Đọc cuối tuần – Chiếc khăn thêu

Nhà ông Phán Lại có cô con gái xinh người đẹp nết, mười bảy tuổi, cái tuổi đầy mơ mộng pha chút lo sợ thầm kín rất đặc trưng cho lứa tuổi ấy. Cô đang yêu, hay cũng gần như thế.

Ông làm thông phán ở thành phố mới dọn về làng, do vậy người ta mới gọi là Phán Lại. Ông vốn người bộc trực, liêm khiết (chắc vì thế mà thành buồn chán rồi từ quan), hồ hởi chào đón cách mạng và sự ra đời của chế độ mới. Dù chẳng còn trẻ, những ngày ấy người ta thấy ông hăng hái tham gia các hoạt động đoàn thể, và là một trong những người đi đầu trong đoàn biểu tình cướp phá Đồn Thủy rồi kéo về Nhà Hát Lớn cuối tháng Tám năm 1945. Khi Pháp trở lại, để tỏ thái độ bất hơp tác, ông đưa con gái, cô Nguyệt Tú, về sống ở làng này, vốn là quê tổ của ông, cách Hà Nội tám mươi cây số về phía Tây, và được xem là khu an toàn kháng chiến.

Ảnh minh họa

Cô Nguyệt Tú đã học hết lớp chót trường nữ sinh trung học, khá giỏi tiếng Pháp, bằng chứng là chiều chiều cô ngồi bên cửa sổ đọc tiểu thuyết của các nhà văn tình cảm phương Tây rồi thút thít khóc một mình. Thậm chí cô còn theo học cả đàn pianô như nhiều tiểu thư thị thành thời ấy, nhưng sau do gia đình sa sút đành bỏ. Cô là người nhút nhát hiếm thấy, lại mau nước mắt, và mỗi lần phải nói chuyện trực tiếp với ai, nhất là đàn ông, khuôn mặt xinh đẹp, trắng nhợt của cô lại đỏ rực, đỏ đến cả hai tai. Cô sống khép mình, không có chủ kiến mà dường như cũng chẳng muốn có. Rõ ràng cô sinh ra để được che chở chứ chẳng phải che chở người khác. Cô thực sự sợ hãi khi thấy các cô gái làng thắt quần móng lợn suốt ngày lăn lê bò toài trên sườn đồi, hò hét đâm chém các hình nộm, lại cười rất to và nói những lời cô bịt tai không dám nghe. Các cô kia thì tất nhiên chẳng coi cô ra gì, một con bé tiểu thư thành phố thuộc “giai cấp ăn bám”, một phần tử “vô tích sự” không đáng cho họ mời tham gia hội họp và luyện tập.

Thế mà không ai ngờ, không ai biết chính cái cô ăn bám, vô tích sự ấy và đội trưởng đội du kích của họ đang yêu nhau, mà không chỉ mới hôm qua hay tuần trước.

Họ quen nhau vì anh đội trưởng du kích rất cách mạng ấy là thanh niên duy nhất có học trong làng, học xong trường huyện, con một gia đình phú nông có những ba người đang là bộ đội kháng chiến và trước đấy nhiều năm nuôi giấu cán bộ, có người bây giờ đang làm to. Thỉnh thoảng anh sang nhà ông Phán mượn sách. Cũng là điều dễ hiểu. Buồn vì không có người nói chuyện sách vở, hai người thân nhau, có hôm ngồi rất lâu. Ông thấy mến anh chàng này vì mặt mày sáng sủa, có văn hóa và ăn nói lễ phép chứ không như mấy ông bà cách mạng trẻ nông dân ông không dám khinh nhưng thực bụng chẳng mấy thích thú. Khi tủ sách của mình cạn, chính ông giới thiệu anh hỏi mượn sách của cô con, là người luôn lỉnh vào phòng đóng chặt cửa mỗi lần anh đến.

Một hôm, nhận lại cuốn sách anh trả, thờ thẫn cầm nó trên tay như ve vuốt, là việc cô thường làm một cách vô thức chẳng hiểu vì sao, cô chợt thấy ở ngay trang đầu có mảnh giấy nhỏ ghi ba chữ rất nắn nót “Anh yêu em!” Dấu chấm than được tô đậm đến mức suýt thủng tờ giấy pơ-luya mỏng.

Không khó hình dung đôi má cô lúc ấy đỏ lên như thế nào. Cô lặng người một lát, lồng ngực nhô lên hạ xuống vì thở gấp, rồi chạy ù vào giường, nằm ngửa mặt, trân trân nhìn lên trần nhà. Không thể nói lâu nay cô không cảm tình với anh, nhưng để nhận tờ giấy này thì quả cô không ngờ và chưa sẵn sàng đón nhận nó. Cô không biết bây giờ phải làm gì, phải nghĩ gì và nhất là phải có thái độ thế nào đối với anh ấy. Đặt cuốn sách lên ngực, cô mân mê tờ giấy, đọc đến hàng chục lần mấy chữ ngắn gọn, đơn giản mà kỳ diệu ấy. Trước mặt cô hiện lên khuôn mặt sáng sủa của anh với đôi mắt nghiêm nghị, làn da cháy rám vì suốt ngày chang nắng ngoài trời. Cô thấy hơi sợ đôi nghiêm nghị ấy, bây giờ cũng như những lần ít ỏi anh nói chuyện với cô, hầu như chỉ mình anh nói, còn cô thì bẽn lẽn cúi đầu. Anh nói hay, cô thích nghe anh, thích anh đến mượn sách, dù vẫn luôn tự trách và cười diễu mình vì sự thích ấy. Thích mà vẫn sợ, như sợ một cái gì đấy xa lạ chưa lý giải nổi. Anh ấy là người mạnh mẽ, là cộng sản, cách mạng, còn mình thì…

Buổi tối, cô cáo ốm không ăn cơm, rồi thiếp đi với cuốn sách cùng mảnh giấy vẫn trên ngực và môi khẽ thì thầm hai tiếng anh ấy cùng nụ cười nửa hạnh phúc nửa lo sợ mơ hồ.

Mấy ngày sau anh gửi trả một cuốn sách khác, lại kèm tờ giấy trắng với ba chữ “Anh yêu em” như trước, nhưng lần này, rất sâu phía dưới có viết thêm là nếu cô không dửng dưng với anh thì hãy để một tờ giấy trắng vào cuốn sách anh sẽ đến mượn ngày mai. Hôm sau đến nhà ông Phán mượn sách, anh không thấy tờ giấy nào kẹp trong đó. Cuốn sách cũng không được cô đưa tận tay như mọi lần, mà qua ông bố, còn cô thì được bảo khó ở đang nằm trong phòng.

Cuốn sách này, và thêm một cuốn nữa khi nhận lại, cô chợt buồn khi không thấy có tờ giấy với dòng chữ quen thuộc mà cô mong đợi. Nhưng cuối cùng, dẫu nhút nhát và rất sợ, cô cũng nói được anh ấy biết tình cảm của mình. Tình yêu còn lớn hơn cả nỗi sợ và nghi ngại. Một lần, ngồi bên cửa sổ thấy anh đang đến, cô nhanh nhẹn bước ra, dúi vào tay anh một bức thư dài viết sẵn rồi bỏ chạy.

Còn tối nay thì cô đã nhận lời ra gặp anh ngoài bờ đê sau làng. Chả là chỉ ít hôm nữa anh sẽ lên đường đi bộ đội tận chiến khu Việt Bắc, có thể một thời gian dài như anh nói.

Cô đã mất những ba ngày để khâu tặng anh một chiếc khăn mùi-soa. Nó được cắt từ thân trước, chỗ che ngực, chiếc áo dài màu trắng cô mặc thời còn ở trường nữ sinh. Cô thẹn thùng với ý định kỳ cục ấy, mấy lần định thay bằng miếng vài lụa mới tinh, nhưng cuối cùng vẫn không thay. Vốn được dạy nhiều về nữ công gia chánh, cô có thể thêu rất nhiều hình đẹp trên đó, nhưng suy đi nghĩ lại, rốt cục cô chỉ thêu chữ cái tên hai người, T và H đan lồng nhau, bằng chỉ hồng, rất tinh tế và rất đẹp. Bây giờ chắc ít người tặng nhau những kỷ vật tình yêu kiểu này, nhưng thời đó là mốt của các cô gái trẻ mơ mộng tỉnh lẻ. Nhiều lần cô đã khóc khi thêu chiếc khăn đó, cũng nhiều giọt nước mắt đã rơi xuống nó, nhưng nghe nói nước mắt con gái mới lớn không mặn nên không để lại vết ố nào. Có thể vì thế mà anh ấy sẽ chẳng bao giờ biết được nó đã từng thấm nước mắt người yêu. Không biết rằng nó cũng từng nhận nhiều, rất nhiều những cái hôn của cô.

Trên đê lộng gió, hơi se lạnh. Trăng cuối tháng mảnh như chiếc lá cỏ voi bị uốn cong, nhưng trời sáng vì rất nhiều sao, những ngôi sao to, đẫm nước. Chếch phía Tây là dãy núi thấp mờ đen có hình con chó nằm phủ phục, đầu hơi ghếch lên, lơ đãng lắng nghe những lời yêu đương của đôi trai gái sắp xa nhau.

Nhưng họ nói với nhau ít lắm. Anh nói:

“Anh đi ít năm rồi về. Chờ anh nhé!”

“Vâng, em chờ”, cô đáp.

Rồi anh với tay định cầm tay cô. Theo bản năng, cô né tránh, và tới lần thứ ba anh mới có được bàn tay bé nhỏ, nóng hổi của cô trong tay mình. Bàn tay run run như con chim nhỏ thảng thốt.

Bằng bàn tay kia, cô móc túi lấy ra chiếc khăn.

“Tặng đấy. Hãy giữ và nhớ đến em”.

Con chim – bàn tay càng run rẩy, thảng thốt hơn.

“Cảm ơn em”, anh nói đơn giản rồi nhét vào túi trên ngực.

Cô chạnh buồn vì anh không mở ra xem hoặc không nói thêm đôi câu nữa về nó. Xem gì, nói gì, chính cô cũng không biết, chỉ thấy hơi buồn.

Họ im lặng khá lâu, tay vẫn trong tay. Trăng đã chếch ngang đầu, trời sao như sà xuống thấp hơn. Ngoài đê, trong bụi duối rậm không xa chỗ họ đứng có con gì cứ tỉ tê đơn điệu.

“Em sợ lắm…”

“Em sợ gì cơ?”

“Không biết, nhưng em thấy sợ, nhất là khi không có anh ở đây”.

“Em nói lạ thật đấy”.

“Không, thật mà. Em sợ… Em sợ cộng sản, sợ cách mạng…”

Anh phá lên cười:

“Thế thì lại càng lạ. Anh là cộng sản, là cách mạng đây. Em thấy anh có đáng sợ không?”

“Anh thì không, nhưng người khác thì em sợ. Họ không thích những người như em. Em nghĩ có thể tốt hơn nếu em và bố quay lại vùng tạm chiếm”.

“Em hiểu nhầm rồi, – anh lại cười. – Tại em không chịu tham gia các cuộc họp của bọn anh đó thôi. Cộng sản, cách mạng mang lại hạnh phúc cho mọi người. Em hiểu chứ? Mọi người! Cách mạng sẽ…”

Rồi anh nói một thôi, gần như nguyên xi những gì ông cán bộ tỉnh mới thuyết giảng tối qua về chủ nghĩa cộng sản, về cách mạng và những điều tốt đẹp của nó.

“Em yên tâm. Cách mạng sẽ bảo vệ em, che chở cho em! Cho gia đình em! Cho toàn dân!”

“Anh nghĩ như thế thật à?”

“Tất nhiên, nếu không anh đã chẳng chịu xa em lên đường bảo vệ cách mạng”.

Cô gái khẽ gật đầu, và lần đầu tiên nắm chặt tay anh.

*

Sáu tháng sau, tức là cuối năm 1952, trong phong trào “Phát động quần chúng đấu tranh chống phản động” ông Phán Lại bị tòa án cách mạng xử bắn vì tội làm gián điệp cho Pháp. Cô Nguyệt Tú con ông bị đem đấu tố về tội ăn bám, rồi cô treo cổ tự tử vì không chịu để một ông cán bộ cộng sản cưỡng hiếp. Khi chết, cô đã nhắc tên anh, một chiến sĩ cộng sản khác đang chiến đấu bảo vệ cách mạng và chế độ cộng sản tốt đẹp anh đã nói với cô.

Cái tin này mãi về sau anh mới biết, vì lúc đó bản thân anh đang bận chỉ đạo thực hiện phong trào ấy ở một nơi xa. Cũng như trong cuộc cải cách ruộng đất sau này, anh luôn tận tuỵ với công việc được giao, và không chút nghi ngờ sứ mạng cao đẹp của nó. Anh thực sự tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tính đúng đắn của con đường đã chọn, tin một cách tuyệt đối pha chút ngây thơ và mù quáng, nên không nghĩ tới sự cần thiết phải xem xét, kiểm chứng hoặc chiêm nghiệm lại. Anh là mẫu người cách mạng lý tưởng. Khi lý tưởng cộng sản chui vào đầu anh, một lý tưởng tuyệt đẹp như mọi lý tưởng khác trên đời, anh choáng ngợp trước cái đẹp cao cả của nó và háo hức vươn tới mục đích mà ít chú ý tới phương tiện. Mục đích chi phối phương tiện, người ta dạy anh thế, và một khi mục đích đã cao đẹp thì không có phương tiện nào là xấu, tức là bất kỳ hành động nào cũng có thể biện minh được, cả khi những hành động ấy là tàn bạo và phi lý. Con đường cách mạng không bao giờ bằng phẳng và không thể tránh khỏi một số sai lầm do nhận thức. Cái chết bi thảm đầy oan trái của hai bố con người yêu anh cũng được nhìn nhận dưới góc độ ấy. Và thật lạ, dẫu rất đau xót và căm phẫn, anh thấy lòng mình thanh thản hoặc cũng gần như thế, cả khi nghĩ về những việc anh đã làm trong cuộc vận động ấy. Sai lầm. Sai thì sửa. Chính lãnh tụ cao nhất của Đảng đã nói lời xin lỗi, mắt rưng rưng. Mắt anh cũng rưng rưng khi chứng kiến việc này. Có điều cả anh và lãnh tụ không đả động gì đến việc vì sao và do ai mà những sai lầm tầm cỡ ấy có thể xảy ra, và liệu một lời xin lỗi như thế có thỏa đáng không trước hàng chục nghìn sinh mạng bị giết oan.

Tuy nhiên, anh vẫn bị day dứt bởi một nỗi ám ảnh, nhỏ thôi nhưng dai dẳng và thật bất tiện, rằng chính anh đã gây nên cái chết của Nguyệt Tú và bố cô. Dẫu không chủ ý, nhưng anh đã nói dối họ về việc họ sẽ được cách mạng bảo vệ. Không có anh, chắc họ đã trở lại thành phố và do vậy tránh được bi kịch. Thoạt đầu anh nghĩ đây chỉ thuộc phạm trù đạo đức. Một lời khuyên sai, hay thậm chí một lời nói dối, suy cho cùng cũng chỉ là lời nói dối, tức là ở cấp thấp hơn nhiều so với cả một hệ tư tưởng, và rằng cùng với thời gian nó sẽ nguôi ngoai rồi đi vào quên lãng. Nhưng ác thay, thực tế diễn ra trái ngược hẳn. Như con vi rút chết người, chấm đen mặc cảm tội lỗi ấy không mất đi mà ngày mỗi lớn trong anh. Nó bắt đầu tấn công các tế bào cách mạng đỏ. Nó biến tướng, tù vi rút đạo đức thành vi rút tư tưởng, và vết thương cứ to dần, to dần…

Năm tháng trôi qua, đến nay, anh đã là một ông già. Hơn thế, một ông già cô đơn và bệnh tật. Cùng với vết thương ấy trong lòng, ông đi tiếp con đường cách mạng của mình, qua những năm tháng sĩ quan thời chiến, đến chức vụ trưởng, thứ trưởng một bộ quan trọng rồi chức uỷ viên trung ương Đảng. Tiếc rằng đến đây thì bệnh quá nặng và nó đã bộc phát ra ngoài. Ba lần ông viết tâm thư lên trung ương của ông, thật thà trình bày quan điểm của mình cùng những đề nghị thay đổi. Chừng ấy lần ông bị kỷ luật nội bộ, bị cách chức và quản thúc tại gia. Một lần ông nhảy lầu tự tử nhưng không chết, nay có muốn nhảy tiếp cũng không thể vì chân què không còn có thể leo gác. Rồi bệnh đau mắt từ nhỏ tái phát, cộng với nỗi buồn bực, đã biến ông thành người mù.

Cuối cùng, các đồng chí của ông đã để ông yên vì ông chẳng thể làm gì được nữa. Một ông lão què chân, mù mắt, sống một mình (vì ông chẳng bao giờ lấy vợ nên không con cháu) trong ngôi nhà cấp bốn hai phòng ngay sát Hồ Tây, sống với một bà lão giúp việc (do trung ương chi tiền thuê) hơi giở người nhưng được cái sạch sẽ và chưa một lần quên nấu ăn để ông phải đói. Lúc này trong đầu ông chỉ toàn màu đên, tịnh không sót lại một chút nào màu đỏ hừng hực của thời trẻ.

Ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc ghế được làm bằng hai thanh gỗ thô ráp, nhìn ra mặt nước Hồ Tây vô cảm. Ngồi lặng lẽ suốt từ mờ sáng đến tối mịt, ấy là theo lời báo cáo lên trung ương của bà lão giúp việc, chứ ông thì không biết và không thèm để ý đến khái niệm thời gian trong ngày. Ông còn minh mẫn, thậm chí minh mẫn hơn cả những ngày trai trẻ, và nếu không mù và còn giấy mực, hoặc chí ít có người viết hộ thì ông còn gửi nhiều tâm thư nữa cho Đảng yêu quí của ông. Thời kỳ đầu ông còn lẩm bẩm một mình, có khi gào to với Hồ Tây, nay thì ông im lặng, suốt ngày im lặng, và, cũng theo lời bà già chỉ điểm kia, “lúc nào cũng luôn tay mân mê một chiếc khăn mù-soa bẩn thỉu bị thủng một lỗ bằng ngón tay ở góc”. (Đó là vết đạn xuyên trúng phổi ông cuối chiến dịch Điện Biên). May người ta cho đó là dấu hiệu lẩm cẩm của một ông già lẩn thẩn nên nó không bị tịch thu.

@Sưu tầm trên Net

Bộ đội chiến trường K phản hồi “Đơn của nhóm thương binh nặng yêu cầu xử lý ông Nguyễn Xuân Diện Viện Hán Nôm

Bộ đội chiến trường K.

Yêu cầu tên lợi dụng danh nghĩa thương binh Hoàng Đức Đồng và bè lũ của hắn phải trả lại danh dự cho những người thương binh, cựu chiến binh Việt Nam.

Tôi cũng là 1 thương binh, đã từng tham chiến ở chiến trường K, vùng biên giới Tây Nam của Tổ Quốc. Tôi hoàn toàn không đồng ý với những hành động vô văn hóa, vô ý thức tổ chức kỷ luật của nhóm người do ông Hoàng Đức Đồng cầm đầu.

Nếu thật sự ông Hoàng Đức Đồng và nhóm người đó không phải là băng đảng xã hội đen đi chăng nữa, thì những hành động có ngụ ý hăm dọa, vô lễ với người dân, với những người tri thức như Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện là thái độ của bọn cường hào ác bá, lưu manh côn đồ, của bọn công thần, ỷ quyền cậy thế ức hiếp những người dân lành vô tội.

Những cách hành xử du côn đó không hề đại diện cho bất kỳ những ai đã từng đi Bộ đội, đã từng được vinh dự đứng trong hàng ngũ “Quân Đội Nhân Dân Việt Nam anh hùng”, những cựu chiến binh, nhất là những người đã từng được hy sinh 1 phần xương máu của mình trong nhiệm vụ chống ngoại xâm, gìn giữ biên cương hải đảo, bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, đem lại sự ấm no hạnh phúc, công bằng bác ái cho nhân dân, cho dân tộc Việt.

Vì những lý tưởng cao đẹp đó, tôi – 1 người thương binh – yêu cầu ông Hoàng Đức Đồng và băng đảng của ông ta phải xin lỗi và trả lại danh dự cho những người cựu chiến binh, những người thương binh vì những hành động lưu manh côn đồ đó. Đừng lợi dụng danh nghĩa thương binh hay bộ đội vào nhũng mục đích xấu xa và đê hèn như vậy.

Lời Bác dạy “Bộ Đội là người trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẽ thù nào cũng đánh thắng”. Những hành động vừa qua của ông đã thể hiện tinh thần “hiếu với dân” chưa hở ông Đồng???

Bộ Đội K.

Bài viết mà tôi đề cập tại đây `http://danluan.org/node/12713 – tựa đề “Đơn của nhóm thương binh nặng yêu cầu xử lý ông Nguyễn Xuân Diện Viện Hán Nôm”

Khốn khó, doanh nhân chỉ muốn ‘ở ẩn’

THÀNH DŨNG

Khó khăn, chưa tìm thấy hướng ra nên không ít doanh nhân một thời sôi nổi, thiết tha kiến nghị, giờ thờ ơ lãnh đạm, im lặng trước các câu hỏi, né tránh tiếp xúc và ngại ngần xuất đầu lộ diện.

Chán… không buồn nói

Liên hệ phỏng vấn, trao đổi về tình hình sản xuất kinh doanh với các doanh nhân một thời nói hay làm giỏi, chính phóng viên các tờ báo thân thiện với doanh nghiệp lại rất hay gặp cái lắc đầu ngao ngán và chân thật “chết hết rồi, nói, viết ra bây giờ bức tranh càng tối thui, có giải quyết được gì đâu”. Có doanh nhân từ chối tiếp xúc, chia sẻ thông tin với báo chí bằng lý do “đang ở thời điểm nhạy cảm, cần nghe ngóng thêm, đã có gì đâu. Các giải pháp chỉ là tâm lý thôi”.

Tình hình bi đát này phổ biến ở các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, phát triển kinh doanh nhà ở. Có đồng nghiệp cho hay, trả lời qua điện thoại đã vậy, nhiều doanh nhân lấy lý do bận dở việc, yêu cầu gửi câu hỏi và hứa sẽ xem và trả lời qua thư điện tử, song bẵng đi mãi không thấy đâu. Họa hoằn người nào thực sự am tường, tâm huyết với chuyên môn, lĩnh vực của mình thì miễn cưỡng nhận lời trao đổi trên nguyên tắc: “không được đưa tên tuổi lên báo!”.

Trong một cuộc hội ngộ mới đây, chủ Tập đoàn Sơn Hà, ông Lê Vĩnh Sơn thổ lộ, các doanh nghiệp đang ở tình trạng nản chí đến mức họ phản ứng bằng cách… im lặng, không quyết liệt kiến nghị, phàn nàn hay đổ lỗi nữa.

Vị lãnh đạo doanh nghiệp thừa nhận, gần đây trên các diễn đàn trao đổi hay tại các hội thảo, báo chí rất ít khi tìm được 1 doanh nghiệp có tiếng nào đó để nói chuyện vì một phần doanh nghiệp sợ nếu kêu ca cái gì, ngân hàng nghe thấy sẽ gọi cho doanh nghiệp đó để đòi nợ ngay. Hơn nữa do không nhìn thấy tương lai nên doanh nghiệp cũng không muốn xuất hiện trước giới truyền thông nữa.

“Cách đây 6 tháng khi bắt đầu chìm đắm vào một cú khó khăn thứ 2 thì doanh nghiệp nhao lên vận động. Ai ở nhóm hội nào thì cầm đầu lên kêu gọi thành phố, trung ương phải tọa đàm, tháo gỡ giúp doanh nghiệp. Thế nhưng giờ phút này chắc không ai tin tưởng vào cứu cánh ấy nữa. Các doanh nghiệp đang cố tự cứu mình. Giờ chỉ các chuyên gia đăng đàn nói chuyện với nhau thì nhiều” – ông Sơn chia sẻ.

Lãnh đạo doanh nghiệp trẻ này cho biết, trong khi hàng loạt doanh nghiệp đã mất khả năng, bị đào thải thì thẳng thắn mà nói nếu không có thị trường xuất khẩu thời gian qua mà chỉ trông vào sản xuất tiêu thụ ống thép và các sản phẩm inox dân dụng trong nước thì có lẽ giờ này Sơn Hà cũng đã “lăn ra chết”.

Các gói hỗ trợ của Chính phủ như giãn, giảm thuế, giảm các khoản chi phí khác nghe có vẻ rất nhiều nhưng thực tế chỉ mang tính chất động viên. Những doanh nghiệp còn quay vòng và trụ được lúc này, muốn làm ăn tử tế, đầu tư vào chiều sâu hiện cũng không dám vì có quá nhiều rủi ro. Nếu tiếp tục lãi suất cao, chi phí lớn và tồn đọng sản phẩm thì giá trị của doanh nghiệp cũng ngày càng bị bào mòn đi. Có thể duy trì được một vài năm trước khi “tắt thở” như trong quy luật đào thải của tự nhiên.

Liệt kê hàng loạt các con số đáng mơ ước mà doanh nghiệp đã đạt được về thị phần, kim ngạch xuất khẩu, doanh thu trong các tháng đầu năm 2012, nhưng ông chủ của Tập đoàn Tôn Hoa Sen tại TP.HCM – Lê Phước Vũ vẫn không khỏi bùi ngùi: “đôi lúc cá nhân tôi cũng muốn nghỉ không làm nữa vì cảm giác nền kinh tế không ủng hộ nhà sản xuất mà chủ yếu thiên về lĩnh vực tài chính, kinh doanh. Những doanh nghiệp lớn có doanh số cao thực chất lại chủ yếu đi đầu cơ. Nền kinh tế như vậy là dựa trên một nền tảng không bền vững”.

Một lãnh đạo doanh nghiệp chuyên theo đuổi phát triển nhà ở chính sách tại Hà Nội cũng ủ rũ cho biết, sản phẩm không bán được, tiền doanh nghiệp bị chôn vào dự án cả chục tỷ đồng. Tiến thoái lưỡng nan, doanh nghiệp chỉ biết chờ chính sách thay đổi để mau được thoát khỏi cục nợ. “Trước làm việc tối ngày, kẻ đưa người đón, giờ không có việc gì, chỉ ngồi nhà suốt ngày cũng ngại ngùng, xấu hổ với xóm giềng. Không muốn gây sự chú ý, chỉ âm thầm ngậm ngùi là tình cảnh của nhiều doanh nhân” – vị lãnh đạo nói.

Ép lạm phát, triệt tăng trưởng

Chưa nhìn thấy cánh cửa, đường hướng nào được mở ra từ gói hỗ trợ doanh nghiệp 29.000 tỷ, cũng chưa thấy tương lai của mình qua đề án tái cơ cấu kinh tế, ông Nguyễn Thành Phương – Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Điện lạnh – điện máy Việt Úc bàng quan: “Chỉ số giá CPI tăng thấp khiến nhiều người vui mừng nhưng thực tế không như vậy.

Có giãn thuế VAT trong quý II theo tôi cũng chả có tác dụng gì vì hàng hóa tồn kho rất nhiều, không bán được. Việc giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp cũng chỉ những doanh nghiệp đang làm ăn được mới có khả năng nộp thuế, còn những đơn vị ngắc ngoải rồi thì làm sao có tiền để nộp”.

Đại diện Hiệp hội gỗ và lâm sản, ông Huỳnh Thạch cũng phản ánh, hiện toàn bộ các doanh nghiệp gỗ gần như đã chết rồi. Doanh nghiệp gỗ ở Bình Định – trung tâm xuất khẩu gỗ lớn của miền Trung, trước chủ yếu xuất khẩu đồ ngoại thất sang châu Âu, nay đơn hàng giảm rất nhiều bây giờ muốn chuyển sang làm đồ nội thất, cần có rất nhiều vốn để đầu tư thiết bị. Song vì không vay được vốn nên hiệp hội gỗ tại đây đang chết ngắc.

Ông cho biết thêm, lãi suất cho vay vốn được đẩy xuống 15% thực ra hạn chế cho 4 đối tượng hạn hẹp, mà điều kiện để vay được lại rất khó khăn cho nên nhiều doanh nghiệp đánh giá các biện pháp chỉ có tính chất an ủi chứ không giải quyết được vấn đề của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Ông Trương Đình Tuyển, Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, chuyên gia tư vấn chính sách cho Chính phủ nhận xét, nếu so sánh năm 2011, 2012 với năm 2009 thì năm 2009 thị trường thế giới xấu hơn. Tuy nhiên trong nước thì cảm nhận năm 2012 còn xấu hơn so với năm 2009.

Có thể thấy, mấy tháng đầu năm 2012 xuất khẩu tăng cao hơn so với 2009, nhưng doanh nghiệp năm 2012 còn khó hơn nhiều năm 2009. Thứ nhất nếu như trước đây doanh nghiệp còn năng lượng dự trữ từ những năm tăng trưởng cao trước đó từ 25-27%, nhưng hiện nay thì không còn gì nếu không nói là kiệt quệ. Hơn nữa, năm 2009, doanh nghiệp còn thụ hưởng gói kích cầu, còn năm nay là chả có gì cả.

Ông Tuyển tin tưởng, lạm phát năm 2012 hoàn toàn có thể khống chế được ở mức 1 con số. Vì thế đối diện với thời điểm cực kỳ khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp, ông cho rằng, chúng ta không nên hăng hái ép lạm phát xuống quá, vì nếu tiếp tục đẩy xuống thì khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp càng khó khăn hơn.

Với gói hỗ trợ doanh nghiệp 29.000 tỷ của Chính phủ, những doanh nghiệp lâu nay yếu kém thì buộc phải chết. Điều này là bình thường nhưng đối với những doanh nghiệp khó khăn do chính sách, cụ thể là sự đóng chặt tiền tệ, cắt giảm đầu tư khiến họ khó tiếp cận vốn thì rất cần phải có các trợ giúp tổng thể, trọng điểm đối với đối tượng này.

@VEF.VN

Vinalines: ‘Nghìn tỷ đồng đổ sông đổ biển’

Hình từ trang web của Vinalines
Vinalines bị tố cáo làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng

Bí thư thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh nói tại Quốc hội Việt Nam rằng vụ thất thoát hàng nghìn tỷ đồng ở Tổng công ty Hàng hải Vinalines và cựu lãnh đạo bỏ trốn giống ‘như chuyện đùa’

Ông Thanh được VnExpress trích dẫn nói hôm 25/5: “Vừa rồi đi tiếp xúc, cử tri kêu lắm, mỗi chuyện tàu thủy lỗ.

“Trong khi 70.000 hộ gia đình chính sách, tiền hỗ trợ chẳng đáng bao nhiêu mà mãi chưa quyết được, đằng này hàng nghìn tỷ đổ sông đổ biển, xót hết cả ruột.

“Vinalines thua lỗ, cựu chủ tịch bỏ chạy, công an không bắt được. Nói ra cứ như chuyện đùa.

“Cử tri bức xúc mà hỏi không biết trả lời thế nào, mặt cứ trơ ra.”

Ông Thanh nói vụ Vinalines cho thấy sự “lỏng lẻo” trong quản lý nhà nước. Điều này thể hiện qua việc chậm phát hiện vấn đề, tiếp tục thăng chức cho cựu chủ tịch Vinalines Dương Chí Dũng, và công an để cho ông này bỏ trốn.

Đây cũng là vấn đề được Thiếu tướng Nguyễn Viết Nhiên, phó tư lệnh Quân chủng hải quân nêu ra trong cuộc thảo luận ở Quốc hội.

Báo Tuổi Trẻ dẫn lời Tướng Nhiên nói:

“Trước đây Vinashin đổ vỡ, nay đến lượt Vinalines. Tại sao những tập đoàn được đầu tư lớn mà chính phủ kiểm soát lỏng thế?

“Thời gian Đại hội XI, người dân nói rất nhiều, bức xúc trước vụ việc xảy ra ở Vinashin, bây giờ đến Vinalines thì ăn nói thế nào với người dân?”

Một số đại biểu Quốc hội cho rằng việc bắt Vinalines gánh nợ bớt cho Vinashin càng khiến cho Vinalines gặp khó khăn hơn.

Thiếu kiểm soát

Trong số những khoản đầu tư gây thất thoát của Vinalines có việc mua ụ nổi sản xuất từ năm 1965 của Nhật hồi năm 2008.

Ụ nổi này bị cho là quá tuổi sử dụng 22 năm so với quy định của pháp luật Việt Nam và có tốn phí lên tới 24 triệu đô la, gấp đôi dự toán ban đầu.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Hoàng Ngân, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nói chính phủ đã không chú ý đúng mức tới quản lý nguồn vốn ở các doanh nghiệp nhà nước.

Ông Ngân, còn là Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, được báo Sài Gòn Giải Phóng dẫn lời nói:

“Cái chính là nền kinh tế của chúng ta thời gian qua chạy theo tăng trưởng, nới rộng chính sách tiền tệ, dẫn đến đầu tư tràn lan, Nhà nước mất khả năng kiểm soát. Nhà nước không đủ lực để kiểm soát đầu tư.

“Các tập đoàn lại quá lớn trong khi khả năng kiểm soát có giới hạn.”

Tiến sỹ Ngân nói với bờ biển dài, Việt Nam có những tập đoàn để khai thác kinh tế biển như Vinashin và Vinalines là đúng nhưng cơ chế quản lý “chưa rõ ràng, minh bạch”.

Cũng giống Tiến sỹ Ngân, Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng Viện quản lý kinh tế Trung ương, nhấn mạnh sự cần thiết phải kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

“Lỗi chính là do hệ thống của mình thiếu kiểm soát,” Tiến sỹ Cung nói với VnExpress.

“Việc chọn đóng tàu, phát triển vận tải biển là một chiến lược đúng. Tuy nhiên hai “Vina” đã thực hiện chưa đúng chiến lược đó. Nói một cách khác, chiến lược đúng, nhưng chiến thuật thì sai.”

Ông Cung cũng cho rằng Việt Nam nên buộc các công ty nhà nước phải công bố thông tin như những doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, dùng những bên có liên quan tới doanh nghiệp như các nhà đầu tư, nhà cung ứng, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh để giám sát doanh nghiệp nhà nước.

Duy ‘ý chí’

Đại biểu Quốc hội Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ, nói mô hình phát triển của Việt Nam cũng góp phần tạo ra các vấn đề như Vinashin và Vinalines.

Ông Kiêm nói với báo Sài Gòn Giải Phóng:

“Ở các nước, tập đoàn phát triển tự nguyện, theo yêu cầu sản xuất kinh doanh, buộc các doanh nghiệp phải sát nhập với nhau để thành tập đoàn.

“Còn chúng ta phát triển tập đoàn dường như theo ý chí, chứ không phải thực tế đòi hỏi.

“Do đó chúng ta phải gánh hậu quả như việc các tập đoàn sử dụng vốn bừa bãi, trình độ quản lý yếu kém, quản lý nhỏ còn chưa được nay đã phải quản lý lớn, công nghệ què quặt, rồi khả năng quản trị hạn chế, khiến kinh doanh không hiệu quả.”

Báo Sài Gòn Giải Phóng cũng nói tổng số vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước lên tới 310.000 tỷ đồng (khoảng hơn 15 tỷ đô) trong giai đoạn 2006-2010 nhưng “không có chương trình giám sát” lượng vốn đầu tư này.

@bbc