc Thảo mang lon đại tá quân đội Sài Gòn lúc chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh. Ông Chin đã gửi tặng tấm hình cho chúng tôi trong dịp sang lại Việt Nam cách đây không lâu. Ông bảo ông đã hai lần gặp Phạm Ngọc Thảo, ông kể lại không khí của cuộc đảo chính mà ông trực tiếp chứng kiến hồi đó, nhưng ông không lý giải được về hoạt động của vị đại tá này dù ông rất ngưỡng mộ.

Cho đến nay, Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là một bí ẩn khó có thể giải mã. Không phải vì xung quanh ông vẫn còn những bí mật quân sự, cũng không phải xung quanh ông có những điều “nhạy cảm” khó nói. Khó giải mã là do tầng tầng lớp lớp những biến cố lịch sử, những quan hệ, sự thiên biến vạn hóa của chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật, nghệ thuật chiến tranh tồn tại trên chiến trường, trên chính trường và trong cuộc sống nhưng nằm ngoài sách vở và các bản tổng kết.

Sau khi bộ phim nổi tiếng Ván bài lật ngửa bắt đầu công chiếu từ năm 1982, khi biết nhân vật Nguyễn Thành Luân được nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng dựa trên nguyên mẫu là Phạm Ngọc Thảo, những giai thoại về Phạm Ngọc Thảo dần dần lưu truyền rộng rãi trong dân chúng. Nhà văn – nhà cách mạng Trần Bạch Đằng từng là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ, là một trong số rất ít người biết rất rõ Phạm Ngọc Thảo, nhưng Ván bài lật ngửa vốn là một cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim, tất nhiên Nguyễn Thành Luân dù mang dáng dấp Phạm Ngọc Thảo nhưng vẫn là một nhân vật hư cấu. Lúc ấy ngôi mộ của Phạm Ngọc Thảo vẫn chỉ là một nấm mồ vô danh.

Mãi đến ngày 30.8.1995, đại tá QĐND Việt Nam, liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo mới được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lý do của sự chậm trễ này chưa bao giờ được công bố chính thức.

Sau năm 1987, báo chí trong nước có viết một số bài về Phạm Ngọc Thảo, nội dung còn sơ lược, chủ yếu dựa vào lý lịch và bản thành tích được công bố. Trong khi ở nước ngoài, nhiều người từng ở “phía bên kia” quen biết Phạm Ngọc Thảo cũng viết về ông, bên cạnh việc thuật lại các góc độ khác nhau những sự kiện mà họ chứng kiến là những phỏng đoán, nhất là sự phỏng đoán xung quanh 2 vấn đề mà họ không giải thích được: Vì sao mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình Nhà nước Việt Nam mới chính thức công nhận Phạm Ngọc Thảo là “người của mình”? Nếu Phạm Ngọc Thảo là tình báo “Việt cộng” thì khi cuộc đảo chính tháng 2.1965 thất bại, ông hoàn toàn có thể chạy ra căn cứ một cách an toàn, nhưng vì sao ông không đi mà ở lại tại một xứ đạo để cuối cùng phải chết một cách bi thảm?


Đại tá quân đội Sài Gòn Phạm Ngọc Thảo chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965
lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh – Ảnh: Chin Kah Chong

Không thể đem những lý lẽ thông thường để luận giải cuộc đời bi tráng của người anh hùng phi thường này. Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng. Địch coi ông là tên “Việt cộng” nằm vùng nguy hiểm, ông không ngại, thậm chí còn viết báo công khai ca ngợi tinh thần vì dân vì nước của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Pháp. Ngại nhất là ta, bởi vì ngay tại Sở Chỉ huy của kháng chiến cũng chỉ vài người được biết ông là người của ta, nên khi ông thả hàng ngàn tù chính trị, cơ quan chỉ huy kháng chiến cấp dưới lập tức kết luận ông là tên tỉnh trưởng mị dân nguy hiểm nhất cần phải trừ khử. Ông đã nhiều lần thoát chết, không phải do sự nương tay của ta, mà do may mắn.

Sinh thời cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt bao giờ cũng rơm rớm nước mắt mỗi khi nhắc đến Phạm Ngọc Thảo. Ông bảo Phạm Ngọc Thảo do đích thân ông Lê Duẩn giao nhiệm vụ ở lại miền Nam làm tình báo chiến lược, không phải để cung cấp tin tức, mà đi sâu vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn nhằm xoay chuyển thời cuộc, chuẩn bị cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Đối với ông Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo kiệt xuất, là người anh hùng hội đủ nhân, trí, dũng. Ông vẫn tiếc là không cứu được Phạm Ngọc Thảo mặc dù ông đã làm hết cách.

Còn ông Mười Hương thì vừa nói đến Phạm Ngọc Thảo đã khóc như một đứa trẻ. Lần đầu gặp ông, khi chúng tôi hỏi vì sao Phạm Ngọc Thảo được công nhận liệt sĩ và phong anh hùng chậm như vậy, ông nức nở: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ T.Ư – TN) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn từng nói với chúng tôi rằng, sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ.

Sự lo xa của ông Mười Hương là tình nghĩa rất đáng trân trọng. Giọt nước mắt của ông đủ để giải thích lý do vì sao Phạm Ngọc Thảo chậm được thừa nhận một cách công khai. Quốc gia đại sự không bao giờ bỏ sót cái tình, và suy cho cùng cũng vì cái tình mà có quốc gia đại sự.

Hiệp định Genève được ký kết, Phạm Ngọc Thảo được đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để “phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước”. Ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với ông Mai Chí Thọ, lúc ấy là người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy (sau này là đại tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Hai người khác trong Ban cùng có mặt là ông Mười Hương và ông Cao Đăng Chiếm (sau này là thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ).

Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam nhưng ông Mai Chí Thọ là người lừng lẫy nên có quá nhiều người biết, ông Cao Đăng Chiếm cũng vậy, Đảng không cho phép vào sống ở Sài Gòn, chỉ có ông Mười Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào, không ai biết. Do đó, ông Mười Hương đã bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về đường hướng, phương thức hoạt động và trực tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành “người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất ngắn, vì sau đó ông Mười Hương bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế.

2. Gia thế

21/12/2012 3:55

Vì sao con cái một gia đình “đại địa chủ”, đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo toàn tòng, lại “đồng loạt” đi tham gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn đem hết gia sản ra ủng hộ kháng chiến?

Phạm Ngọc Thảo xuất thân từ một gia đình trí thức giàu có ở Vĩnh Long, theo đạo Công giáo toàn tòng. Thân sinh của ông là cụ Adrian Phạm Ngọc Thuần, một kỹ sư trắc địa và là một điền chủ giàu có nổi tiếng Nam bộ, mang quốc tịch Pháp. Anh chị em ông cũng có quốc tịch Pháp nên sang Pháp du học, đều trở thành bác sĩ, kỹ sư, luật sư.

Dù học ở Pháp, dù là “dân Tây”, dù có cuộc sống giàu sang nhưng anh chị em Phạm Ngọc Thảo đều hướng về đất nước, đều khát khao giành độc lập cho Tổ quốc. Anh ruột ông, luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Thanh Niên Tiền phong chống Pháp cùng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch từ năm 1943, sau đó tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và làm đến chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, sau năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại CHDC Đức. Một người anh khác, ông Lucien Phạm Ngọc Hùng cũng từ Pháp về nước tham gia kháng chiến, sau này là Ủy viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam…


Phạm Ngọc Thảo trên tạp chí Life

Phạm Ngọc Thảo sinh ngày 14.2.1922, sau khi đỗ tú tài ở Sài Gòn, do Đại chiến thế giới 2 nổ ra, ông không sang Pháp mà ra Hà Nội học, tốt nghiệp bằng kỹ sư công chánh năm 1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm 1943. Theo chân người anh, ông tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945 ngay từ những ngày đầu và khi Pháp quay lại xâm chiếm Nam bộ, ông tuyên bố hủy bỏ quốc tịch Pháp, lên đường cầm súng đi kháng chiến.

Vì sao con cái một gia đình “đại địa chủ” (theo nhiều tài liệu thì gia đình Phạm Ngọc Thảo có tới hơn 4.000 mẫu đất và hàng ngàn bất động sản ở Nam bộ), đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo toàn tòng, lại “đồng loạt” tham gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn đem hết gia sản ra ủng hộ kháng chiến?

Sự “đồng loạt” hiếm có đó là từ chính nghĩa của cách mạng, là từ truyền thống yêu nước của gia đình, xuất phát từ người ông của Phạm Ngọc Thảo. Ông nội của Phạm Ngọc Thảo là cụ Phạm Ngọc Lành (cụ Lành có thể có nhiều tên khác), là một thương gia lớn ở Nam bộ thời Pháp thuộc. Sau này cho con cháu gia nhập quốc tịch Pháp để “tự vệ”, song cụ Lành sinh thời không những không dính dáng gì với người Pháp mà còn tích cực ủng hộ, hậu thuẫn cho các phong trào yêu nước chống Pháp từ trước khi có cách mạng. Ngay cả phong trào Cần Vương ở tận miền Trung cũng được cụ Lành gửi tiền của hậu thuẫn. Nhiều bậc tiền bối của cách mạng ở Nam bộ đã dựa vào gia đình này để nhen nhóm phong trào và khi cách mạng nổ ra, gia đình này đã nhẹ nhàng đem hết gia sản và con cái ra cống hiến.

Thực ra, khi đất nước bị chia cắt thì một gia đình bị phân hóa cũng là bình thường, mặt khác, sau này anh em ông Ngô Đình Diệm đã trọng dụng Phạm Ngọc Thảo, không chỉ vì ông Thảo có tài năng, có tư cách. Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến chắc chắn không “mù”, họ biết rất rõ những người anh của Phạm Ngọc Thảo đang ở “phía bên kia”. Sau khi lên cầm quyền ở miền Nam, Ngô Đình Diệm thực hiện khẩu hiệu “phản đế, bài phong” để xây dựng chế độ quốc gia “cạnh tranh” với những người cộng sản, nhưng điều mỉa mai là hầu hết các tướng lãnh, sĩ quan và quan chức cao cấp chính quyền của họ đều là sản phẩm do người Pháp để lại. Anh em họ Ngô rất cần có những trí thức từng tham gia chống Pháp ở bên cạnh mình và rất cần sự hậu thuẫn của những gia đình có truyền thống yêu nước như gia đình Phạm Ngọc Thảo để làm nền móng cho chế độ. Phạm Ngọc Thảo và cấp trên của ông không bao giờ đánh giá thấp anh em Ngô Đình Diệm, nếu đánh giá thấp đối phương thì không thể có được “ván bài lật ngửa” ngoạn mục như chúng ta đã biết. Nhưng đó là chuyện sau này.

Năm 1946, ông được cử đi học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây. Sau khi tốt nghiệp khóa 1 trường này, ông lập tức trở về miền Nam chiến đấu và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của kháng chiến: Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó, Trưởng phòng Mật vụ Nam bộ (chức vụ tương đương Trung đoàn trưởng). Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm Thị Nhiệm, cũng là một trí thức tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em gái Giáo sư Phạm Thiều lúc đó là Giám đốc Nha Giáo dục phổ thông Nam bộ, sau khi tập kết ra Bắc làm Đại sứ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại một số nước Đông Âu).

Năm 1946 cũng là năm ông Lê Duẩn được Trung ương cử vào Nam làm Bí thư Xứ ủy Nam bộ. Khi quân Pháp đổ bộ vào miền Nam, giữa sự vây ráp ráo riết của địch, chính Phạm Ngọc Thảo là người trực tiếp hộ vệ đưa ông Lê Duẩn từ Phú Yên, nơi đóng trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến miền Nam Việt Nam về chiến trường Nam bộ để lãnh đạo kháng chiến. Bản lĩnh, tài năng, mưu trí và phẩm chất của Phạm Ngọc Thảo trên chiến trường đã chinh phục niềm tin của vị Bí thư Xứ ủy. Cuộc hạnh ngộ này ảnh hưởng quyết định đến sứ mệnh sau này của ông. Dùng một trí thức con nhà Công giáo đại địa chủ làm tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, thậm chí làm tướng cũng không có vấn đề gì, nhưng làm Trưởng phòng Mật vụ của cả Nam bộ kháng chiến thì, trừ ông Lê Duẩn, không ai dám và điều này thì quả thật, ông Lê Duẩn có con mắt anh hùng đoán giữa trần ai. Trong những lúc nói chuyện với chúng tôi, ông Võ Văn Kiệt trước sau đều khâm phục tầm nhìn chiến lược và sự trông xa thấy rộng của ông Lê Duẩn và ông cũng nhớ lại: “Không ít anh em cũng lo ngại về cách dùng người như vậy của anh Ba”.

Điều đáng chú ý là những nhân vật như Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim… cũng có vào chiến khu tham gia kháng chiến trong thời gian đầu và họ đều được Phạm Ngọc Thảo huấn luyện về chiến tranh du kích, nhưng họ đã quay lưng theo Pháp và trở thành những tướng lãnh quân đội Sài Gòn. “Những người quen cũ” đó sau này vừa nể phục Phạm Ngọc Thảo vừa coi ông là một đối thủ đáng gờm.

3. Lật ngửa bài để tàng hình

22/12/2012 2:49

Phạm Ngọc Thảo tất nhiên không thể giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông, nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò của mình.

“Phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước” là làm nhiệm vụ cụ thể gì, không ai rõ chi tiết. Ông Mai Chí Thọ xác nhận việc ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo cho ông để bố trí ở lại miền Nam hoạt động, nhưng ông bảo ông chỉ nhận được chỉ thị về nhiệm vụ của ông đối với Phạm Ngọc Thảo thôi, còn ông Lê Duẩn chỉ thị cho Phạm Ngọc Thảo làm những việc gì thì ông không được thông báo.

Còn ông Võ Văn Kiệt, ban đầu không liên quan đến Phạm Ngọc Thảo, ông chỉ biết ông Lê Duẩn đã trọng dụng ông Thảo như thế nào mà thôi. Nhưng sau Hiệp định Genève, có một thời gian ông Lê Duẩn vào sống ngay trong thành phố Sài Gòn, ông Kiệt có nhiệm vụ tổ chức nơi ăn ở và bảo vệ an toàn, ông dần dần hiểu được những việc mà ông Lê Duẩn giao cho Phạm Ngọc Thảo. Khi làm Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định, ông Võ Văn Kiệt mới “liên quan” đến Phạm Ngọc Thảo. Ban đầu ông định cử ông Mười Nho, Trưởng ban Đặc tình Đặc khu ủy, liên lạc với Phạm Ngọc Thảo, nhưng xét thấy ông Mười Nho đã từng bị lộ tung tích, nên kế hoạch bị hủy bỏ. Ông Kiệt gặp ông Thảo nhiều lần, từ sau cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm đến sau cuộc đảo chính 19.2.1965.

Theo ông Võ Văn Kiệt, nhiệm vụ mà ông Lê Duẩn giao cho ông Thảo là tìm cách thâm nhập càng sâu càng tốt vào bộ máy chính quyền Sài Gòn và tùy cơ ứng biến; ông Thảo không phải là một điệp viên, không có trách nhiệm báo cáo bất cứ chuyện gì với bất kỳ ai, khi có việc cần thiết có thể trao đổi với người lãnh đạo nào mà ông Thảo thấy đủ tin tưởng, nếu không thấy cần thiết thì không trao đổi. Ông Thảo hoạt động độc lập, tự do hành động, không bị bất cứ một chế định nào. Việc ông Kiệt gặp ông Thảo là do chính ông Thảo chủ động cho người thân liên lạc để bàn bạc giải pháp, ông Kiệt không có “chỉ thị” ông Thảo phải gặp ông.

Sau khi thống nhất đường hướng, phương thức hoạt động với ông Mười Hương, Phạm Ngọc Thảo vào Sài Gòn, bắt đầu tàng hình bằng một “ván bài lật ngửa”.

Theo ông Mười Hương, nếu không thừa nhận anh em Ngô Đình Diệm là những người yêu nước theo cách của họ, nếu không thừa nhận họ là những người có tinh thần dân tộc, muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, thì Phạm Ngọc Thảo khó mà dám “ngửa bài”. Ông Mười Hương cho rằng, thực tế Ngô Đình Diệm luôn mơ ước có những trí thức yêu nước có tầm cỡ bên cạnh mình, như cụ Hồ có những người như ông Hoàng Minh Giám bên cạnh. Cần biết Ngô Đình Diệm nổi tiếng chống cộng, nhưng Ngô Đình Diệm trong thâm tâm bao giờ cũng nể phục cụ Hồ và chưa bao giờ dám xúc phạm đến cụ Hồ.

Phạm Ngọc Thảo tất nhiên không thể giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông, nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò của mình. Ngược lại, ông không những chủ động công khai cái lý lịch kháng chiến đó mà còn công khai tự hào về quãng đường mình đã theo Việt Minh chống Pháp. Để tiếp cận với gia đình họ Ngô, nguồn gốc trí thức Công giáo đã đành là một lợi thế, nhưng chưa đủ. Ông đã khôn ngoan biến cái lý lịch kháng chiến thành một lợi thế thứ hai, lợi hại hơn.

Khi về Sài Gòn, sau khi thu xếp nơi ăn chốn ở cho gia đình, ông không vội tiếp cận với gia đình họ Ngô mà ung dung đi dạy học. Vợ ông cũng vậy. Nhưng Sài Gòn lúc đó rất rối ren. Chính quyền một mặt phải đối phó với lực lượng của các giáo phái và các lực lượng thân Pháp, một mặt ráo riết lùng bắt những cán bộ Việt Minh không đi tập kết nhưng không “hồi chánh” để trừ hậu họa. Phạm Ngọc Thảo không “hồi chánh” nên tất nhiên không có giấy tờ “hồi chánh”, ông bị an ninh quân đội nhiều lần truy bắt, phải rất khôn ngoan ông mới trốn thoát.


Phạm Ngọc Thảo nói chuyện với các chức sắc Cao Đài – Ảnh: LIFE

Không thể ung dung ở Sài Gòn được nữa, ông về Vĩnh Long theo dự định ban đầu. Theo kế hoạch, việc đầu tiên ông làm là đến thăm Giám mục Ngô Đình Thục, anh ruột Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Đức cha Thục rất thân thiết với gia đình Phạm Ngọc Thảo, từng là người làm lễ rửa tội cho ông và coi ông như con nuôi. Trong kháng chiến chống Pháp, Phạm Ngọc Thảo từng mời Đức cha vào chiến khu để thông qua vị giám mục này mà tranh thủ đồng bào Công giáo ủng hộ kháng chiến. Lần này Phạm Ngọc Thảo đến thăm với sự lễ phép của một tín đồ ngoan đạo khiến vị giám mục vô cùng cảm động. Ngô Đình Thục đã bảo lãnh cho Phạm Ngọc Thảo vào dạy tại một trường trung học. Sau đó cũng từ sự giới thiệu của Đức cha Thục, Phạm Ngọc Thảo quay lại Sài Gòn làm việc tại Viện Hối đoái do ông Huỳnh Văn Lang, một học trò cũ của Đức cha Thục, làm Giám đốc. Trở lại Sài Gòn lần này ông hoàn toàn không bị an ninh quân đội làm khó dễ, vì ai mà dám động đến người của Đức cha!

Sau khi Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại, lên làm Tổng thống, Giám mục Ngô Đình Thục liền tiến cử ông Thảo với Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, bảo đây là một nhân tài cần được trọng dụng. Gia đình họ Ngô anh nói em nghe, rất có khuôn phép, nên đương nhiên Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chấp nhận sự tiến cử này. Tuy nhiên, do chưa thấy ông Thảo có tài năng gì đặc biệt, nên họ cũng chỉ bố trí cho ông những chức vụ khiêm tốn: đại úy đồng hóa, Tỉnh đoàn trưởng Bảo an…

Mối quan hệ với Huỳnh Văn Lang tạo thêm cho Phạm Ngọc Thảo một lợi thế: viết báo để thể hiện mình. Năm 1957, ông Huỳnh Văn Lang khi ấy là Giám đốc Viện Hối đoái và là Bí thư liên kỳ Nam Bắc Việt Nam của Đảng Cần Lao, đã cho xuất bản Tạp chí Bách Khoa. Phạm Ngọc Thảo được mời làm một thành viên sáng lập và tham gia Ban Biên tập tạp chí. Tờ Bách Khoa qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn tồn tại cho đến năm 1975. Phạm Ngọc Thảo có mặt từ số báo đầu tiên và chỉ tính riêng trong năm 1957-1958, ông đã cho đăng liên tục và dồn dập hàng loạt bài trên tạp chí này, tập trung đề tài về quân sự: “Thế nào là một quân đội mạnh?” (BK số 1-1957); “Đánh giặc mà không giết người” (BK số 2); “Góp ý kiến về thiên Mưu công trong binh pháp Tôn Tử” (BK số 3); “Một số ý kiến về lãnh đạo tinh thần một đơn vị quân đội” (BK số 4); “Vấn đề kinh tế tự túc trong quân đội” (BK số 5-6)…; “Lực lượng quân sự cơ động và lực lượng địa phương” (BK số 13); “Quân đội và nhân dân” (BK số 14); “Quân đội bình định đem lại bình an hay oán hận” (BK số 16); “Quan niệm về quân sự hiện đại” (BK số 17)… Những bài báo đó thể hiện tác giả của chúng có kiến thức uyên bác của một nhà chiến lược quân sự và thực tiễn sinh động của một nhà cầm quân, nhưng lại gây sốc: công khai ca ngợi chiến công chống ngoại xâm và hành động vì dân vì nước của quân đội nhân dân VN trong kháng chiến chống Pháp, lên án những hành vi phi nghĩa của quân đội phản nhân dân.

4. Luận về quân tử – tiểu nhân

23/12/2012 3:50


Phạm Ngọc Thảo (phải) lúc làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa – Ảnh: LIFE

Những bài báo “gây sốc” của Phạm Ngọc Thảo đã tạo một tiếng vang lớn. Chúng được giới quân sự, chính trị ở Sài Gòn cũng như các chuyên gia CIA và tình báo nước ngoài rất quan tâm. Họ “soi” rất kỹ để biết Phạm Ngọc Thảo là ai. Ngay cả cấp trên của ông Thảo cũng hồi hộp lo lắng về nước cờ cao nhưng liều lĩnh của ông.

Nước cờ cao này sẽ khiến cho những kẻ chống cộng tầm thường nghĩ ông là cộng sản nằm vùng, dù bọn họ là số đông, nhưng ông không quan tâm, họ không phải là đối tượng để ông gửi thông điệp. Thông điệp mà Phạm Ngọc Thảo muốn gửi tới là Ngô Đình Nhu và bộ tham mưu cao cờ của ông Nhu, đặc biệt là Trần Kim Tuyến.

Quả nhiên những bài báo đó không lọt khỏi “mắt xanh” của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến. Đây chính là thứ mà họ Ngô cần. Muốn xây dựng một quân đội thực sự là “quân đội quốc gia” thì không thể không dựa trên lý luận quân sự được trình bày trong những bài báo của Phạm Ngọc Thảo. Thông điệp mà Phạm Ngọc Thảo gửi tới phù hợp với đường lối chiến lược của anh em họ Ngô: Muốn chiến thắng cộng sản, muốn xây dựng một quân đội, một chế độ độc lập thì phải làm theo cách của Việt Minh. Lịch sử “Đệ nhất cộng hòa” sau này cho thấy, họ Ngô tuy nhận viện trợ của Mỹ nhưng không nghe lời Mỹ, không để người Mỹ can thiệp quá sâu vào chế độ, vì vậy mà bị Mỹ đạo diễn lật đổ.

Và Phạm Ngọc Thảo bắt đầu được trọng dụng. Ông gia nhập đảng Cần Lao và được đưa vào Ban Tuyên huấn đảng này, được thăng quân hàm thiếu tá, rút về làm việc tại Sở Nghiên cứu chính trị – xã hội (cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống) do Trần Kim Tuyến làm giám đốc, văn phòng ông nằm ở cánh trái Phủ Tổng thống, bên cạnh Văn phòng cố vấn Ngô Đình Nhu.

Việc Phạm Ngọc Thảo được trọng dụng khiến cho không ít nhân vật cao cấp trong chính quyền tức tối. Tướng Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh quân đội, không những nghi ngờ mà còn quả quyết cho rằng Phạm Ngọc Thảo chính là cộng sản, rằng “cộng sản đang lũng đoạn Phủ Tổng thống”. Sau này ông ta nói với các thuộc cấp: “Mỗi lần vào Dinh Độc lập, tôi thấy cánh trái của dinh ửng lên đỏ loét”. Những báo cáo về Phạm Ngọc Thảo của các cơ quan an ninh, cảnh sát đều bị bỏ ngoài tai. Ông Diệm, ông Nhu có cái lý của mình, hạng như Mai Hữu Xuân thì biết gì!

Tuy nhiên, trong khi Ngô Đình Diệm hoàn toàn tin tưởng Phạm Ngọc Thảo, thì Ngô Đình Nhu vốn là một con cáo già về chính trị, nên dù trọng dụng ông song chưa phải là hoàn toàn tin tưởng. Một lần, ông Nhu rủ ông Thảo đi chơi bằng ca nô trên sông Cửu Long, ông Nhu đột ngột hỏi: “Nhiều cán bộ Việt Minh sau Hiệp định Genève về làm việc cho quốc gia, họ chỉ cho quốc gia bắt được nhiều cán bộ cộng sản nằm vùng quan trọng. Anh Thảo về làm việc cho quốc gia được một thời gian rồi, sao chưa thấy anh Thảo chỉ bắt được ai?”. Câu hỏi thật hắc búa, nhưng Phạm Ngọc Thảo không hề lúng túng. Ông bình thản nói: “Trước đây đi kháng chiến tôi hợp tác với người cộng sản dưới ngọn cờ Việt Minh đánh Tây để giải phóng Tổ quốc. Nay đất nước chia đôi, miền Bắc giao cho cộng sản, miền Nam giao cho quốc gia. Tổng thống và anh Nhu là người quốc gia yêu nước, muốn kiến thiết lại xứ sở sau bao nhiêu năm bị chiến tranh tàn phá, nên tôi đem hết sức lực làm việc cho tổng thống. Tôi nghĩ tổng thống và anh Nhu là những người quân tử, dùng người theo cách của người quân tử. Nếu tôi chỉ cho chính quyền bắt những đồng đội cũ của tôi, thì tôi là kẻ tiểu nhân đáng khinh bỉ. Liệu những người quân tử như tổng thống và anh có thể trọng dụng được kẻ tiểu nhân đáng khinh bỉ như vậy không?”. Ngô Đình Nhu đuối lý nhưng rất thích câu trả lời đó, bảo chỉ hỏi đùa vậy thôi và xin lỗi ông Thảo.

Tại các cuộc họp của đảng Cần Lao, trong khi những người khác chỉ nói theo, không ai dám làm trái ý Ngô Đình Nhu thì Phạm Ngọc Thảo lại rất thẳng thắn. Sự thẳng thắn đó làm Ngô Đình Nhu rất hài lòng. Một lần ra hành lang cuộc họp, Ngô Đình Nhu nói với những người thân cận về Phạm Ngọc Thảo: “Thằng này đúng là thằng dân tộc chủ nghĩa đậm chất Nam bộ”, lời nhận xét đó được một cơ sở của ta nghe được và nói lại với ông Mười Hương.

Phạm Ngọc Thảo còn phản đối những hành vi vô nhân đạo trong chính sách tố cộng của Ngô Đình Diệm. Họ Ngô đề cao chính sách thân dân mà hành xử thì lê máy chém sát hại người yêu nước. Ông nói với Đức cha Thục rằng việc chống cộng kiểu này là thua cộng sản, rằng chống cộng càng tàn bạo bao nhiêu càng khiến cho dân chúng thấy Việt Minh nhân ái hơn bấy nhiêu. Ngô Đình Thục tán đồng ý kiến này và thuật lại với Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm thấy có lý. Đó là một trong những lý do Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre) vào đầu năm 1961, nơi đang diễn ra cuộc Đồng khởi lịch sử. Lúc này ông được thăng hàm trung tá. Nhiều người cho rằng vì họ Ngô còn nghi kỵ Phạm Ngọc Thảo nên mới đưa ông đến Kiến Hòa là để thử thách lòng trung thành, nhưng theo chúng tôi thì không thể như vậy, không người cầm quyền nào đem sự thành bại của chế độ ra mà thử thách thuộc hạ. Ngô Đình Diệm muốn Phạm Ngọc Thảo áp dụng chính sách “thân dân” của ông ngay trong vùng nước sôi lửa bỏng.

Về làm tỉnh trưởng một thời gian, ông Thảo thả hơn 2.000 tù chính trị, trong đó có ông Võ Viết Thanh (sau này là Chủ tịch UBND TP.HCM), nói là thực hiện chính sách thân dân của Ngô Tổng thống, bất chấp những lời tố cáo ông liên tục gửi về Sài Gòn. Theo tài liệu ghi chép lại của ông Sáu Trí, Trưởng ty Công an Kiến Hòa lúc đó đã báo cáo với thiếu tướng Nguyễn Văn Là, Tổng giám đốc Công an cảnh sát như sau: “Ông tỉnh trưởng này khả nghi quá. Những cuộc hành quân bố ráp của ngành an ninh trong vùng cộng sản mới chiếm đã bắt nhiều người đem về để rà soát tìm những tên đầu sỏ nhằm tiêu diệt lực lượng cộng sản từ cơ sở, nhưng chúng tôi chưa kịp thẩm vấn ai, chưa kịp làm gì thì ổng cho thả gần như 99%. Không cơ quan an ninh nào muốn làm việc nữa. Nếu hành quân đem về buổi chiều, ổng bảo đem số người bị bắt vào dinh ổng nghỉ tạm, mấy bà già và phụ nữ lớn tuổi ổng đem lên lầu ở, số còn lại ở bên dưới. Ban đêm nấu cháo gà đãi, sáng ra ông cho tập hợp lại, đến nói chuyện chính trị, tuyên truyền chính sách thân dân của Ngô Tổng thống, xong rồi cho thả về hết, có người còn được cấp tiền xe…”. Thiếu tướng Là cắt ngang, ngao ngán: “Tổng thống khen Phạm Ngọc Thảo hết lời, bảo tỉnh trưởng các tỉnh toàn quốc đến Kiến Hòa học cách làm của trung tá Thảo”.

5. Bị cách mạng ám sát

24/12/2012 0:15

Ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ…

Hành động của Phạm Ngọc Thảo tại Bến Tre như thả tù chính trị và khôn khéo lái các cuộc hành quân tảo thanh vào chỗ không người đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn lực lượng cách mạng, tạo điều kiện mở rộng cuộc Đồng khởi ở miền Nam. Nhưng đó là nhận định sau này, khi đã biết Phạm Ngọc Thảo là người của ta. Còn lúc đó, nhận định của Tỉnh ủy Bến Tre thì hoàn toàn ngược lại.

Chúng tôi đã gặp một trong hai người trực tiếp ném lựu đạn giết Phạm Ngọc Thảo. Đó là ông Đặng Quốc Tuấn (Sáu Tuấn), sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, rồi làm Giám đốc Đài phát thanh – truyền hình tỉnh Bến Tre cho đến khi về hưu. Người kia là ông Ngô Văn Thiều đã qua đời.

Hôm đó là ngày Quốc khánh VNCH 26.10.1961, một cuộc mít tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội, ngay đầu cầu Bến Tre 1 chợ Vườn Hoa bây giờ. Người giao nhiệm vụ là ông Hai Trung, Tỉnh ủy viên phụ trách Thị ủy. Nhiệm vụ ông Hai Trung giao trực tiếp cho ông Thiều, đã thoát ly, cùng 5 trái lựu đạn, 3 trái nội hóa, 2 trái MK2 của Mỹ. Ông Thiều giao nhiệm vụ lại cho ông Sáu Tuấn, lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10). Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, 3 trái kia để ở nhà ông Thiều. Ông Thiều đứng tại vị trí ngay trụ sở Báo Đồng Khởi bây giờ, còn ông Sáu Tuấn đứng cách 10 m. Theo hợp đồng, ông Thiều ném trước, ông Sáu Tuấn ném tiếp theo, ném xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã.

Ông Sáu Tuấn kể: “Sau khi ông Thảo đọc diễn văn, lúc đó khoảng 8 giờ 30, tới phần diễu hành. Tất cả quan khách đứng lên nhìn ra phía diễu hành. Ông Thiều liệng 1 trái, lựu đạn rơi cách ông Thảo 1,5 m, không thấy nổ, tôi liệng tiếp 1 trái cách ông Thảo 5 m rồi bỏ chạy, cũng không nổ luôn. Lúc đó bọn tôi bỏ chạy không để ý, sau giải phóng chị Nhiệm vợ ông Thảo về Bến Tre gặp chúng tôi có nói lại mới biết lúc đó ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn. Tôi chưa biết ông Thiều bị bắt tại chỗ, nên chạy về nhà ông Thiều định lấy tiếp 3 trái còn lại. Rủi cho tôi, tại nhà ông Thiều đã có mật báo dẫn người lên ém, tôi đến bọn chúng giữ lại, chưa bắt ngay. Chúng vô nhà xét, lấy 3 trái lựu đạn và chiếc cặp da đi học tôi để ở nhà ông Thiều, vì cái cặp da có dấu cây súng trước đây tôi để trong cặp, nên tôi bị bắt, bị đánh tại chỗ. Tôi và ông Thiều bị giam riêng. Do không lường trước là bị bắt nên chưa thống nhất cách khai, vì vậy mỗi người nói một phách. 20 ngày sau, khi giam chung mới thống nhất lại


Phạm Ngọc Thảo lúc làm tỉnh trưởng Kiến Hoà (Ảnh báo Life)

Sau khi bị bắt 1 tuần, ông Thảo có gặp hai ông. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi: “Tại sao là học sinh mà đi ám sát tỉnh trưởng ngay tại ngày quốc khánh? Có phải cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?”. Trả lời: “Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới cộng sản, không có ai giao việc cả”. Ông Thảo dịch như thế nào ông Sáu Tuấn không biết. Ông Thảo chỉ nói với hai ông: “Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm”. Lần thứ hai, ông Thảo đến hỏi thăm trước khi đưa về Chí Hòa.

Tháng 3 năm sau, Tòa án quân sự đặc biệt mở phiên tòa xử hai ông theo luật 10/59, một đại tá tên Khoa làm công tố. Do có sự vận động của phong trào yêu nước ở Sài Gòn, nên luật sư Trịnh Đình Thảo đến bào chữa cho hai ông. Tuy nhiên, hai ông tự cãi là chính. Hai ông tố cáo sự tàn bạo của chế độ và dõng dạc nói: “Tụi tôi không phải là Việt cộng, nhưng nếu như được Việt cộng tổ chức làm như vậy tụi tôi cũng tham gia”. Hai ông còn lên án phiên tòa vi phạm luật quốc tế, xử vị thành niên chưa tới 18 tuổi, đại tá Khoa rút gươm lệnh ra nói lớn: “18 tuổi là luật cộng sản, Việt Nam cộng hòa xử 13 tuổi”. Do những gì cần cãi hai ông đã tự cãi rồi, nên luật sư Trịnh Đình Thảo chỉ đề nghị khoan hồng.


Ông Đặng Quốc Tuấn (Ảnh Nguyễn Khoa Chiến)

Hai ông bị kết án mỗi người 20 năm tù, đưa về Chí Hòa, sau đó đưa ra Côn Đảo, chung một chuyến với những người tù nổi tiếng Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Ngoài Côn Đảo, hai ông đấu tranh, chống chào cờ, được kết nạp Đảng trong tù. Năm 1965, sau khi ông Thảo bị sát hại, bỗng nhiên hai ông được đưa về Chí Hòa, lúc ấy anh em trong tù nhận định hai khả năng, hoặc là được thả hoặc tăng án lên tử hình. Lúc đó 2 ông đã chống chào cờ rồi, về Chí Hòa chúng chỉ yêu cầu hai ông chào cờ, nhưng hai ông dứt khoát không chịu, mà chống chào cờ là tự nhận là cộng sản, nên dù ông Thảo có là cộng sản đi chăng nữa thì tội của hai ông cũng không nhẹ đi được, do đó sau 20 ngày chúng đưa trở lại Côn Đảo. Ông Thiều được thả năm 1973, thoát ly lên chiến khu, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy TP.HCM, qua đời năm 1984 vì bệnh. Còn ông Sáu Tuấn đến ngày giải phóng mới về.

Chúng tôi hỏi ông Sáu Tuấn: “Có phải 2 trái lựu đạn không nổ là do tổ chức bố trí để ám sát giả?”. Trả lời: “Không có chuyện đó. Ám sát ông Thảo là làm thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là có nội gián của địch trong công binh xưởng lúc kiểm tra lựu đạn. Sau này ta đã bắt được một ông. Làm cho lựu đạn không nổ rất đơn giản, chỉ cần nhúng sáp đèn cầy vào tim cháy chậm, khi giật lửa cháy lên khiến cho sáp chảy ra bít ngòi nổ”. Hỏi: “Tại sao Tỉnh ủy phải quyết giết ông Thảo?”. Trả lời: “Mãi sau này mới biết ông Thảo có công lớn, chứ theo nhận định của Tỉnh ủy lúc đó thì khi phong trào Đồng khởi đang lên mà ông Thảo lại thả tù, người mới bắt thì đối xử tử tế, gom vào sân vận động giải thích rồi cho về hết, làm nhụt ý chí chiến đấu của quần chúng. Đó là tên tỉnh trưởng mỵ dân rất nguy hiểm, cần phải trừ khử”.

Vì giết ông Thảo mà ông Sáu Tuấn ở tù 14 năm, 17 tuổi vào tù, ra tù 31 tuổi. Bà Phạm Thị Nhiệm thỉnh thoảng về nước đến Bến Tre thăm lại những kỷ niệm xưa, đều thăm ông Sáu Tuấn, bà nói: “Ngày xưa anh Thảo vẫn nhắc đến tụi mày”. Các con ông Thảo cũng có về. Ông Tuấn nói con ông Thảo một đứa sinh ở Bến Tre, một đứa khác vừa rồi về cưới vợ, nghe đâu ở An Giang.

6.  Suýt làm Thủ tướng Việt Nam cộng hòa

25/12/2012 4:05

“Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi” – lời ông Nguyễn Cao Kỳ nói với Thanh Niên.

Năm 1962, sau khi thôi làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa, sang Mỹ học một khóa quân sự cao cấp, Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống. Thời gian này mối quan hệ giữa ông với ông Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang càng thân thiết. Với sức thuyết phục mạnh mẽ của một nhà quân sự vừa có trình độ, vừa chân thành vốn có, ông được nhiều sĩ quan có tinh thần dân tộc ngưỡng mộ.


Phạm Ngọc Thảo (giữa) chỉ huy đảo chánh
(Ảnh báo LIFE)

Trong những năm 1962 – 1963, giữa lúc phong trào Đồng khởi lan rộng ở nông thôn, chính trường miền Nam Việt Nam trở nên rối ren. Gia đình họ Ngô vừa cai trị độc tài, vừa muốn thoát khỏi sự can thiệp của người Mỹ, tình hình này khiến cho phong trào đấu tranh của quần chúng ở đô thị dâng cao. Người Mỹ thì muốn gạt bỏ gia đình họ Ngô để thay vào đó giới lãnh đạo thân Mỹ nhằm biến miền Nam thực sự là một tiền đồn chống cộng. Biết trước sau gì gia đình họ Ngô cũng bị người Mỹ lật đổ để dựng lên một chính quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu “cải sửa” chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ. Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ, Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm lãnh sự ở Ai Cập. Ngô Đình Nhu không tin Phạm Ngọc Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin ông Thảo phản bội, thứ hai là ông Thảo “không có quân”. Thực ra lúc đó ông Thảo đã được nhiều sĩ quan chỉ huy ở Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, một số đơn vị biệt động quân, bảo an hậu thuẫn. Cuộc đảo chính không thành chủ yếu do thành phần đảo chính không phải là những người mà người Mỹ có thể nắm được.

Và như chúng ta đã biết, ngày 1.11.1963, một nhóm tướng lĩnh do Mỹ bật đèn xanh, đã tiến hành đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Anh em ông Diệm, ông Nhu bị chết thảm. “Hội đồng quân nhân cách mạng” (HĐQNCM) do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền. Phạm Ngọc Thảo dù không chủ động tham gia cuộc đảo chính này, vẫn được HĐQNCM cử làm tùy viên báo chí, sau đó được cử sang Mỹ tu nghiệp. HĐQNCM cầm quyền được 2 tháng, đã bị tướng Nguyễn Khánh và tướng Trần Thiện Khiêm 2 lần “chỉnh lý”, thâu tóm mọi quyền lực.

Lên cầm quyền, Nguyễn Khánh rút Phạm Ngọc Thảo về nước, cử làm giám đốc báo chí, phát ngôn viên chính phủ, lúc này ông đã được thăng đại tá. Mâu thuẫn giữa các tướng lĩnh trong giới cầm quyền ngày càng gay gắt, Nguyễn Khánh tiếp tục loại Trần Thiện Khiêm, đưa ông tướng này đi làm đại sứ tại Mỹ. Phạm Ngọc Thảo cũng được đưa sang Mỹ làm tùy viên văn hóa, quân sự vào đầu tháng 10.1964. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định cư ở Mỹ cho đến ngày nay). Tuy nhiên, sau đó do nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo, nên cuối năm 1964, Nguyễn Khánh ra lệnh triệu hồi Phạm Ngọc Thảo về nước, với ý đồ sẽ bắt ông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phạm Ngọc Thảo đã khôn khéo không về đúng giờ bay dự định nên thoát. Có mặt ở Sài Gòn, ông bí mật móc nối tổ chức lực lượng, kéo tướng Lâm Văn Phát và hàng chục sĩ quan khác tiến hành cuộc đảo chính ngày 19.2.1965.

Điều kỳ lạ là lúc đó Phạm Ngọc Thảo, tuy là đại tá nhưng không cầm quân và đang bị Nguyễn Khánh truy bắt, lại có thể tổ chức và chỉ huy một lực lượng không dưới một sư đoàn làm binh biến (gồm các đơn vị thiết giáp với 45 xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương quân, lực lượng của Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh). Cuộc binh biến do tướng Lâm Văn Phát cầm đầu về danh nghĩa, còn thực tế do Phạm Ngọc Thảo tổ chức và chỉ huy, sau này người ta gọi ông là “Tư lệnh hành quân 19.2”.

Chỉ trong 1 ngày, lực lượng đảo chính đã chiếm Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô (trại Lê Văn Duyệt), Đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Đáng tiếc là do một số sơ sót trong hợp đồng tác chiến, Nguyễn Khánh đã được Tư lệnh Không quân lúc đó là Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát.

Chúng tôi có dịp gặp ông Nguyễn Cao Kỳ năm 2008. Hỏi về sự kiện này, ông Nguyễn Cao Kỳ nói: “Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi”. Ngẫm nghĩ một hồi, ông Kỳ nhớ lại: “Cuộc đảo chính diễn ra bất ngờ đến mức tôi không kịp mặc áo, chỉ mặc may ô chui hàng rào thép gai ra lấy máy bay chạy về Biên Hòa. Sau đó ông Thảo lên Biên Hòa gặp tôi, cùng đi có một đại tá Mỹ. Ổng thuyết phục tôi ủng hộ quân đảo chính. Nói thật là tôi không ưa gì Nguyễn Khánh, nhưng quân đội đánh nhau tôi không đồng ý. Tôi bảo các anh phải cho quân về ngay doanh trại, đến 5 giờ chiều mà không rút quân tôi sẽ cho máy bay ném bom”. Đó là lý do khiến cuộc đảo chính thất bại.

Tuy nhiên, Nguyễn Khánh cũng bị loại. Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và một số tướng lãnh được sự hậu thuẫn của người Mỹ đã lựa gió phất cờ, họp Hội đồng tướng lãnh buộc Nguyễn Khánh từ chức và trục xuất ông này ra nước ngoài với danh nghĩa là “đại sứ lưu động”, cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính, ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát cùng 13 sĩ quan “đầu sỏ” tham gia đảo chính trong vòng 24 giờ phải ra trình diện. Phạm Ngọc Thảo, tướng Lâm Văn Phát, trung tá Lê Hoàng Thao (Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46) bỏ trốn.

Tháng 6.1965, Hội đồng tướng lĩnh giải tán chính phủ dân sự của Phan Huy Quát, đưa tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia (tương đương quốc trưởng), tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (tương đương thủ tướng). Chính quyền Thiệu – Kỳ lập tòa án quân sự để xử những người tham gia đảo chính. Phạm Ngọc Thảo bị kết án tử hình vắng mặt, chúng treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt được ông.

Lúc này tuy ông phải lẩn tránh sự truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn. Ông liên lạc với ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt gặp ông và gợi ý ông ra chiến khu cho an toàn, có thể dẫn theo tiểu đoàn này với danh nghĩa binh biến ly khai. Tuy nhiên, ông cho biết ông vẫn còn có khả năng tổ chức đảo chính để ngăn chặn chính quyền quân phiệt rước quân viễn chinh Mỹ vào gây tội ác. Ông Võ Văn Kiệt đồng ý.

Phạm Ngọc Thảo tiếp tục hoạt động bí mật ở Sài Gòn, cho xuất bản tờ “Việt Tiến” để tập hợp lực lượng. Ông được các giám mục, linh mục, giáo dân Công giáo cùng nhiều bạn bè trong và ngoài quân đội giúp đỡ, bảo vệ.

Còn Nguyễn Văn Thiệu, sau khi lên nắm chính quyền, thấy rõ Phạm Ngọc Thảo là mối đe dọa nguy hiểm đến vị trí quyền lực của mình, nên quyết tìm mọi cách tiêu diệt ông để trừ hậu họa

7. Cái chết bi thảm và sứ mệnh hoàn hảo

26/12/2012 0:25

“Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo” – linh mục Nguyễn Quang Lãm.

Chúng tôi hỏi ông Nguyễn Cao Kỳ: “Ai đã giết Phạm Ngọc Thảo?”. Ông Kỳ: “Sau lần tiếp xúc ở Biên Hòa, tôi không gặp Phạm Ngọc Thảo nữa và không quan tâm đến chuyện của ông ấy”. Hỏi: “Hồi đó mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Ông Kỳ: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”.

“Mọi quyết định đều do ông Thiệu”, ông Kỳ nói đúng. Nhưng ông Kỳ nói ông không quan tâm đến ông Thảo thì chưa chắc đúng.

Linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ bút Báo Xây Dựng, là người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo. Ông không những che chở, giữ liên lạc và làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Phạm Ngọc Thảo mọi lúc mọi nơi, mà còn đăng công khai trên báo chí những điều tốt đẹp nhất về Phạm Ngọc Thảo, dù ai có nói ông Thảo là cộng sản ông cũng mặc kệ. Sau khi ông Thảo bị giết hại, Báo Xây Dựng của cha Lãm đã đăng loạt bài điều tra 40 kỳ về cái chết của ông. Chưa hết, gần 10 năm sau, vào năm 1974, cha Lãm còn viết một loạt bài nhiều kỳ đăng trên Báo Hòa Bình, lại đề cập đến việc ai đã giết Phạm Ngọc Thảo, ai đã bán đứng Phạm Ngọc Thảo.

Theo cha Lãm thì: “Đại tá Phạm Ngọc Thảo là người can đảm, một kẻ dám làm một cái gì, một người có những tư tưởng lạ, những tư tưởng lớn về chuyện Đất Nước”. Ông nghĩ vậy và ông nghĩ rằng ông Nguyễn Cao Kỳ cũng có thể nghĩ như ông, vì ông biết ông Kỳ rất muốn gặp Phạm Ngọc Thảo sau cuộc đảo chính. Cha Lãm muốn đưa ông Thảo đến trại Phi Long (căn cứ không quân) gặp Nguyễn Cao Kỳ, nhưng vì mỗi lần gặp ông Kỳ cứ nhắc đi nhắc lại “Anh ta đâu?” một cách sốt sắng, nên vị linh mục đâm ra cảnh giác: “Nhỡ ra tướng Kỳ nổi hứng hay nổi đóa giữ Phạm Ngọc Thảo lại nộp cho cơ quan an ninh thì sao?”. Vì vậy, thay vì đưa ông Thảo đến, cha Lãm đến gặp ông Kỳ đề nghị đưa ông Kỳ đến gặp ông Thảo tại một địa điểm bí mật với điều kiện: đi một mình, không cho cận vệ đi kèm, không dắt súng lục, không nhấc điện thoại gọi về nhà dù chỉ bảo “Hôm nay không về ăn cơm nhà”. Hôm đó ông Kỳ “OK” nhưng bảo “đang bận hôm nay không đi được”. Cha Lãm thuật lại chuyện này với Phạm Ngọc Thảo, nhưng ông Thảo bảo cha không cần thận trọng như thế, rằng ông có thể đến trại Phi Long gặp ông Kỳ được, rằng “mời ông ta ra chỉ cho thấy mình yếu bóng vía và không tin cậy ông ta”. Hai hôm sau, cha Lãm tới nơi ông Thảo lánh nạn (tại một cao ốc trên đường Ngô Đức Kế) để đưa ông Thảo vào trại Phi Long thì ông Thảo đã rời khỏi chỗ này rồi, do bị lộ, an ninh đến lục xét. Một tuần sau, cha Lãm mới hết lo lắng khi ông Thảo nhắn cha lên Biên Hòa và cho biết mình đang ở chỗ xứ cha Cường. Vị linh mục kể lại chuyện này kèm theo những lời trìu mến: “Chỉ tội ở đó không có điện thoại để con người làm cách mạng đó móc nối liên lạc với các đồng chí và lúc buồn buồn có thể nói được dăm ba câu với một vài người đẹp”. Nhưng 3 tuần sau, ngày 17.7.1965, cha Lãm nhận được điện thoại của một ký giả làm cho một hãng thông tấn ngoại quốc báo tin ông Thảo đã bị giết rồi.

Tài liệu chính thức của ta hiện nay đều nói về cái chết của Phạm Ngọc Thảo: Ông bị an ninh chính quyền Sài Gòn bắt đem đi thủ tiêu vào ngày 15.7 nhưng ông chỉ bị thương nặng, được các linh mục và nữ tu đem về một tu viện chăm sóc, sau đó nhà cầm quyền truy lùng tung tích và bắt ông đưa về cơ quan an ninh quân đội vào ngày 16.7. Tại đây, Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ đã tra tấn và bóp hạ bộ ông cho đến chết ngay trong đêm hôm đó. Báo chí và dư luận ở Sài Gòn trước giải phóng cũng nói như vậy. Chính cha Lãm đã trực tiếp gặp Nguyễn Ngọc Loan để hỏi cho ra nhẽ. Tướng Loan chối, bảo rằng không có chuyện đó, rằng ông Thảo chết là do bị thương quá nặng, thậm chí ông ta còn nói mình không liên quan đến chuyện bắt bớ ông Thảo. Vị linh mục nói ông đã đem lời tướng Loan kể lại cho đàn em và bạn bè Phạm Ngọc Thảo, nhưng không ai tin, “người ta sẵn sàng tin là tướng Loan nói thật, nhưng đó là sự thật ghi trên các phúc trình, báo cáo, biên bản của bác sĩ”.


Phạm Ngọc Thảo bị ám sát
(Ảnh Tư liệu)

Cha Lãm còn cho hay, Phạm Ngọc Thảo thường thay đổi chỗ ở với những hành tung lạ lùng, có khi ông ở ngay gần bót cảnh sát, ở chỗ nào ông cũng cho cha Lãm biết. Cuối cùng, khi những nơi khác không an toàn, ông về xứ Đa Minh của cha Cường ở Thủ Đức, rồi đến trú tại tu viện Phước Sơn. Tại đây, cha Lãm cũng làm hết sức mình để ông được an toàn nhất. Ông được các linh mục hết lòng bảo vệ, tuy nhiên, theo cha Lãm thì chính lòng tốt và sự thiệt thà của các linh mục bảo vệ ông đã khiến ông bị lộ. Khi ông bị thủ tiêu không chết, được các linh mục đưa về giáo xứ Đa Minh cứu chữa, bọn chúng cũng lần theo các linh mục để truy tìm ông.

Cha Lãm cho biết thêm, khi bọn chúng cấp tốc đưa Phạm Ngọc Thảo về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 trong tình trạng bị thương rất nặng, một chiếc trực thăng H-34 chở ông thẳng về Bộ Tổng tham mưu, tại đây người của Nguyễn Ngọc Loan đã chờ sẵn, lúc đó là 7 giờ tối 16.7. Trên quốc lộ 4, những người thân của Phạm Ngọc Thảo cũng rú ga xe chạy đến Mỹ Tho và Cần Thơ gặp 2 vị giám mục, đã có những cú điện thoại gọi về trong đêm cho trung tướng Thiệu, nhưng ngay trong đêm ông Thảo đã chết rồi. Vị linh mục còn viết tiếp: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”.

Điều chắc chắn là Nguyễn Văn Thiệu không tin ông Thảo là cộng sản, ông ta biết các vị chức sắc Công giáo cùng nhiều sĩ quan thuộc quyền ông ta cũng không tin ông Thảo là cộng sản. Bởi vậy mà Phạm Ngọc Thảo phải chết, vì ông là một đối thủ đáng gờm của người cầm quyền. Một người được giới chức sắc Công giáo hậu thuẫn, được giới quân sự nể phục, một người tay không mà tổ chức một cuộc binh biến khiến cho Nguyễn Khánh đang nắm trong tay cả một quân đội phải chạy tóe khói, người ấy không đáng gờm sao được! Nếu Nguyễn Văn Thiệu, nếu các vị giám mục, linh mục tin Phạm Ngọc Thảo là cộng sản thì chưa chắc ông đã bị thủ tiêu. Những nhà tình báo lừng lẫy như Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Tài… cũng như nhiều cán bộ cách mạng cấp cao bị bắt, giới cầm quyền biết chắc các vị là cộng sản, các vị bị đày ra Côn Đảo, nhưng các vị có bị thủ tiêu đâu.

Phạm Ngọc Thảo chết khi mới 43 tuổi. Cuộc đời ông kết thúc bi thảm, nhưng sứ mệnh ông thực hiện là hoàn hảo. Sự hoàn hảo không phải trên vỏ bọc mà ở hành động vì nước vì dân không che giấu, ở cuộc sống chính trực và tấm lòng chân thành. Cho đến bây giờ, khi biết ông là người của cách mạng, những bạn bè và những người quen biết ông từng ở phía bên kia vẫn yêu mến, vẫn ngưỡng mộ ông.

Hoàng Hải Vân

@Viet-Studies

Lãnh tụ ở đâu?

Blogger Huỳnh Thục Vy

Viết từ Buôn Hồ, tỉnh Đắc Lắc

Biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội hôm 9/12
Các cuộc tập hợp ở Việt Nam cần người dẫn dắt?

Tôi luôn nghĩ: phong trào dân chủ Việt Nam hiện nay đang thiếu một nhà lãnh đạo.

Nhưng có ý kiến lại cho rằng: ‘Một người lãnh đạo sẽ không sớm thì muộn lại đưa Việt Nam vào chế độ độc tài’. Một số khác thì quả quyết: phong trào dân chủ cần sự ủng hộ của quần chúng, chứ không cần một người lãnh đạo.

Sau những diễn biến dân chủ hóa ở Miến Điện, chính một trong số những người đã từng bác bỏ quan điểm của tôi, lại ca ngợi bà Aung San Suu Kyi như một ‘lãnh tụ có tâm, có tầm’.

Mâu thuẫn

Làm sao chúng ta có thể, một mặt, phủ nhận tầm quan trọng của một người lãnh đạo phong trào dân sự đòi dân chủ ở Việt Nam, mặt khác, hồ hởi tung hô vai trò của một ‘người hùng’ ở nước khác? Sự phủ nhận đầy mâu thuẫn ấy, chỉ là cách để chúng ta biện minh cho những khó khăn, yếu kém khó vượt qua của mình, cũng là cách thể hiện sự thiếu hiểu biết trong so sánh tình hình nước ta với nước khác.

Sự lo sợ về một chế độ độc tài hậu cộng sản không phải là lý do chính đáng (chưa nói đến sự khác biệt rất lớn giữa lãnh đạo và lãnh tụ). Khi chúng ta ca ngợi không tiếc lời bà Suu Kyi, chúng ta có nghĩ bà sẽ trở nên độc tài? Thiết nghĩ, độc tài hay không, không phải do sự hiện diện của người lãnh đạo mà thành. Nó là kết quả của nhiều nguyên nhân: sự yếu kém về ý thức tự do và khát vọng dân chủ của người dân, sự yếu kém của xã hội dân sự, tính chất của trào lưu chính trị trong khu vực và việc có hay không sự can thiệp của một quốc gia độc tài lớn hơn…

Khi chúng ta đề cao vai trò của lãnh đạo đối lập Miến Điện như là một người sáng suốt, ‘giữ được cân bằng để vừa đấu tranh kiên trì, vừa đối thoại để tạo lối thoát cho chính quyền độc tài’, chúng ta đã cố tình bỏ qua vai trò trọng tài của người Mỹ. Có thể người Mỹ không giúp được gì trong việc xây dựng dân chủ (công việc cần nhiều nội lực), nhưng không thể bác bỏ vai trò trọng tài của họ trong cuộc chuyển hóa này. Vai trò ấy đặc biệt quan trọng để đảm bảo hai bên độc tài-dân chủ có đủ cơ sở để tin nhau, để đi đến đối thoại.

Nếu không có người Mỹ, không ai dám đảm bảo bà Suu Kyi sẽ không bị thua thiệt khi tiến hành đối thoại. Hãy đặt trường hợp Việt Nam, bạn muốn đối thoại với người cộng sản, sớm muộn bạn sẽ nhận ra bạn bị họ dắt mũi. Hay bạn có thể tưởng tượng, kết quả ở Miến Điện sẽ thế nào nếu trọng tài không phải là Hoa Kỳ mà là Trung Quốc?

Aung San Suu Kyi trong chuyến thăm MỹViệt Nam đang thiếu một lãnh đạo đối lập có uy tín tầm cỡ quốc tế như bà Aung San Suu Kyi

Phong trào đấu tranh có lãnh đạo không những giúp gắn kết các cá nhân, các nhóm hoạt động tạo thành một tập hợp đủ mạnh, đối trọng với chính quyền độc tài; cổ vũ thành phần tiến bộ trong chế độ độc tài sớm phản tỉnh để gia nhập trào lưu tiến bộ; mà còn giữ cho chính trường hậu độc tài không bị thao túng bởi các thế lực chính trị cơ hội. Việt Nam chưa có được may mắn đó nên khó có thể chuyển hóa không đổ vỡ. Nhưng vì sao chúng ta chưa có được điều tốt đẹp mà người Miến Điện đã có?

Đi tìm nguyên nhân

Độc tài cộng Sản là một dạng độc tài tinh vi và có hệ thống hơn hẳn dạng gia đình trị và quân phiệt. Họ có một mô hình cai trị sắt máu nhưng mị dân đã được kiểm chứng ‘tính hiệu quả’ trên một diện rộng quốc tế và trong một thời gian dài. Với hệ thống mật vụ đặc trưng của mọi chế độ cộng sản, chính quyền Việt Nam có thể kiểm soát tất cả hoạt động và quan hệ trong xã hội. Sự len lỏi và khống chế toàn bộ xã hội của hệ thống an ninh làm biến dạng mọi mối quan hệ thông thường. Sợ hãi và thiếu niềm tin lẫn nhau làm cho các cá nhân tồn tại rời rạc, thiếu hẳn những gắn kết cộng đồng, đặc biệt là trong những vấn đề liên quan đến chính trị.

Người ta không thể làm việc với nhau, chia sẻ những giá trị và ý nguyện trong các vấn đề chung một cách hiểu quả nếu không phân biệt được người đang làm việc với mình là một người bạn tâm đắc hay là một ‘ăng ten’. Và sẽ là thiếu sót nếu không nói đến mô hình cai trị ‘đỉnh cao trí tuệ’ của chính quyền cộng sản trong cách họ đưa tất cả các hội đoàn dân sự vào hệ thống chính trị để chúng trở nên công cụ đắc lực theo dõi và kiểm soát xã hội. Không một tổ chức nào có thể phát khởi lên trong một môi trường bị đầu độc hoàn toàn như thế. Mà dù có xuất hiện thì cũng khó tồn tại trong một thời gian đủ dài vì các âm mưu gián điệp sẽ phá vỡ mọi kế hoạch và chương trình hoạt động của tổ chức đó.

Không có sự kết hợp vững chắc và sự phát triển lâu dài của một tổ chức hay nhiều tổ chức hợp lại với nhau thì nhu cầu hiện diện một nhà lãnh đạo chung cho cả phong trào sẽ không được đặt ra.

Tôi tự hỏi Đảng Liên đoàn quốc gia vì dân chủ của bà Suu Kyi làm sao để quy tụ được hàng ngàn người trước khi các nhà hoạt động ấy bị bắt? Bà đã đọc diễn văn trước hàng ngàn người ủng hộ trước khi cuộc đàn áp đẫm máu diễn ra. Điều này làm tôi liên tưởng đến cảnh một nhà đấu tranh uy tín ở Việt Nam không thể bước ra khỏi nhà để tham gia một cuộc xuống đường yêu nước. Chế độ độc tài Miến Điện vẫn còn thua xa cộng sản Việt Nam về sự đàn áp tinh vi. Cộng sản Việt Nam không bao giờ để cho một cuộc tập hợp đông đảo xung quanh một nhân vật có uy tín như vậy xảy ra, vì thế họ không có nhu cầu phải giải tán đám đông bằng súng đạn. Cách làm này vừa hiệu quả, vừa ít gây phẫn nộ trong nước cũng như quốc tế.

Công an giải tán biểu tình chống Trung Quốc hôm 9/12Sự đàn áp của chính quyền cộng sản khiến người dân sợ hãi và cam chịu?

Có thể có thêm một vài nguyên nhân khác.

Thứ nhất, lịch sử chia cắt và những tổn thương sâu sắc sau ‘cuộc chiến ý thức hệ’ đã chia rẽ toàn khối người Việt thành hai nhóm lớn: một bên coi cộng sản là tội ác chống nhân loại (điều này có bằng chứng); một bên cho rằng, dù có sai lầm hiện tại, nhưng cộng sản Việt Nam vẫn có chính nghĩa khi nắm quyền cai trị sau những cuộc ‘đấu tranh giành độc lập’. Đơn giản, họ có những “tâm tình” khác nhau đối với sự thật về người cộng sản. Hai thái độ khác biệt đó khiến chúng ta khó tìm được sự đồng thuận để đứng cùng nhau trong một tập hợp có phạm vi cả nước, để rồi có nhu cầu đưa lên một người lãnh đạo.

Thứ hai, ý chí và nguyện vọng tự do của người dân Việt nam còn rất yếu. Người lãnh đạo nào có thể quy tụ được những con người thờ ơ với vận mệnh của chính mình? Người lãnh đạo nào, dù can đảm và xuất sắc đến đâu, có thể có được sự quan tâm và ngưỡng phục chấn động thế giới nếu ông (bà) ta là một cá nhân hoàn toàn đơn độc?

Quần chúng sợ hãi

Chúng ta than thở rằng Việt Nam không có một lãnh đạo đủ uy tín, tài đức và dũng cảm như Daw Suu. Nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi: bà đã xuất hiện như một vận may của Miến Điện để quyết định cơ hội dân chủ hóa, hay chính những người dân Miến Điện dũng cảm, khao khát tự do dân chủ đã quy tụ xung quanh bà, tạo nên điều kiện thuận lợi và uy tín cho bà?

Về sự dũng cảm, Việt Nam không thiếu những con người dũng cảm đã dấn thân và hy sinh 10, 20, thậm chí 30 năm trong tù. Tôi không muốn dùng những lời ca ngợi sáo rỗng cho bất cứ cá nhân nào, nhưng sẽ thiếu sót nếu chúng ta quên những người đã đấu tranh từ những ngày đầu sau năm 1975. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế là một trong những người như thế, ông vẫn bám trụ ở Việt Nam, vẫn đồng hành với những người đấu tranh trong nước mấy mươi năm nay.

Nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Đan QuếĐiều kiện ở Việt Nam hiện chưa phù hợp để có một lãnh tụ đối lập?

Bà Suu Kyi có bằng cấp khoa bảng, có dũng khí, yêu nước và ôn hòa; bác sĩ Quế không thiếu những tố chất này. Vậy sao bà có sự ủng hộ của quần chúng và uy tín lớn trên thế giới – điều mà bác sĩ Quế chưa có được?

Xin hỏi: làm sao một người lãnh đạo có thể tranh thủ được sự ủng hộ của một khối người sợ hãi và cam chịu? Làm sao một nhà đấu tranh có thể quy tụ được quần chúng khi không thể nào tiếp cận được với họ? Làm sao nhà đấu tranh ấy trở nên một lãnh đạo dân sự gây được tiếng vang nếu không có một tổ chức lớn mạnh, đấu tranh kiên trì đứng sau lưng ông (bà) ta?

Đặt ra câu hỏi như thế, chúng ta mới thấy rằng chính bản thân bà Suu Kyi không thể tự tạo ra một mãnh lực kỳ diệu để thu hút quần chúng nếu người dân không chủ động bước ra khỏi sợ hãi để đến với bà; và chính bà cũng sẽ không gây được sự chú ý quốc tế nếu đảng NLD không hề tồn tại hoặc tồn tại trên danh nghĩa (vì bị chính quyền Miến Điện dập tắt từ trứng nước).

Còn nếu chúng ta nói về xuất thân, bà Suu Kyi tất nhiên có lợi thế có một không hai. Nhưng lợi thế ấy e rằng sẽ chẳng phát huy tác dụng ở một đất nước đầy sợ hãi như Việt Nam. Chưa nói đến chuyện: với sự chia rẽ ý thức hệ từ quá khứ đến nay, một người anh hùng dân tộc thực sự rất nhiều khả năng bị một số lớn người phủ nhận, do cách đánh giá khác nhau về lịch sử. Bằng chứng là những người cộng sản từng coi Phan Chu Trinh là ‘nhà cải cách cải lương’. Một người như cha bà Suu Kyi mà ở Việt Nam biết đâu sẽ bị gọi là Việt gian?

Vả lại, khi coi trọng xuất thân, chúng ta đang gián tiếp thừa nhận mình cần một nhà lãnh đạo xuất thân trâm anh? Chúng ta muốn con cái một người lãnh đạo, một anh hùng dân tộc lại tiếp tục lãnh đạo? Tâm lý đó không thích hợp với những người thực sự khao khát tự do, thực sự muốn quyền làm chủ quốc gia thuộc về người dân.

“Sự thiếu vắng một người lãnh đạo hiện nay không chỉ gây khó khăn cho sự phát triển phong trào mà còn là một lực cản lớn cho nỗ lực chuyển hóa dân chủ không đổ vỡ.”

Một cuộc thay đổi ôn hòa với sự hiện diện của nhà lãnh đạo đối lập, sớm muộn sẽ đưa những nhà độc tài có tội ra trước vành móng ngựa. Nhưng lãnh đạo đối lập có khả năng và uy tín lớn để hướng sức mạnh quần chúng vào dựng xây nền dân chủ, kiềm giữ sự phẫn nộ của họ để không phí sức lực vào những trả thù cá nhân.

Bằng không, những cựu lãnh đạo độc tài sẽ trở thành mục tiêu của sự báo thù, vì những bất công và tội ác đã đưa oán hận lên đến cực điểm. Tất nhiên, họ xứng đáng phải trả giá, nhưng vì sự bền vững của nền dân chủ, vì sự tập trung sức lực để xây dựng nền dân chủ non yếu, vì sự đảm bảo không xảy ra tình trạng vô chính phủ và sự tác oai tác quái của các thế lực chính trị cơ hội, chúng ta cần mọi thứ được giải quyết công khai, công bằng và bằng pháp luật.

Nhưng điều đó là mong ước khá mơ hồ ở Việt Nam. Sự thiếu vắng một người lãnh đạo hiện nay không chỉ gây khó khăn cho sự phát triển phong trào mà còn là một lực cản lớn cho nỗ lực chuyển hóa dân chủ không đổ vỡ.

Những người cộng sản đã tính rất kỹ để dập tắt phong trào đối lập bằng mọi cách mọi giá, không cho nổi lên bất cứ một lãnh đạo nào có khả năng đe dọa vai trò lãnh đạo của họ. Nhưng khi ‘hữu sự’, già quá hóa non. Họ sẽ phải trá giá vì những toan tính của họ!

Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả – một cây viết blog bất đồng chính kiến ở tỉnh Quảng Nam.

@bbc

Donguyen – Toan tính giải thoát nhóm lợi ích thông qua gói giải cứu thị trường Bất Động Sản

Donguyen
Sắp tới đây, chính phủ Việt Nam tung ra gói giải pháp cứu thị trường bất động sản, gói giải pháp tài chính. Có hai câu hỏi đặt ra ở đây:1. Trọng tâm gói giải pháp này là gì? Có thành công hay không? và,

2. Vấn đề thực sự mà nên kinh tế Việt Nam đang gặp phải là gì?

Về câu hỏi thứ nhất:

Trọng tâm của gói giải pháp này chính là bơm tiền cho vay để mua nhà, dưới hình thức hỗ trợ lãi suất. Ngoài ra các giải pháp kèm theo như giảm thuế, giản thuế, miễn thuế thật không đáng kể khi bản thân doanh nghiệp bất động sản không chỉ kinh doanh lỗ mà thậm chí doanh thu còn èo uột.

Để trả lời cho vế hai của câu hỏi thứ nhất, chúng ta phải truy xét rõ gốc gác nguyên nhân gây nên sự đóng băng thị trường bất động sản, để từ đó làm căn cứ xem xét tính hữu hiệu của gói giải pháp này. Ở đây, có hai nguyên nhân chính gây nên sự đóng băng thị trường bất động sản.

Thứ nhất, thặng dư quá nhiều sản phẩm không đáp ứng đúng với nhu cầu của thị trường, chứ không hẳn là cung vượt quá cầu như chúng ta thường nghĩ, vì điều đó hiển nhiên chúng ta hiểu rằng là, các sản phẩm tạo ra đáp ứng đúng với nhu cầu thị trường và khủng hoảng là do vượt trội về số lượng. Mà bản chất không phải vậy. Có hai sản phẩm chính mà thị trường bất động sản đang thừa thãi hiện nay là nhà ở/ khu nhà ở có giá bán vượt trội so với thu nhập người dân và các văn phòng cao ốc cho thuê. (Tôi không phân biệt khu dân cư cao cấp hay căn hộ cao cấp, vì ngay cả sản phẩm bình dân cũng đã có mức giá khó tiếp cận của đa số người có nhu cầu thực). Việt Nam có một nền kinh tế nhỏ bé, qui mô thương mại không quá lớn để hấp thụ hết các sản phẩm văn phòng và cao ốc cho thuê. Thu nhập người dân cũng không có khả năng mua các sản phẩm trên ngay cả ở tình trạng tiền mặt hay cho vay không lãi suất. (Một căn hộ bình dân hiện nay có mức giá khoảng 1 tỷ đồng (10-15tr/m2, diện tích 75-100m2) tức khoảng 50.000 USD so với mức thu nhập bình quân đầu người là 1.300 USD/năm. Mất đến 38 năm tiết kiệm không chi tiêu, trong khi tại Hoa Kỳ với thu nhập bình quân đầu người tầm khoảng 47.000 USD và giá căn hộ dành cho 5 người ở thoải mái chỉ tầm giá 150-200 ngàn USD. Tức họ chỉ mất có 4 -5 năm tiết kiệm để mua một căn hộ, không chi tiêu).

Thứ hai, lạm phát về giá sản phẩm. Những năm gần đây, trước khi xảy ra khủng hoảng thị trường bất động sản, Việt Nam luôn có mức lạm phát ở mức hai con số và đỉnh điểm mức lạm phát đạt đến 28%. Khi đó, không chỉ các ngành nghề khác phải đối mặt với lạm phát, khó khăn về nguyên liệu do giá tăng cao mà ngay trong ngành thị trường bất động sản cũng không tránh khỏi. Vùng giá xi măng, sắt thép, lao công, vật liệu liên tục nhảy múa. Tức, giá nhà đất hiện nay đang đứng trên bong bóng của những năm trước. Trong khi nền kinh tế đang đối diện với nguy cơ khủng hoảng tài chính – ngân hàng, mất cân bằng vĩ mô, nợ quốc gia tăng cao, nền sản xuất trì trệ và có đến hàng loạt doanh nghiệp phá sản, lao động thất nghiệp ngày càng gia tăng. Thì thị trường bất động sản vẫn đang đong đưa, cố thủ với các sản phẩm không chịu bán hạ giá.

Trong mức giá ấy, bao hàm cả những con số lạm phát của những năm trước. Nên chắc chắn không thể trông cậy vào giới đầu tư ăn xỗi ở thì, đầu tư ngắn hạn, san sẻ bớt một phần “gánh nặng”, vì họ không dám mua vào những quả bong bóng ấy, và thực sự, những kẻ ăn xỗi ở thì kia mới thực sự là người có sự rủng rỉnh tiền bạc. Mặt khác thì nó đã vượt xa mức thu nhập của xã hội để người có nhu cầu thực mua vào.

Vậy, gói giải pháp này có thành công hay không?

Không phải là một kết luận vội vàng, hay chỉ là một dự đoán xuông. Căn cứ vào hai nguyên nhân trên thì tôi chắc chắn một điều là không. Trừ phi, giá của nó giảm xuống 30 – 50%, thì may ra có thể sẽ bán bớt được một lượng hàng tồn kho.

Theo báo cáo chính thức, chỉ tính riêng tại TP HCM thì tính đến hết năm 2011 có đến 35 ngàn căn hộ đã hoàn thành đang chờ người mua, chưa tính đến số lượng lớn các nền đất chờ xây dựng, hay những căn hộ bị đầu cơ và nằm chờ hàng tháng nay. Trong đó, chỉ có khoảng 25% là căn hộ bình dân có giá bán 10 – 15tr/m2 và có đến khoảng ¾ là số căn hộ từ trung bình đến cao cấp.

Việc chính phủ Việt Nam tung ra gói cứu trợ này nhằm hỗ trợ về lãi suất cho người mua với ý tưởng nhỏ một giọt đường “ru” một đàn kiến sẽ không thể thành công. Mà ngay cả thành công cũng sẽ tạo ra một quả bong bóng to hơn trong nền kinh tế, khi qui mô nền kinh tế nhỏ bé, phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài lại có tỷ trọng đầu tư vào thị trường bất động sản quá lớn.

Bản chất của gói giải pháp này là cứu nhóm lợi ích đang nằm kẹt tại đây.

Bản thân trị giá gói cứu trợ chỉ khoảng tối đa 40 ngàn tỷ đồng thì không thấm thía vào đâu với cục nợ xấu mà toàn hệ thống ngân hàng đang dính vào khi tham gia thị trường bất động sản dưới nhiều hình thức (cho vay, liên kết, ủy thác, đầu tư cổ phiếu,..).

Do đó, chiến thuật nhỏ một giọt đường ru một đàn kiến là giải pháp đang được lãnh đạo Hà Nội toan tính để làm, mong muốn có thể bẫy được bất kỳ ai. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, muốn bán được sản phẩm thì phải hạ giá, và hạ giá cực khủng, chứ với ý nghĩ không chịu lỗ, hoặc muốn bảo toàn vốn và đẩy hết rủi ro qua tay người khác là không thể. Vì mức giá đó bao gồm cả những con số lạm phát tồn đọng trong nhiều năm cộng dồn lại. Tức giá nhà đang nằm trên quả bong bóng về giá, chứ không phải là mức giá trị thật mà xã hội có thể chấp nhận và chi trả.

Nhóm lợi ích đang bị kẹt trong tảng băng bất động sản này muốn sự dụng giải pháp “đu hai đầu dây” lấy tiền của ngân sách nhà nước kích thích tiền trong dân để giải thoát. Tiền ngân sách + tiền từ dân.

Đối với câu hỏi thứ hai. Vấn đề của nền kinh tế hiện nay là gì?

Tuy có nhiều điểm vĩ mô phải giải quyết. Nhưng có thể trả lời ngay rằng, vấn đề hiện nay của nền kinh tế Việt Nam là nợ nần và thất nghiệp.

Giải quyết nợ nần hiện nay đang là vấn đề nan giải đối với lãnh đạo Hà Nội khi các khoản vay trong và ngoài nước sắp tới kỳ đến hạn, cũng như khó mạo hiểm để in thêm tiền. Việc vay đầu này đắp đầu kia không tạo ra triển vọng tươi sáng đối với chính phủ Việt Nam. Vì nó chỉ làm phình to thêm các khoản nợ.

Giải quyết thất nghiệp là giải quyết hiện trạng đầu tư đang suy giảm dần trong bối cảnh hiện nay. Những bất ổn vĩ mô trong nước và toàn cầu, hay chính sách điều hành hay có sự thay đổi, tầm thấp (như duy trì hiện trạng các tập đoàn nhà nước và những chính sách quản lý mang tính chắp vá “buộc phải” kèm theo) không chỉ làm giảm các gói đầu tư từ nước ngoài, mà còn làm giảm niềm tin trong dân chúng muốn giải vốn để đầu tư thêm hay mở rộng hoạt động làm ăn. Do đó, vấn đề thất nghiệp sẽ còn kéo dài cho đến khi có sự “cải cách triệt để” diễn ra.

Nói thêm, hệ lụy của nạn thất nghiệp, nghèo đói tại Việt Nam là chưa lớn hay khó nhìn thấy vì Việt Nam đang trước đây còn là quốc gia có tỷ trọng nông nghiệp cao, cái ăn cái uống không ảnh hưởng nhiều. Nhưng trong một vài năm gần đây, những biểu hiện trên bề nổi xã hội đã bộc lộ dấu hiệu cho thấy vấn nạn này cũng đã tới cái ngưỡng của nó. Đất nông nghiệp bị thu hẹp dần và một bộ phận dân cư từ những khu vực đó bị tách ra khỏi cuộc sống kinh tế nông-lâm nghiệp, hiện nay họ đang có những phản ứng nhất định trong xã hội khi kinh tế suy thoái và không có việc làm gia tăng.

Cuối cùng, tôi muốn nhắn nhủ rằng:

Khi mỗi ngày trôi qua chúng ta đều phải chứng kiến quá nhiều sự lừa gạt và dối trá trong một xã hội mục rữa và thối nát thì hãy cùng nhau cất lên tiếng nói của sự thật.

Donguyen

Ông David Brown trả lời phỏng vấn RFA về bài phát biểu của đại tá Trần Đăng Thanh

Đại tá Trần Đăng Thanh vô tình tiết lộ bí mật quốc gia

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-12-23

Gần như tất cả các trang blog trong và ngoài nước đều xuất hiện sự giận dữ của hàng ngàn cư dân mạng về bài nói chuyện của Phó GS-TS Đại tá Trần Đăng Thanh, giảng viên Học viện Chính Trị Bộ quốc phòng Việt Nam về những điều mà nhiều người cho là sai quấy.


Ông Trần Đăng Thanh, Nhà giáo ưu tú, Đại tá Phó giáo sư Tiến sĩ thuộc Học viện Chính Trị Bộ Quốc phòng
 Trong đó có hai mối quan tâm lớn nhất là: “Việt Nam phải mang ơn Trung Quốc”, và “Mỹ là một nước gian ác, sự giúp đỡ trong giáo dục đối với Việt Nam là hành động “Diễn biến hòa bình” cần phải cảnh giác”.

Mặc Lâm phỏng vấn nhà ngoại giao David Brown, người vừa có bài viết về vấn đề này trên báo Asia Times Online để biết thêm quan điểm của một người làm công tác ngoại giao trước những khẳng định của ông Thanh đối với chính phủ Mỹ.

Căm thù Mỹ

Mặc Lâm: Thưa ông David Brown, rất cám ơn ông đã dành cho Đài Á Châu Tự Do buổi phỏng vấn này, xin được hỏi câu đầu tiên: là một nhà ngoại giao và chuyên gia trong vấn đề Việt Nam từ nhiều năm nay, ông nghĩ gì về tâm lý hận thù Hoa Kỳ xuất hiện trong bài giảng chính trị của Đại tá Trần Đăng Thanh?

David Brown: Đại tá Thanh đúng là đã đi vào một khía cạnh rất quan trọng đối với đa số người Việt Nam, đó là Hoa Kỳ làm bất cứ điều gì thì trước tiên vẫn phải là có lợi ích riêng cho họ trước đã. Đó là sự thật của tất cả các nước kể cả Việt Nam chứ không riêng gì Mỹ. Chúng ta cũng nên nhìn nhận sự thật này như một chân lý vì quyền lợi quốc gia của nước nào cũng vẫn là tối thượng.

000_Hkg5113872-250.jpg
Đô đốc Mỹ Tom Carney (T) và Đại tá Hải quân Việt Nam Nguyễn Văn Lâm chụp tại cảng Tiên Sa, thành phố Đà Nẵng hôm15/7/2011. AFP photo

Trong hai mươi năm qua Mỹ và Việt Nam đã xác định được nhiều lợi ích chung giữa hai nước, trong đó bao gồm trao đổi thương mại nhằm làm cho hai quốc gia thịnh vượng hơn. Chúng cũng bao gồm nguyên tắc tự do hàng hải trên các vùng biển và thỏa thuận rằng tất cả các quốc gia cần phải tìm kiếm cách giải quyết sự khác biệt của họ một cách hòa bình và phù hợp với lợi ích quốc tế.

Ngoài ra có những vấn đề mà Việt Nam và Hoa Kỳ chưa đi đến sự đồng ý như chúng ta thấy suốt cả mấy năm nay, đó là sự khác biệt cách nhìn nhận về vấn đề nhân quyền.

Khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên gần như hầu hết khu vực Biển Đông thì rõ ràng cả hai nước Hoa Kỳ và Việt Nam đều chia sẻ một mối quan tâm chung. Tôi nghĩ rằng ông Đại tá Thanh hoàn toàn sai khi nói rằng Hoa Kỳ đang tìm cách biến Việt Nam thành đối lập với Trung Quốc.

Hơn nữa những tương quan này cho thấy thiện chí của Hoa Kỳ, và tôi nghĩ rằng Mỹ không đáng để ông Thanh thù ghét như thế.

Mặc Lâm: Ông có nghĩ rằng tâm lý thù ghét Mỹ vẫn tồn tại trong phần lớn đảng viên của ngày hôm nay?

David Brown: Không một nhà quan sát Tây Phương nào biết rõ con số chính xác những ý kiến của đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam dù là thiểu số hay đa số có thù ghét nước Mỹ ra sao.

Vừa qua Đảng Cộng sản Việt Nam đã nỗ lực tuyệt vời khi giữ kín những bí mật xảy ra trong các cuộc tranh luận giữa nội bộ đảng. Không một đảng viên nào bên ngoài cuộc họp biết rõ những gì xảy ra bên trong, vì vậy đây là lý do tại sao bài phát biểu của ông Thanh trước các cán bộ của nhiều trường Đại học khi bị tiết lộ ra ngoài trở thành thú vị. Cá nhân tôi nghĩ rằng có rất nhiều sắc thái ý kiến khác nhau trong đảng, và ý kiến của ông Thanh đại diện cho một dòng ý kiến quan trọng trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dùng giáo dục thực hiện diễn tiến hòa bình

000_Hkg4777306-250.jpg
Sinh viên Việt Nam tại Hội chợ Giáo dục Hoa Kỳ tại Hà Nội vào ngày 08/04/2011. AFP

Mặc Lâm: Chúng ta đều thấy Hoa Kỳ đã nỗ lực rất lớn nhằm hàn gắn những đổ vỡ do chiến tranh gây ra bằng cách giúp cho Việt Nam trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là giáo dục, tuy nhiên ông Đại tá Trần Đăng Thanh cho rằng Mỹ đang lấy giáo dục để thực hiện “diễn tiến hòa bình” chống Việt Nam. Ông nghĩ sao về cáo buộc này?

David Brown: Nếu ông Thanh nghĩ rằng Hoa Kỳ đang tìm cách biến sinh viên quay trở lại chống nước mình thì tôi hoàn toàn không tin và không chia sẻ với ông Thanh. Chúng tôi đã vui mừng chào đón, tính cho tới thời điểm này là 15 ngàn sinh viên Việt Nam đã tới Mỹ và tham gia vào các trường cao đẳng và đại học Hoa Kỳ.

Mỹ hy vọng rằng tất cả số sinh viên này sẽ quay lại đất nước Việt Nam, và chính phủ sẽ sử dụng tài năng của họ để xây dựng và phát triển một đất nước thịnh vượng mạnh mẽ và độc lập.

Mặc Lâm: Nếu bài giảng của đại tá Thanh là ý kiến chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo ông thì Hoa Kỳ cần phải có các hành động tương ứng ra sao trong mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam?

David Brown: Đại tá Thanh không trực tiếp nói chuyện với một cử tọa người Mỹ, và ông ta cũng không phát biểu trong tư cách đại diện chính phủ Việt Nam, nên tôi nghĩ Hoa Kỳ không cần thiết phải có một phản ứng chính thức nào.

Mặc Lâm: Theo sự nhận xét của ông thì quân đội Việt Nam có cùng một ý kiến chủ đạo với chính phủ hay không? Từ những nhận định của đại tá Thanh ông có nghĩ rằng tình báo Hoa Nam đã phần nào kiểm soát quân đội Việt Nam?

David Brown: Tôi thật sự không thể suy đoán những ý kiến trong các cấp lãnh đạo của quân đội nhân dân Việt Nam như thế nào để có thể xem có khác với ý kiến chủ đạo của chính phủ Việt Nam ra sao. Có lẽ họ tập trung hơn trong các vấn đề quân sự và tôi tin đó là điều bình thường.

Đối với phần thứ hai trong câu hỏi của bạn tôi tin rằng mặc dù có một lịch sử lâu dài khi giao lưu giữa quân đội nhân dân Việt Nam và quân đội nhân dân Trung Quốc, tôi biết rất ít nội dung các quan hệ đó vì vậy tôi xin không có ý kiến về câu hỏi này.

Mặc Lâm: Trong bài viết trên Asia Times ông cho rằng Đại tá Thanh đã tiết lộ bí mật nhà nước, có nghĩa là những điều ông Thanh nói trước cử tọa đều đã được quán triệt và đồng tình của Đảng phải không?

David Brown: Theo tôi thấy cuộc họp giao ban của cán bộ cấp cao trong đảng là phổ biến và những cuộc họp này xảy ra ở mọi cấp độ và trong mọi lĩnh vực. Nó là sinh hoạt bí mật của Đảng và tất cả nội dung của các cuộc họp giao ban được giữ kín, đảng viên không được phép thảo luận và không được loan truyền ra bên ngoài, và vì vậy tôi nghĩ ông Thanh đã vô tình tiết lộ bí mật nhà nước như tiêu đề mà người biên tập bài báo của tôi trên Asia Times đặt tên.

Mặc Lâm: Xin được cám ơn ông David Brown

Nguyễn Gia Kiểng – Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chết

Nguyễn Gia Kiểng
“…đừng mất thì giờ và công sức cho những kiến nghị với Đảng, hay trăn trở tìm cách chấn chỉnh Đảng. Vô ích và vô duyên. Giải pháp cho đất nước chỉ có thể tìm thấy ngoài đảng cộng sản…”

425979_362094197157549_100000709166165_1158898_525342438_n-600x521.jpg
Vá chỗ nào bác ơi? Ảnh: Thông Tấn Xã Vàng Anh
Sự kiện quan trọng nhất năm 2012 đối với Việt Nam là một biến cố không được thông báo. Đó là cái chết của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nó đã đến như là kết quả của một tiến trình lão hóa và phân hóa chậm và liên tục.Nói rằng ĐCSVN đã chết chắc chắn không khỏi bị nhiều người cho là lộng ngôn. Trước mắt cả thế giới nó vẫn còn đó và còn đang gia tăng đàn áp. Tuy vậy cái thấy chưa chắc đã là cái có thực. Nó còn đó nhưng nó còn sống không? Nó đàn áp hay một thế lực nào đó nhân danh nó để đàn áp?

Một người chết lâm sàng có thể vẫn còn thở, tim có thể vẫn còn đập nhưng bộ óc đã ngưng hoạt động, không tri giác và không còn phản ứng được với thế giới bên ngoài.

Đó là đối với một con người. Đảng cộng sản là tổ chức và một chính đảng, cái chết của nó là cái chết của một chính đảng. Một tổ chức là sự kết hợp giữa những con người cùng theo đuổi một mục tiêu chung với cùng một phương thức. Đồng thuận về mục tiêu và phương thức là sức sống của một tổ chức. Khi đồng thuận không còn, dù vì người ta không đồng ý trên những mục tiêu hay vì không đồng ý trên cách đạt muc tiêu, thì tổ chức đã chết, ngay cả khi chưa tự giải tán. Một chính đảng là một tổ chức chính trị. Nó sống và chết như một tổ chức, chỉ khác một điều là đồng thuận của nó khó hơn vì mục tiêu của nó cao cả hơn và hành động của nó ảnh hưởng tới cả một dân tộc. Kinh nghiệm của mọi quốc gia đã chứng tỏ rằng một chính đảng chỉ có thể xây dựng và giữ gìn được nếu được quan niệm như một kết hợp để thể hiện một tư tưởng chính trị và để thực hiện một dự án chính trị. Khi không còn chức năng đó nó không còn lý do tồn tại và số phận chờ đợi nó là một cái chết chắc chắn. Hy vọng duy trì một đảng cầm quyền bằng quyền lợi, nhất là quyền lợi bất chính, là một hy vọng hão huyền luôn luôn bị thực tế bác bỏ. Quyền lợi chỉ chia rẽ chứ không bao giờ đoàn kết những con người trong một chính đảng. Vả lại một chính đảng chỉ có thể có những phương tiện cần thiết để thực hiện mục tiêu chứ không thể có quyền lợi, bởi vì về bản chất nó là một môi trường để hy sinh và đóng góp chứ không phải để thụ hưởng. Cái chết của một chính đảng khác cái chết của một con người ở chỗ nó kéo dài và không có thời điểm chính xác. Đảng mất dần sức sống và chết đứng. Nếu là một đảng đối lập nó chìm dần vào quên lãng. Nếu là một đảng cầm quyền nó biến thành một hư cấu làm bình phong cho một chế độ độc tài cá nhân và tan biến tức khắc cùng với nhà độc tài bởi vì nó chỉ là một hư cấu. Người ta đã thấy Tập Hợp Dân Chủ Hiến Định tại Tunisia và Đảng Quốc Gia Dân Chủ tại Ai Cập tan biến ngay sau khi Ben Ali và Mubarak bị hạ dù chúng đều là những đảng lâu đời và mới ngày hôm trước còn có hàng triệu đảng viên và hàng tỷ USD trong quỹ. Đó cũng đã là số phận của các đảng cộng sản Đông Âu và của đảng Baas của Saddam Hussein tại Iraq. Lý do là vì chúng chỉ là những hư cấu. Chúng được duy trì chỉ vì một lý do đơn giản là các chế độ độc tài cá nhân đều không muốn thú nhận rằng chúng là những chế độ độc tài cá nhân.

Sự chuyển hóa sang độc tài cá nhân là một chặng đường tự nhiên trong tiến trình đào thải của một chế độ độc tài đảng trị. Và đó là điều đã xảy ra tại Việt Nam. ĐCSVN đã mất lý tưởng sau ngày thống nhất khi mô hình Liên Xô mà Đại Hội IV, tháng 12 năm 1976, đã chọn thất bại một cách bi đát. Từ đó đảng cộng sản cai trị thuần túy bằng bạo lực như một lực lượng chiếm đóng và bắt đầu tiến trình phân hóa. Nó không còn dự án nào cho đất nước cả. Các cương lĩnh của các đại hội đảng kế tiếp nhau đều nhàm chán một cách tuyệt vọng. Chúng chỉ là những bản liệt kê những mục tiêu không biết dựa vào đâu mà có và làm thế nào để đạt tới, và được viết một cách gượng gạo. Tệ hơn nữa, chúng còn nhắc lại sự trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, một chủ nghĩa đã chết và bị lên án như một tội ác đối với nhân loại. Và rồi đảng dần dần biến thành một tập đoàn kinh doanh bất chính với những công ty và khách sạn. Tham nhũng vì thế gia tăng nhanh chóng như là hậu quả tất yếu của một đảng cầm quyền đã mất lý tưởng và đạo đức.

Năm 2012 đã chứng kiến cố gắng cuối cùng để hồi sinh đảng cộng sản. Tháng 10-2011 hội nghị trung ương 4 ra nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Những “vấn đề cấp bách” là tham nhũng, lãng phí và chiếm đoạt của công, mua quan, bán chức, chạy tội, chạy án, chạy bằng. Sau đó là trọn một năm chật vật phê bình và tự phê bình. Một “hội nghị cán bộ toàn quốc” gồm 1000 đại biểu trong đó có toàn bộ trung ương đảng, gần như một đại hội đảng giữa nhiệm kỳ, được triêu tập. Bộ chính trị và ban bí thư họp 21 ngày trong bốn đợt, ba tháng. Một ủy ban được thành lập để giúp bộ chính trị và ban bí thư nghiên cứu và đúc kết những báo cáo. Sau cùng là hai tháng chuẩn bị cho hội nghị trung ương 6, hội nghị kéo dài nhất trong lịch sử đảng. Tất cả với mục đích chỉnh đốn lại đảng để cứu đảng. Trong lịch sử các chính đảng khó có thể có cố gắng chỉnh đốn nào qui mô hơn. Nhưng kết quả đã chỉ là một con số không; không một ai bị kỷ luật cả, kể cả thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mà bộ chính trị qui trách nặng nề. Lý do? Đảng cộng sản không thể làm gì cả vì không còn thực chất nào cả, nó chỉ còn là một hư cấu. Kết thúc hội nghị tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khóc, khóc mếu máo như trong một đám tang người thân. Hơn ai hết ông hiểu rằng đảng cộng sản không còn cứu vãn được nữa.

Người ta có thể nghĩ là để tôn trọng hình thức việc khiển trách hay bãi nhiệm thủ tướng và các bộ trưởng là công việc của quốc hội, ngay cả một quốc hội bù nhìn. Nhưng kỳ họp quốc hội sau đó cũng chẳng có gì, tuyệt đối không có gì. Năm 2012 đã chứng tỏ mọi cố gắng phục hồi đảng đều vô vọng.

Cũng có thể là Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị loại trong thời gian tới. Ông quá tệ. Nhưng nếu như thế thì kết quả cũng chỉ là thay thế chính quyền của ông Dũng bằng chính quyền của một người hay một nhóm người khác. Vai trò đảng cộng sản cũng sẽ không thay đổi vì không thể thay đổi. Đó vẫn là một vai trò của một xác chết chưa chôn. Đảng cộng sản đã chết, chết đứng.

Tại sao cần hiểu là đảng cộng sản đã chết?

Một kết luận là để đừng mất thì giờ và công sức cho những kiến nghị với Đảng, hay trăn trở tìm cách chấn chỉnh Đảng. Vô ích và vô duyên. Giải pháp cho đất nước chỉ có thể tìm thấy ngoài đảng cộng sản.

Nguyễn Gia Kiểng
(tháng 12/2012)

Văn Nghệ chủ nhật – Võ Thị Hảo : Huyền ảo, độc tài và tội ác

Bìa quyển "Ngồi hong váy ướt" của Võ Thị Hảo.

Bìa quyển “Ngồi hong váy ướt” của Võ Thị Hảo.

Dưới tựa đề khá xếch-xy Ngồi hong váy ướt là một tập 17 truyện ngắn, với những bức tranh siêu thực hoang vu, ngập mùi tử khí, viết từ ngòi bút của một người đàn ông đã chết “chấm bút lông vào mạch máu đang chảy ở khuỷu tay mình viết lên những trang giấy trắng”, về cái thế giới mà ông ta đã sống.

Sau hơn ba mươi năm kết thúc chiến tranh, những đề tài về chiến tranh dường như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam. Chúng đã đầu thai kiếp khác hoặc tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi hong váy ướt, tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai yếu tố: đầu thai kiếp khác mà vẫn phải chạy ra nước ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của Bùi Xuân Quang ở Paris, xuất bản.

Nha-Van-Vo-Thi-Hao-Khi-Can-Toi-Kheu-Mot-Nguoi-Dan-Ong-O-Tren-Troi-Vth_28-04-2012-03-44-13Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại Diễn Châu, Nghệ An, nổi tiếng trên văn đàn với các tập truyện ngắn Biển cứu rỗi, 1992, Chuông vọng cuối chiều, 1994, Người sót lại của rừng cười, truyện dàiGiàn thiêu, 2003, vv…

Trong tác phẩm mới nhất, Võ Thị Hảo nhìn hội chứng chiến tranh, độc tài và tội ác như tác dụng nhân quả thể hiện qua những truyện ngắn huyền ảo. Cảm giác bị tấn công mãnh liệt bởi những mạnh vụn trái phá và những chân rết ung thư tội ác tàn phá nội tạng người đọc.

Người ta đã và sẽ còn bỏ nhiều thời giờ, ngân quỹ để nghiên cứu, viết sách, làm phim, phân tâm những lính Mỹ bị điên sau khi tham dự chiến tranh Việt Nam. Nhưng chưa ai nghĩ đến việc phân tâm lính Việt, người Việt, bởi dân tộc ta thuộc dạng “hơn người”, hùng tính hơn người, chịu đựng hơn người, cần gì đến thứ khoa học phô trương, tốn tiền, phù phiếm, vô bổ.

Võ Thị Hảo chẳng phân tâm ai cả mà dùng phép phù thủy, cho chiến tranh, độc tài, hủ lậu và tham nhũng vào chung một rọ, xóc cho ngầu, phơi cho bốc hơi, toả khói, biến các chứng liệu hoá thân thành cây cỏ, đất trời, rắn rít, con ong, con nhện, đám mây, ngọn gió… Toàn bộ thiên nhiên trong không gian Võ Thị Hảo, sau nửa thế kỷ chiến tranh và độc tài, trở thành hậu thân của một thế giới, trước kia đã từng có người, đã từng là người. Những giá trị “vĩnh cửu” như tình yêu, tình người, nhân tính… đều đã bốc khói, bay đi, chỉ còn trơ lại đống sắt vỡ vụn của trái phá, sắc nhọn, đâm chém, vô luân và tàn ác.

Dưới tựa đề khá xếch-xy Ngồi hong váy ướt là một tập 17 truyện ngắn, với những bức tranh siêu thực hoang vu, ngập mùi tử khí, viết từ ngòi bút của một người đàn ông đã chết ”chấm bút lông vào mạch máu đang chảy ở khuỷu tay mình viết lên những trang giấy trắng”, về cái thế giới mà ông ta đã sống.

Trang đầu tiên là Bùa, một truyện xẩy ra ở Thành Cổ Sơn Tây, là miền đất tổ lâu đời nhất. Sơn Tây, chính là nước Văn Lang, kinh đô Hùng Vương, Trưng Vương, Phùng Hưng và Ngô Quyền. Người ta nghi người chết đã lầm Sơn Tây với Quảng Trị, hoặc Sơn Tây bị biến thành Quảng Trị. Hoặc đoán chừng người Sơn Tây bị lệnh ”câm” trở thành người Quảng Trị. Hoặc Sơn Tây sau khi “cháy chợ”, bọn yêu quái bỗng “lớn phỗng lên”, nhân dân Sơn Tây vỡ nợ, phá sản, trốn vào ma túy hoặc tự tử, biến thành nhân dân Quảng Trị, một thành cổ đang ”thiu thiu ngủ” với những ”oan hồn nửa thức nửa ngủ trên những đám mây trĩu sương tù đọng. Nước không chẩy và mây không bay”. Một quán phở đêm, quy tụ đủ mọi hạng người đến gặm xương đáy nồi, thứ”xương bốc mả”. Hàng phở bốc mả là trạm cuối của sông mê. Tại đây, người ta kể những chuyện rùng rợn, trong một thế giới người ma lẫn lộn. Một xã hội ăn xương bốc mả, ăn táo lê Trung Quốc ướp thuốc không thối, có người chết của quý chĩa thẳng lên trời, có con ma thiếu máu, chân quắp vào cột cây số 12, có người bán máu lấy tiền tiếp máu cho ma…

Bùa chỉ là khúc dạo đầu để đi vào những mạch sống, mà Mỵ Châu thả bước xuống trần mở vào lịch sử ngàn năm của những mạch sống khốc liệt ấy:

Pho tượng đá cụt đầu trong am Mỵ Châu một đêm chợt tỉnh sau bao nhiêu thế kỷ. Chiếc thân đi tìm lại đầu mình. Mỵ Châu nhớ lại những giây phút chót của cuộc đời, nhớ những mảnh lông ngỗng trắng tinh nàng rứt từ chiếc áo Trọng Thuỷ tặng, để dẫn đường cho chồng tìm mình trong cơn nguy biến, nhớ tiếng quân Triệu reo hò, nhớ tiếng vó ngựa Trọng Thuỷ “dựng ngược trên đầu hai cha con”, nhớ tiếng thét rách gió của chàng, nhớ nhát kiếm cha già loáng trên gáy, đầu nàng rơi xuống, máu hoà với nước biển mặn chát. Đầu Mỵ Châu lưu lạc không ngừng, không bao giờ lắp lại được với thân. Mỵ Nương đi xuyên nhiều thế kỷ, lầm lũi, không đầu, lần từng trang sử, dừng chân trên am thờ nàng, nay đã trùng tu, nàng đã được xây nhà mới. Người ta dúi vào tay nàng cơ man của đút, lót tiền giả để mua tiền thật, mua sự bất tử. Cái giếng Trọng Thủy trầm mình, nay đã trùng tu thành lỗ huyệt láng xi măng cho tiện vét tiền du khách ném xuống. Thân nàng được phủ những chuỗi hạt nhựa, phủ lụa là gấm vóc “bóng lộn và hăng hắc độc” dệt từ quê hương Trọng Thủy. Mỵ Châu choáng váng, tìm chốn nương thân nhưng vô ích. Nàng không còn chỗ trên quê hương mình. Trong đền An Dương Vương đã trùng tu quê kệch, một đám mặt mũi đẹp đẽ béo tốt đang yến tiệc, “miệng ngo ngoe những cái đầu rắn”. Mỵ Nương thấy mạch sống thế kỷ XXI tàn tệ hơn thế kỷ của nàng, trên đất nước Văn Lang đang xum xoe chào đón một thời kỳ bắc thuộc mới.

Hội ngộ là những bức tranh siêu thực chồng nhau theo một trật tự hắc ám: Một người đàn bà chồn đu đưa thân thể trong khu rừng độc, ”nàng chun mũi nghiêng sang hướng bắc. Hướng bắc đến từ ngọn gió mang mùi của những đám cháy và của xương người. Nàng nghiêng hông về đằng nam. Hướng nam lờ lợ mùi bột ngọt và gươm đao.” Một người đàn ông chỉ còn bả vai, không cổ, không tay, ”một cánh tay đã chia cho phương nam, một cánh tay đã chia cho phương bắc. Chúng bị đạn tiện đứt lìa, trong hai lần khác nhau, một ở rừng, một ở biển”. Một con ong lạc tổ loạng choạng trong đêm… Trên cánh và tấm lưng eo thắt, nồng nặc mùi ong Chúa, mùi ngục tù và tử khí. Con ong lạc đàn quờ quạng đâm sầm vào đầu vú người đàn ông không cổ không tay. Một con ong Chúa đang nằm thoi thóp, bỗng trở mình, nhận ra mùi phản trắc, nó hoàn toàn lai tỉnh, gửi “mật” lệnh “ngòn ngọt từ tử cung” -thứ mật ong Chúa dùng để mê hoặc và cầm tù đồng loại- huy động toàn bộ đàn ong thám tử đi truy lùng, xé xác con ong lạc tổ, bay trật đường rầy…

Hội ngộ giữ trọn vẹn sự bí mật của một văn bản thuần túy huyền ảo, là một bản thi họa giao duyên giữa đầu Ngô và mình Sở, tạo ra một thứ phi lý bức tử của một thế giới mà cõi sống phi nhân là phiên bản, là hậu thân của chiến tranh và đàn áp.

Người chăn bò thần thánh, là thứ hiện thực huyền ảo trắng trợn, vẽ hẳn một bức tranh khôi hài, hãi hùng: Tổ chức nhân đạo quốc tế gửi tặng đàn bò sữa cho một vùng mà nhà nghiên cứu của tổ chức này đã mục kích tận mắt cảnh cả trăm người cầm dao quắn xông vào tranh nhau xẻo thịt một con trâu chết, loáng cái hết nhẵn. Lễ “khánh thành bò” được tổ chức vô cùng trọng thể, vú bò được thắt nơ, cổ bò được đeo các khẩu hiệu kinh điển: “cần kiệm liêm chính”, “học tập đạo đức Hồ Chí Minh”, “cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, v.v… Mọi việc được phân công rành rẽ, đàn bò trở thành bò tập thể dưới sự quản lý của nông trường.

Rủi thay, ông chủ tịch nông trường lại có đứa con cậu trời. Một hôm ông đi họp vắng, nó và lũ bạn thèm rượu thịt bèn lấy dao xẻo phắt miếng vai con bò ngoại, xơi tái. Người cha về la rầy, thằng con Khổng Minh rỉ tai hiến kế… xẻo thịt bò mà vô can. Mỗi miếng thịt xẻo được thay thế bằng một chiếc bong bóng thổi phồng dán vào thân bò. Kết cục đàn bò ngoại trở thành trong suốt như bong bóng, một đàn bò thuần xương, không thịt. Thịt bò mừa mứa, ăn, bán không hết, đem đấm mõm cấp trên. Các nông trường viên chăn bò sợ bị đuổi không dám ho he. Các đoàn kiểm tra đã được nếm mùi bò ngoại đều chứng nhận những cỗ xương bò di động là bò đích thực. Thậm chí cả bọn rận, bọ chét, ve, mòng… cũng thoả mãn, chúng thả cửa no nê xơi tiệc sẵn trên thân bò lở lói, máu tràn vào miệng như lũ không cần vòi hút. Khi đã quán triệt nguồn lợi bò, ông chủ tịch nông trường bèn nhường chức lại cho người khác, xin cất nhắc lên chức to hơn, lần này có thể là nông trường chăn voi ngoại.

Bỗng đâu nhà nước nhận được một đơn kiện, bọn đầu đơn không ai xa lạ mà lại là bọn rận, bọ chét, ve, mòng, dĩn… thấy quyền lợi của chúng ngày càng có nguy cơ tận diệt, viết đơn tố cáo như vầy: ”Đau xót vì tình trạng thịt rơi máu chảy của đàn bò, của tài sản tập thể bị xâm hại… Đàn bò hiện nay con nào cũng chỉ sót lại một mẩu thịt ở mông, còn tất cả da thịt và gân của chúng đều bị các chủ bò lần lượt xẻo đi và thay thế bằng những quả bóng trong suốt. Xin cấp trên trừng trị để làm gương…” Bọn ve mòng hý hửng đợi phép nước nghiêm minh, nào ngờ kết quả ngược lại: Trên đem toà án di động về ”xét xử các tội phạm Ve, Mòng, Rận, Dĩn, bởi tiền sử chúng đen tối, hiện tại chúng mờ ám và tương lai của chúng không cải tạo được”. Toà tuyên án tử hình cả bọn, hả hê coi như “đã triệt được nguyên nhân của mọi nguyên nhân”. Nào ngờ vẫn chưa hết, một tin sét đánh, ban kiểm tra đoàn bò quốc tế phôn về, đích thân đến tham quan. Thế là hoảng loạn, các phòng, các ban, các chủ bò xôn xao bàn cãi, quy trách nhiệm. Cuối cùng họ nhất trí ra chỉ thị :”Bởi các nông trường viên chăn bò vô trách nhiệm, trình độ khoa học kém cỏi, nên đã để cho đàn bò mất hết thịt, nay phải xẻo thịt mình đền vào”. Bọn chăn bò thấp cổ bé miệng không dám kêu ca, đành xẻo thịt mình đắp vào những chỗ trống. Đàn bò có da thịt trở lại. Một thế hệ Người chăn bò thần thánh mới lại xuất hiện, lần này họ không xẻo thịt bò nguyên chất, mà xẻo đàn bò đã được đắp thịt người.

Người đọc giật mình, quái đản, không hiểu từ đâu ra lối huyền ảo này ?

Truyện Huyền ảo, huyền hoặc hay hoang đường, tiếng Pháp fantastique, tiếng Việt có  nghiã: truyện ma quái, truyện hoang đường, truyện không có thật. Liêu trai chí dị là một loại huyền ảo kinh điển phương Đông, hoàn toàn khác với lối huyền ảo phương Tây hoặc châu Mỹ la tinh. Huyền ảo gắn bó sâu sắc với tôn giáo, triết lý và môi trường sống khác nhau của mỗi dân tộc.

Dòng huyền ảo lâu đời nhất có lẽ là huyền ảo Châu Mỹ la tinh, gắn bó với thánh kinh Maya, trong đó, con người được thần ngô nặn lên từ bắp ngô. Ngô đối với người Maya như gạo đối với người Việt. Những truyện cổ tích của người Maya xưa xây dựng trên một vũ trụ mà thiên nhiên là chủ thể. Mây, núi, sông nước, cỏ, cây… điều hoà sự quân bình thế giới và sinh ra con người. Trái ngược với các hình thức cổ tích Đông Tây: con người là chủ thể của muôn loài, thần thánh cũng là người.

Từ sự kiện thiên nhiên cây cỏ, muông thú đều có tiếng nói, đều có thể họa nên những hình thái nên thơ và dưỡng nuôi sự sống, người Maya đã tạo nên một khái niệm huyền ảo tự nhiên như ta ăn và thở. Sau này, các tác giả nổi tiếng Châu Mỹ la tinh đều dựa vào nguồn gốc văn hoá Maya của họ để tự tạo cho mình những hình thức huyền ảo cá biệt.

Ở Asturias, nhà văn Guatemala, là một thứ huyền ảo thuần khiết Maya, khái niệm “người ngô” (l’homme de maïs) vừa hiền lành, vừa bao quát thực tế: nếu không có ngũ cốc, làm sao con người sống sót, làm sao còn người. Asturias tranh đấu cho quê hương ông, chống lại chế độ thực dân, chống lại các thể chế độc tài, chống lại quyền lực của tư bản Mỹ áp đảo sự sống còn của nông dân trên nền đất Châu Mỹ la tinh.

Ở Marquez, nhà văn Colombia, là sự huyền ảo khốc liệt của những người dân da đỏ hận thù những kẻ chinh phục (conquistadors) đã cưỡng hiếp tổ tiên mình để sinh ra mình. Một mối căm thù tổ tiên, căm thù tác giả đẻ ra mình. Những quái thai, những bạo tàn, những tha hoá, loạn luân, những điềm, những mộng, những đầu người mình thú… trong truyện của Marquez, phản ảnh niềm uất ức truyền kiếp, khôn nguôi của những con người là sản phẩm, không phải của tình yêu mà của cuộc hãm hiếp tập thể một giống nòi, một dân tộc.

Về huyền ảo, Jean Paul Sartre phân tích: ”Mô tả sự kỳ dị phi thường chưa phải là điều kiện cần và đủ để đạt tới huyền ảo. Một biến cố lạ kỳ, xẩy ra trong một xã hội có trật tự, có pháp lý, sẽ bị rơi vào vòng trật tự chung: Nếu bạn cho một con ngựa đột nhiên nói, thì tôi bảo nó bị ma làm trong chốc lát. Nhưng nếu bạn cho nó diễn thuyết dông dài suốt dọc hành trình qua rừng cây im lìm, trên nền đất bất động, tôi chấp nhận cho nó cái quyền nói, nhưng tôi không coi nó là ngựa nữa mà cho nó là người trá hình ngựa. Ngược lại, nếu bạn muốn làm cho tôi tin rằng con ngựa này là huyền ảo, thì bạn phải làm sao cho những hàng cây, đất đai và đồng ruộng cũng là huyền ảo nữa, mà bạn không cần nói ra”.

Sartre viết tiếp: ”Huyền ảo là một thế giới toàn diện mà sự vật biểu hiện một tư tưởng quyến rũ đòi đoạn, vừa bất thường vừa lôi cuốn, gặm nhấm trong cơ thể nhưng không thể diễn tả thành lời”.

Và ông đưa ra một định nghiã huyền ảo: ”Huyền ảo trình bầy hình ảnh lật ngược của sự hội tụ linh hồn và thể xác. Linh hồn chiếm chỗ của thể xác và thể xác chiếm chỗ của linh hồn. Để nhận diện hình ảnh này, chúng ta không thể dùng những ý tưởng sáng tỏ khúc triết, mà phải dùng những ý tưởng rắm rối, “huyền ảo”, nói cách khác, chúng ta phải đi vào chỗ mờ ảo, với đầu óc trưởng thành, có văn hoá, với cá tính nhiệm mầu của một kẻ mơ mộng, của con người nguyên thuỷ, con người trẻ thơ.” (Sartre, Aminadab, Situations I, Folio essais, trg 115).

Lối huyền ảo trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, phát sinh từ sự tùng xẻo, một “nghệ thuật” hành quyết mang đặc tính đông phương, có trong sử sách Tầu, Việt. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo mang chất nồi da xáo thịt, đặc tính Việt Nam. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo mang tính áp đảo phụ quyền, cha truyền con nối trong gia đình, trong dòng họ, trong xã hội, trong chính quyền, từ Khổng Mạnh truyền thẳng sang Xít Ta Lin, Mao Hồ, Lê Duẩn… không trung gian, không đứt đoạn. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo giao thoa độc tài và tham nhũng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã, tạo nên những quái thai người ăn thịt người kiểu Lỗ Tấn. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo có cái dã man trong xã hội Mạc Ngôn.

Những nhà văn phụ nữ miền Bắc như Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, có đặc tính khốc liệt mà những nhà văn nữ trong Nam không có. So cái khốc liệt trong văn chương Võ Thị Hảo thì cái sắc sảo trong văn chương Túy Hồng hiền như bụt. Tại sao? Bởi miền Nam đàn bà chưa phải đi lính, chưa nhìn thấy cái khốc liệt của chiến tranh. Bởi Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo… sinh ra và lớn lên trong một môi trường không nhân nhượng. Dương Thu Hương đã chứng kiến cảnh đấu tố, đã đi đánh nhau. Võ Thị Hảo sinh sau, nhưng đã thu thập vốn liếng bạo lực của những người đã nhận nhưng phải gói ghém, giấu diếm trong lòng: những người mẹ, người chị, xung phong đi lính, đi hộ lý, trở về điên dại trong Rừng cười. Như nam châm, Hảo thu hút những khối u mà người xấu số để lại hôm qua, và hôm nay con em họ vẫn còn tiếp tục cúi đầu nhận độc tố của một gia đình, một xã hội, một thể chế, gọi là mới, nhưng tất cả đều cũ, đều cổ, đều mục nát, như đầu óc, như sự phục tòng của họ.

Là nhà văn dấn thân trong chiều dầy của hai chữ dấn thân, là phụ nữ tranh đấu, Võ biết nếu con người không thay đổi suy nghĩ, không biết suy nghĩ, thì đất nước không thể đứng dậy. Điều kiện tiên quyết làm thay đổi xã hội, thay đổi chính trị là người phụ nữ phải thay đổi trước. Sự bất phục tòng của họ sẽ là nền tảng của tất cả mọi thay đổi.

Chất huyền ảo trong truyện của Võ Thị Hảo, là sự huyền ảo của những bức tranh siêu thực trong đó con người đã bị cắt chân tay, mỗi tứ chi ném đi một nơi, nam bỏ ra bắc, bắc bỏ vào nam, chúng gọi nhau, đầu tìm cổ, cổ tìm vai, trong một định mệnh điên cuồng của xã hội âm ty trần thế. Cái thác loạn ấy sống lại trong những thông tin hàng ngày, trong những vụ án mạng như cơm bữa, trong những hàng tin xe cán chó: con giết cha, chồng giết vợ, dẫy đầy trên mặt báo. Võ Thị Hảo lượm lặt những tin tức chó cán, viết ra, đặt nó trong cái huyền hoặc hàng ngày của cuộc sống. Ngòi bút của chị lột trần mặt trái bi kịch, tìm đến chiều sâu lịch sử của bi kịch, từ đấy Hảo chỉ đích danh tội ác, chỉ cái thủ phạm nấp đằng sau tội ác, chỉ cái cha đẻ của tội ác để vạch ra sự ngu muội của con người. Mục đích của Võ Thị Hảo là vén màn phát giác sự ngu muội của con người. Con người mụ mị chấp nhận độc tài, con người gật đầu tất cả để được yên thân, con người bị đàn áp tư tưởng, cúi mọp chịu phận. Võ Thị Hảo muốn giải phẫu, móc cái mê, cái sợ, ra khỏi trái tim con người.

Một mình một ngựa, vén màn đối lập bằng cách xây dựng thành lũy huyền ảo trên những con người đã bị xé xác, hồn phanh trăm mảnh, để chống lại thành trì kiên cố xây bằng vi khuẩn tham nhũng, lừa đảo, trộm cắp, điêu ngoa của những con ong Chúa mê hoặc đồng loại bằng thứ mật ngọt giết người. Hiện thực huyền ảo của Võ Thị Hảo là cuộc trực chiến giữa hai thành trì. Võ một mình một trận chiến. Một mình một nghiã địa.

Thụy Khuê

Paris, 24/11/2012

Nguồn RFI

Ca khúc và giai thoại : 40 năm “Bài Thánh Ca Buồn”

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ (DR)

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ (DR)

Hằng năm cứ mỗi dịp gần Noel, vào độ cuối đông tiết trời se lạnh, dường như đã trở thành thông lệ, chúng ta lại nghe thấy giai điệu quen thuộc của “Bài thánh ca buồn” vang lên khắp nơi. Gần nửa thế kỷ trôi qua, vào dịp lễ Giáng sinh, bản tình ca ấy vẫn cứ thản nhiên len lỏi vào tâm thức từ người dân đô thị đến những chòm xóm nhỏ, thậm chí còn quen thuộc hơn cả Thánh ca Giáo đường.

Đã 40 năm trôi qua, giờ đây khi đặt câu hỏi, trong số các bài hát việt về Giáng sinh, ca khúc nào phổ biến nhất, câu trả lời chắc chắn sẽ là “Bài thánh ca buồn” của nhạc sĩ Nguyễn Vũ, văn không ngừng ngân vang trong những đêm lành.

Thực ra, Elvis Phương không phải là ca sĩ đầu tiên thể hiện “Bài thánh ca buồn”, và có lẽ cũng chẳng phải là người cuối cùng, nhưng anh đã là người mặc định cho ca khúc một vị trí hoàn hảo, thổi vào đó dạt dào những cảm xúc từ khung trời kỷ niệm pha trộn giữa mùa Noel xưa và nay, một chút gì tiếc nuối, xa vắng, kết hợp sử lý giọng hát ở không gian cao, rộng, khoan thai, phát âmca từ rõ ràng, lắng đọng, để rồi đẩy ca khúc lên trở thành một tuyệt tác mà qua biết bao nhiêu thế hệ người nghe, nó vẫn luôn là bài ca Giáng sinh được yêu mến nhất.

Quay trở lại với nhạc phẩm “Bài thánh ca buồn” thì vốn là một sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Vũ. Ông sáng tác ca khúc này vào năm 1972, tức cách đây đúng 40 năm và được hãng đĩa Sơn Ca mua độc quyền, nam ca sĩ Thái Châu là người đầu tiên thể hiện.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944 tại Hà Nội nhưng suốt thời thơ ấu ông sống ở Đà Lạt. Chính thành phố sương mù này đã tác động nhiều đến bước đường nghệ thuật của ông.

Năm 12 tuổi (1956), cậu bé Tuấn Khanh từng đoạt giải nhất đơn ca thiếu nhi do đài phát thanh Đà Lạt tổ chức. Năm 23 tuổi, Nguyễn Vũ có bản nhạc đầu tay “Huyền thoại chiều mưa”… Hiện tại, ông có 4 người con gái đều đã trưởng thành nhưng không có aitheo nghiệp âm nhạc của cha. Hiện ông đang mở lớp dạy đàn, dạy nhạc tại Sài Gòn.

Mỗi ca khúc đều có một số phận, nhưng sau hơn 40 năm khi ca khúc ra đời, cha đẻ của Bài thánh ca buồn – nhạc sĩ Nguyễn Vũ – vẫn còn nguyên sự phấn khích: “Tôi không nghĩ ca khúc này lại được nhiều khán giả yêu mến đến thế. Khi viết ca khúc ấy, đơn giản tôi đang hoài niệm quãng thời trai trẻ của mình. Cái thời mà tôi chỉ dám ngắm nhìn người tôi mến, không dám mở lời làm quen”.

Ông kể rằng năm 14 tuổi, ông bị mê đắm bởi một cô gái người công giáo tại thành phố Đà Lạt sương mù. Tình cảm ấy khiến ông cứ lẽo đẽo theo cô trên đường đến nhà thờ. Trong một lần tan lễ, trời mưa rất to, cả hai đành phải trú mưa chung dưới một hiên nhà. Lúc ấy cũng đúng ngày lễ Giáng Sinh. Cô gái và người nhạc sĩ đều im lặng. Khi nghe ca khúc Silent Night (Đêm thánh vô cùng) phát ra từ nhà bên cạnh, cô gái lẩm nhẩm hát theo, hình ảnh ấy cứ ám ảnh người nhạc sĩ cho đến nhiều năm sau đó, “trái tim của một gã trai mới lớn thổn thức đến tội nghiệp nhưng lại không có can đảm để làm quen”, vào năm 1972, Nguyễn Vũ đã viết lại cảm xúc của mình”. Và “Bài Thánh Ca Buồn” đã ra đời.

Đối với một tác phẩm nổi tiếng, chúng ta không chỉ xem xét, khẳng định khía cạnh tài năng của người sáng tác, mà còn phải quan tâm tới những nhân tố làm nên sở thích ở người nghe.“Bài thánh ca buồn” quả thực là một ca khúc đã vượt qua sự thử thách của thời gian để trở thành hiện tượng văn hóa, chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật, nhân văn, thẩm mỹ, lịch sử, khiến cho tác phẩm phẩm vì thế được cả những người Thiên Chúa giáo, lẫn những người ngoại đạo đều yêu thích. Một câu chuyện tình lãng mạn nhưng tinh tế và chân thật của một mùa Noel kỷ niệm, hơi phảng phất buồn, nhưng không bi lụy.

Ở Việt Nam, dù không chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12. Ngày nay, ngoài việc cộng đồng công giáo tổ chức lễ Noel theo những nghi lễ của tôn giáo nghiêm trang của mình, lễ Giáng sinh còn là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp của nhiều tầng lớp dân chúng nói chung, và đối với họ, Noel là một ngày Hội hơn là một ngày Lễ.

Đã 40 năm kể từ khi ca khúc “Bài thánh ca buồn” ra đời, đến nay nó vẫn được nhiều người nghe, thích và tiếp tục hát, thậm chí đang có xu hướng trẻ hóa dần dần. “Bài thánh ca buồn” đã thực sự trở thành một trong những ca khúc pop-ballad được nhiều người Việt ưa chuộng vào mỗi dịp Giáng sinh.

@rfi

Nghe Elvis Phương hat “Bài thánh ca buồn”

Kinh tế ‘không khá hơn nhờ hào quang cũ’

Cat Barton

Hãng tin Pháp AFP

Đường phố Hà NộiHà Nội rầm rộ kỷ niệm 40 năm ‘Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không’

Hãng tin Pháp AFP hôm 23/12 có bài phân tích cho rằng Việt Nam cần mạnh dạn cải cách hơn là bám vào hào quang chiến thắng cũ, nhân dịp Việt Nam kỷ niệm 40 năm ngày chiến đấu chống lại 12 ngày đêm Mỹ thả bom Hà Nội.

Các bích chương cổ động với hình máy bay B-52 của Mỹ rơi trong lửa đỏ ngập tràn đường phố Hà Nội để một lần nữa kỷ niệm một cuộc chiến đã lui vào quá khứ từ lâu.

Tuy nhiên đằng sau sự tuyên truyền quen thuộc, nhà cầm quyền Việt Nam đang đối mặt một nguy cơ mới: sự phẫn nộ của dân chúng đối với tình hình kinh tế đất nước.

‘Không còn tác dụng’

Trong nhiều năm qua các lãnh đạo của chế độ độc đảng đã dựa vào những ký ức chiến tranh để củng cố quyền cai trị của mình vốn lâu nay vẫn ăn theo hào quang thời chiến.

Tuy nhiên với nền kinh tế do khu vực nhà nước chi phối đang sup sụp, các chuyên gia cho rằng tung hê những chiến thắng quân sự cách nay hàng chục năm không còn đủ sức để giúp bảo vệ chế độ trước sự giận dữ ngày càng tăng của công chúng.

“Đảng Cộng sản đang đi trên băng mỏng,” ông David Koh, một chuyên gia phân tích tình hình Việt Nam ở Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, nhận định.

“Họ nên nghĩ rằng các thế hệ sau này sẽ không chỉ nhìn vào những khoảnh khắc vinh quang trong quá khứ để xem liệu chế độ chính trị này có đáng được ủng hộ hay không,” ông nói.

“Họ (Đảng Cộng sản) nên nghĩ rằng các thế hệ sau này sẽ không chỉ nhìn vào những khoảnh khắc vinh quang trong quá khứ để xem liệu chế độ chính trị này có đáng được ủng hộ hay không.”

David Koh, Viện nghiên cứu châu Á ở Singapore

Chìa khóa để củng cố tính chính danh của Đảng Cộng sản sẽ là nghiêm túc cải cách kinh tế, chuyên gia này nhận định.

Bất chấp việc báo chí bị kiểm soát chặt chẽ vẫn có các dấu hiệu cho thấy sự bất mãn ngày càng tăng của công chúng – từ những tiếng nói chỉ trích đồng thanh trên mạng cho đến các cuộc phản đối tình trạng tham nhũng và thu hồi đất đai diễn ra hàng ngày ở Hà Nội.

“Chính phủ nên bớt tiền của và thời gian kỷ niệm các sự kiện lịch sử để quan tâm nhiều hơn đến đời sống của người dân,” ông Trần Văn Đương, 65 tuổi, một cựu chiến binh đồng thời là một công chức về hưu, nói.

“Dường như ai cũng kiếm được ít tiền hơn trong năm nay. Mọi người đang ta thán. Người dân không hài lòng với những gì chính phủ đang làm,” ông nói trong bối cảnh Hà Nội đang kỷ niệm 40 năm trận chiến trên bầu trời Hà Nội năm 1972 vốn còn được gọi là đợt ‘ném bom Giáng sinh’.

Trong đợt không kích này, các máy bay B-52 của Mỹ và các máy bay ném bom khác đã dội 20.000 tấn bom xuống Hà Nội và các khu vực lân cận sau khi cuộc hòa đàm với chính phủ Bắc Việt sụp đổ.

Từng được tâng bốc là ‘con hổ châu Á’ trong tương lai, nền kinh tế Việt Nam đã quay trở lại mặt đất – hệ thống ngân hàng chìm trong nợ xấu, đầu tư trực tiếp nước ngoài sụt giảm nghiêm trọng và hàng chục doanh nghiệp nhà nước đang trong tình trạng gần như phá sản.

Từ chi phí y tế cao ngất cho đến giáo dục dưới chuẩn và giao thông tắc nghẽn, các nhà phân tích cho rằng những khiếm khuyết nghiêm trọng của mô hình tư bản chủ nghĩa do Nhà nước chỉ huy của Hà Nội đang bộc lộ trên tất cả mọi mặt của đời sống.

Thành tích yếu kém

Máy bay B52 rơi trên bầu trời Hà NộiĐảng Cộng sản Việt Nam đang bám vào hào quang quá khứ để sống còn

“Chế độ chính trị không hoạt động hiệu quả… Không thể điều hành một đất nước như thế. Rất là xơ cứng,” ông Adam Fforde ở Trung tâm nghiên cứu kinh tế chiến lược thuộc Đại học Victoria ở Melbourne nhận định.

“Người dân đã mất niềm tin rằng có ai đó có khả năng xoay chuyển tình hình và tạo ra thay đổi,” ông nói.

Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đi theo mô hình của Trung Quốc là kết hợp giữa thị trường tự do với nền chính trị chuyên chế để đạt tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên các chuyên gia cho rằng quốc gia này cần phải cải cách kinh tế và chính trị sâu rộng.

Sự trì trệ hiện tại của nền kinh tế đang gia tăng sức ép lên hàng ngũ lãnh đạo. Khoảng 1 triệu thanh niên tham gia vào thị trường việc làm mỗi năm trong khi các chuyên gia đang cảnh báo rằng tình hình tạo ra việc làm và đào tạo nghề không theo kịp thực tế.

“Bộ máy Nhà nước đang trong trạng thái hơi bị chết đứng,” Jonathan London, một nhà nghiên cứu tại Khoa châu Á và quốc tế tại Đại học Hong Kong, nhận định.

“Chính phủ nên bớt tiền của và thời gian kỷ niệm các sự kiện lịch sử để quan tâm nhiều hơn đến đời sống của người dân.”

Trần Văn Đương, 65 tuổi, cựu chiến binh

Mặc dù theo chế độ độc đảng, cấu trúc chính trị Việt Nam bị phân rã trầm trọng trong lòng bộ máy rộng lớn của Đảng Cộng sản. Điều này có nghĩa là khi cần thì chính quyền Việt Nam không thể đưa ra các quyết định mạnh mẽ.

Từ Ngân hàng Thế giới cho đến các kinh tế gia của Đảng ai cũng thừa nhận rộng rãi những gì cần phải làm để nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như củng cố tăng trưởng GDP vốn chạm mức thấp nhất trong năm nay kể từ năm 1999.

Phải cải cách khu vực Nhà nước, tái cơ cấu khu vực ngân hàng và chống tham nhũng nếu không muốn phép màu kinh tế Việt Nam, vốn từ 10 năm trước được xem như một điều hiển hiện chắc chắn, sẽ tiếp tục tan biến,” phân tích gia London nói thêm.

Bản thân Đảng Cộng sản cũng nhận thức được vấn đề. Tại Hội nghị trung ương 6 hồi tháng 10 Đảng đã thừa nhận sai lầm trong chỉ đạo nền kinh tế nhưng không có ai bị trừng phạt.

Việt Nam cần những nhà lãnh đạo có thể chặn đứng các nhóm lợi ích đầy quyền lực – từ các tổ chức quân đội, các tập đoàn Nhà nước cho đến các quan chức địa phương – tự tung tự tác để đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo, London nói.

“Hiện không rõ liệu ai có thể làm được điều này,” ông nói thêm.

Thay vào đó, đất nước này đang mắc kẹt trong một phong cách lãnh đạo ‘cũ kỹ, suy đồi đưa đến kết quả là một bên là những chiếc ô-tô Bentley và Rolls-Royce còn một bên là hàng chục triệu người đang phải vật lộn’, ông nói.

@bbc

Sáng Chủ nhật buồn

Huỳnh Ngọc Chênh

Bất động sảnThị trường bất động sản chờ chính phủ ‘giải cứu’

Thường sáng Chủ nhật, sau khi thức dậy, tôi có tâm trạng vui nhưng không hiểu tại sao sáng nay tôi lại thấy buồn.

Có lẽ bị tác động bởi vài câu chuyện buồn của tối hôm qua. Bắt đầu từ chuyện anh lái taxi than vãn ế ẩm, nhiều bạn anh đã bỏ xe nghỉ việc vì lỗ. Từ đó nhớ đến chuyện các hãng taxi bị lỗ nặng. Đại gia Mai Linh bị nặng nhất rồi các hãng khác nghe nói cũng đang điêu đứng, tìm cách bán lại để tháo chạy. Rồi nhớ tuần trước đi ăn tối tại một nhà hàng khá nổi tiếng tại đường Trần Quốc Thảo, tối thứ bảy mà cả nhà hàng hai tầng chỉ có một bàn thực khách của chúng tôi. Rồi nhớ lại chuyện anh bạn là chủ một nhà rất lớn ở Bình Quới, anh nói: Số lượng thực khách giảm xuống thấy rõ từng ngày…tình hình này qua năm 2013 không biết sẽ ra sao.

Từ đầu năm đến giờ, lúc nào ngồi với đám bạn bè là giới kinh doanh, đều nghe họ thở dài vì nghĩ đến nợ nần. Nhiều người bạn biến mất vì vỡ nợ. Giới chứng khoán thì đã tiêu tùng từ hai năm trước. Giới bất động sản thì lao đao từ đầu năm ngoái để đến cuối năm nay thì hầu như sụp đổ, ai sống sót thì đang khấp khởi trông chờ vào gói giải cứu của chính phủ. Hầu như những đại gia còn sống sót ngắc ngoải là những đại gia khủng, trong nhóm lợi ích, có quyền lợi liên thông với các quan chức lớn và giới ngân hàng. 100 ngàn đến 150 ngàn tỷ đồng của chính phủ đổ ra chắc để giải cứu cho đám nhà giàu này?

Tôi biết có một số đại gia nhà đất sụp đổ từ hai năm trước, hầu hết các dự án của họ đều dừng lại, giao luôn cho ngân hàng xiết nợ rồi ung dung bỏ đi ăn chơi và hưởng thụ. Các đại gia ấy cứ đến thứ sáu là rậm rực bay đi Singapore, đi Mã Lai, đi Macao, Las Vegas…để đánh bạc. Tôi hỏi một vị, đang nợ ngân hàng ngập đầu mà tiền đâu còn đi ăn chơi? Vị ấy cười cười không nói.

Sau này thì tôi hiểu ra. Công thức làm ăn của các đại gia ấy là: Đại gia nhờ quan hệ chạy được một dự án, bỏ ra 100 tỉ đồng để đền bù và bôi trơn các cấp, sau đó “vẽ” ra một dự án quy mô lớn với trị giá nâng lên đến 600 tỉ đồng nhưng giá trị thực thì chỉ chừng 300 tỉ. Đại gia mang dự án ấy thế chấp ngân hàng vay được 1/2 giá trị là 300 tỉ đồng. Đại gia rút về 100 tỉ đồng là vốn bỏ ra ban đầu. Còn 200 tỉ đồng của ngân hàng đem ra múa. Thời sốt nhà đất, đại gia hốt đậm, vì mới vẽ bản đồ, chưa kịp làm móng đã bán sạch hàng. Thời này, nhà đất xẹp, không dụ ai để bán được hàng, đại gia bèn dừng lại dự án rồi tuyên bố vỡ nợ, giao dự án lại cho ngân hàng làm chi thì làm. Đại gia chẳng mất gì hết, có khi còn lời nếu biết dừng dự án sớm, nên cứ vui chơi. Chỉ ngân hàng ôm đổng.

Bây giờ chính phủ đổ tiền ra giải cứu bất động sản là giải cứu cho các anh ngân hàng ôm món hàng thế chấp trời ơi đó.

“Rồi hình ảnh hàng vạn dân oan mất đất lê la đi khiếu kiện ngày này qua tháng nọ ở khắp mọi miền đất nước lại ập về trong tôi. Có người bị đánh chết, có người bị bắt tù, có người tự thiêu, có người phải cởi truồng để giữ đất.”

Cả nước có đến hàng ngàn dự án địa ốc kiểu đó. Có những địa phương giải tỏa trắng đến vài xả, vài phường để cấp đất cho các đại gia trời ơi kiểu đó.

Rồi hình ảnh hàng vạn dân oan mất đất lê la đi khiếu kiện ngày này qua tháng nọ ở khắp mọi miền đất nước lại ập về trong tôi. Có người bị đánh chết, có người bị bắt tù, có người tự thiêu, có người phải cởi truồng để giữ đất…Ôi dân tôi sao mà gặp hết kiếp nạn này đến kiếp nạn khác thế này! Phẫn uất. Rồi buồn.

Rồi mọi hình ảnh tăm tối khác, những thứ bao năm nay đã cố quên, lại ập về khi nghĩ lại những gì đã đọc trong ”Bên Thắng Cuộc”. Nào học tập cải tạo, nào tiêu diệt tư sản mại bản, nào cải tạo công thương nghiệp, nào đổi tiền, nào nạn kiều, nào phương án 2, nào vượt biên, nào chiến tranh biên giới…bao nhiêu số phận dân lành bị vùi dập, bao nhiêu chết chóc tang thương…Đọc rất nhiều sách vở nói về nỗi khổ ải của dân ta dưới thời thực dân phong kiến, tuy đã được cường điệu lên nhiều lần, nhưng thấy cũng không thấm tháp gì so với những gì mà dân ta chịu đựng dưới thời bao cấp, qua thực tế bản thân tôi trải nghiệm, qua những số liệu lạnh lùng của Huy Đức nêu ra.

Buồn hơn nữa là đã qua rồi thời bao cấp, mà dân ta có hết lầm than đâu!

Nhất tướng công thành, vạn cốt khô.

Một chủ trương sai lầm, vạn xác dân phơi.

Từ 75 đến giờ biết bao nhiêu chủ trương sai lầm được phán ra? Và có ai đứng ra nhận trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân?

Blog Huynhngocchenh