Nhạc sỹ Lê Trạch Lựu và bài hát “Em Tôi”

Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu - Paris 2009

Tháng 05/1948 – Năm 1948 là năm tôi đi trại hè Sầm Sơn, đi với đoàn Hướng Đạo, cùng nhiều đoàn khác, tập trung tại sân ga Hà nội. Tôi thoáng thấy một cô gái xinh xinh, dáng người phong nhã, có đôi mắt đẹp tuyệt vời. Không hiểu sao tôi thấy tôi như choáng váng, má tôi nóng bừng như lên cơn sốt…

lần đầu tiên tôi thấy tôi có cái cảm giác lạ lùng này. Nhà đoàn tôi « đóng trại » to lớn, rộng rãi, đó là những biệt thự nghỉ mát của bọn Pháp thuộc điạ bỏ lại, trước nhà là bãi biển mênh mông, sau nhà có một cái giếng. Trưa nào tôi cũng thấy cô gái ấy, đội nón, dưới nắng trang trang rũ áo, tôi ngồi bên cửa sổ nhìn cô ta. Thỉnh thoảng cô nàng ngửng đầu lên, vành nón che đôi mắt, nhưng tôi biết là cô ta đang nhìn tôi. Thú thật, tim tôi đập thình thình. Chao ơi, yêu đương là như vậy hay sao? Đây là một rung động đầu tiên, nào đâu tôi có biết cảm giác này từ thuở ra đời.
Về Hà nội tôi tìm nhà cô ta, vì có duyên nên tìm được ngay, cô ta ở gần nhà tôi. Bây giờ ta phải tìm biết tên cô ta nữa! Chiều nào tôi cũng đi qua nhà cô ta, để nhìn vào nhà, tìm lại đôi mắt đẹp. Tôi thấy có nhiều cậu trai cỡ bằng tuổi tôi đi qua đi lại trước cửa nhà, như tôi. Lúc đó tôi cũng thấy hơi hơi lo… sợ mất !
Nhưng may cho tôi, hồi ấy có một chú bé đi theo tôi hoài, hỏi ra là chú Mỹ, em cô Phượng. Trời ơi là trời, đất ơi là đất! Chúng tôi đi chơi với nhau. Một hôm, tôi viết một lá thư và mạnh dạn tôi hăng hái ra đi, nhưng chiều hôm đó tôi không thấy cô ta ra đứng ngoài cửa hóng mát. Rồi chiều hôm sau, chiều sau nữa. Thế rồi một chiều nào đó, tôi lại thấy cô ta đứng rũ tóc bên thềm.Tìm đủ nghị lực, tôi sán gần cô ta, tay đưa lá thư, miệng lắp bắp một câu: « Phượng… Phượng  cầm… cầm lấy cho… cho… tôi… tôi… lá thư này… » Rồi xong, tôi cắm đầu đi mất,  không dám quay lại, sợ nhìn thấy hoặc cô ta xé lá thư, hoặc quẳng xuống lề đường… tôi sẽ mắc cỡ …Để đỡ cho cái nặng nề đó, tôi tìm cách nói khéo với chú Mỹ, chú bằng lòng ngay. Thế là chú thành con chim xanh của tôi. Chiều nào chú cũng để một lá thư lên bàn. Bẩy tháng trời tôi viết đều đều, gần bẩy chục lá thư mà vẫn không thấy trả lời.Tôi đau khổ quá không biết cô ta có yêu tôi không, tại sao cô ta không trả lời tôi, dù thuận dù không…  Lúc bấy giờ tôi mới biết là tình yêu, thế nào là đợi chờ, là có nhiều đau khổ. Héo hon con người.
Thế rồi một hôm chú Mỹ tất tưởi chạy đến nhà tôi, đưa cho tôi một lá thư, hôm đó là một tuần trước ngày kháng chiến toàn quốc, tôi bồi hồi cầm lá thư, ở một góc có đề : Xin TRẠCH LỰU đừng giận KIM PHƯỢNG mà xé lá thư này…, tôi mở ra, đọc từng hàng chữ đều đều, tròn tròn, vuông vắn. Phượng nói yêu tôi từ ngay lúc đầu… nhưng muốn thử lòng tôi để xem tôi có phải là người đứng đắn rồi nói rằng ngày mai Phượng đi tản cư… ở Hà Ðông, cách làng tôi mấy làng… Tôi bàng hoàng như tỉnh một giấc mơ lâu dài chờ đợi từ bao nhiêu giờ, bao nhiêu phút. Thế là hai hôm sau, tôi đi bộ từ Hà nội qua làng tôi tới làng tạm trú của gia đình nàng, chúng tôi đi chơi dọc dòng sông Nhuệ cùng chú Mỹ, mẹ của Phượng, bà cụ nhìn chúng tôi âu yếm từ đằng xa … đi chơi cùng nhau hết cả buổi chiều, tôi không dám cầm tay Phượng, tôi ân hận tới bây giờ. Tôi trở về thành, thế rồi chiến tranh, ba năm sau tôi sang Pháp. Không rõ Phượng ở đâu, tôi vẫn nhớ Phượng hoài. Một hôm trong trường cái nhớ nó làm tôi điên đầu… trong giờ Etude cuối lớp có anh chàng TRẦN BÍCH LAN NGUYÊN SA đang đọc Socrate hay sao, bên phải gần cửa sổ HOÀNG ANH TUẤN… không biết hắn làm gì, chắc đang làm thơ, tôi cầm cây đàn bấm bấm… hai ngày sau thành bài EM TÔI… cả nhạc lẫn lời. Chủ nhật ra Paris, đường Volontaires, sau bữa cơm trưa, quây quần với nhau, trong đó có Anh Tuấn, Thi Liên, Thoa em gái Nguyên Sa về sau lấy Trần đình Hòa, Bội Liên đã nhận được bài tôi gửi tới trường, hồi đó cô ta có yêu tôi, nhưng tôi tránh vì cô ta con nhà giầu… , Bội Liên dạo nhac trên mấy phím ngà… Nhạc EM TÔI vang lên khắp cả căn phòng, tôi tê tái nghe nhạc tôi, tôi thấy là lạ, chưa quen… vì mỗi lần tôi đã nghe trong tôi hay nghe cây đàn bên tôi nói với tôi, bây giờ những ngón tay ngà chạy qua phím đàn đến với tôi, tôi như ngỡ ngàng đi vào cơn mê…Thế rồi tôi chép lại nhạc và lời trên trang giấy học trò, trên những giòng như đã kẻ nhạc, tôi gửi tới nhà xuất bản TINH HOA…Những tháng năm qua…
KHI «EM TÔI»  ĐƯỢC NỔI TIẾNG , TÔI KHÔNG ĐƯỢC SỐNG CÙNG VỚI THỜI ĐẠI ĐÓ VÌ TÔI Ở XA , TÔI KHÔNG ĐƯỢC NHÌN NHẬN RÕ RÀNG THẾ NÀO LÀ MỘT BẢN HÁT ĐƯỢC NGƯỜI ĐỜI YÊU CHUỘNG… TRAI HAY GÁI, AI AI CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH CÓ MỘT NGƯỜI YÊU , HAY MÌNH ĐƯỢC YÊU , HAY MÌNH TƯỞNG TƯỢNG CHÍNH MÌNH LÀ CÔ GÁI ẤY , CÒN  CẬU TRAI ĐƯỢC YÊU CÔ GÁI DỊU DÀNG, THƠ NGÂY, ÂU YẾM , MƠ MÀNG CHO NÊN AI AI CŨNG HÁT… CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH… CŨNG CẦM LẤY CÂY ĐÀN…
Rồi một hôm tôi tìm ra điạ chỉ của Phượng tôi viết về cho chú Mỹ, Mỹ trả lời tôi:« Em nhận được thư anh, thế là anh vẫn mạnh, chị Phượng đợi anh trong một năm dài, thấy anh không về, tưởng anh chết, rồi ba năm sau chị Phượng để tang anh. Nhiều người đến hỏi chị, chị chỉ lắc đầu. Chị vẫn đợi anh, nhưng hôm qua chị Phượng đi lấy chồng, chị đã 26 tuổi rồi, ngày ngày thầy me thúc dục. »Thế là tôi cắt đứt, để Phượng đi lấy chồng cho êm thấm, có bổn phận với chồng với con. Tôi không muốn ám ảnh Phượng nữa để cho nàng yên phận.Sáu chục năm rồi vẫn nhớ em,Nhớ ai rũ tóc đứng bên thềm, Nhớ người giặt áo bên bờ giếng,Nhớ nhiều, nhớ mãi, mãi không quên…Sáu chục năm sau, tôi được biết tin một người bạn cùng trường năm xưa, anh Nguyễn Thiệu Giang viết cùng một tờ báo với tôi hồi đó cùng Thanh Nam, tôi có nhờ anh ta đến căn nhà cũ, anh nói Phượng không còn ở đấy nữa. Nhưng có cho tôi số phone, tôi gọi Phượng, đầu giây Phượng trả lời, tôi nói là tôi, cô ta nhắc đi, nhắc lại ba lần, anh LÊ TRẠCH LỰU hả, anh LÊ TRẠCH LỰU hả, như không tin là có thật, khi tôi bảo là tôi thì cô ta òa ra khóc.Nói chuyện cùng nhau hơn nửa tiếng, sau những lúc ân cần hỏi han. Phượng có nói, anh ấy có theo đuổi Phượng trong bốn năm trời, Phượng bảo Phượng có người, anh ta cứ đeo đẳng, Phượng có nói với anh ấy chuyện Phượng và anh. Anh ta chịu là trong lòng Phượng có một người. Tôi xin thành thật cảm ơn Phượng, tình yêu Phượng cho tôi. những năm đợi chờ, đau khổ. Một lúc sau tôi hỏi Phượng: «Thế Phượng còn giữ mấy lá thư ấy không? » Tôi muốn tìm hiểu văn thời 16 tôi viết ra sao chắc là văn lủng củng lắm. Phượng trả lời tôi:« Em để vào trong một cái hộp, nó đi theo em tất cả mọi nơi, trong đó có cả tập ảnh chụp hồi đó, nhưng chồng em thấy lúc nào em cũng buồn, nói với em nên giấu nó đi một chỗ, khi nào vui thì hãy mở ra. Thế là ông ta bỏ vào đâu không rõ, mấy năm sau ông ta mất, tìm kiếm khắp nhà không ra. Em chỉ nhớ anh viết dài lắm… viết dài lắm… Hôm nọ em muốn tìm cái hình anh hồi đó, mà không thấy đâu. Tủi thân, em lại ngồi khóc, may rằng con, cháu em bữa đó tụi nó không có nhà…
Tháng mười năm 2009

Xin mời thưởng thức bản nhạc EM TÔI của tác giả qua giọng hát Quang Dũng

Bà Bùi Hằng kể chuyện sau khi ra trại

Bà Hằng là nhân vật được Hoa Kỳ và các tổ chức nhân quyền quan tâm

Bà Bùi Thị Minh Hằng, người bị chính quyền Hà Nội đưa vào Trại giáo dục Thanh Hà vì tội gây rối trật tự công cộng, bác bỏ tin tức cho rằng bà được thả vì làm đơn xin nhà nước khoan hồng.

Bà đã được chính quyền trả tự do và về đến nhà chiều Chủ nhật ngày 29/4.

Lý do bà được thả, theo báo An ninh Thủ đô một ngày trước đó, là để thực hiện “chính sách khoan hồng của Nhà nước” nhân kỷ niệm ngày 30/4.

Trong phỏng vấn với BBC từ Vũng Tàu ngày thứ Ba 1/5, bà cho hay năm tháng trong trại Thanh Hà là ‘khoảng thời gian hãi hùng’.

Bùi Thị Minh Hằng: Thực tế đó là một khoảng thời gian rất hãi hùng đối với tôi, kể ra thì nó dài vô cùng. Nhưng phải nói một điều rằng tôi xác định tôi không có tội.

Tôi vẫn tin vào pháp luật cần phải có trong một quốc gia, nhưng quả thật thời gian mà họ giam giữ tôi một cách trái phép cho đến lúc họ thả ra thì tôi mới thấy họ không làm theo luật pháp.

Việc họ thả tôi ra hôm vừa rồi thì ngay đến giờ phút cuối cùng họ vẫn đối xử với tôi hết sức nhẫn tâm.

BBC: Vậy bà được thả ra theo đơn xin khoan hồng của nhà nước?

Không đúng. Tôi nhận được Quyết định miễn thời gian chấp hành còn lại. Gần một tháng trước đó, họ vận động tôi viết đơn xin khoan hồng.

Tôi trả lời là tôi không có tội gì mà viết đơn xin khoan hồng cả. Trong những lá đơn tôi gửi chỉ có đơn khiếu nại và tố cáo thôi.

Tôi khiếu nại Quyết định của UBND thành phố Hà Nội và tôi tố cáo những hành xử sai trái pháp luật trong việc bắt cóc tôi từ Sài Gòn đưa ra và những cư xử đến mức độ tôi phải hủy hoại thân thể và phải nhịn ăn vài ngày trong trại.

Sau đó, họ tiếp tục vận động là do cơ thể tôi quá yếu, vì thời gian tôi tuyệt thực chính thức trong đó chiếm gần hết thời gian tôi ở cơ sở nên tôi sút cân nhiều quá

Tôi cho rằng họ không coi trọng tính mạng của tôi. Mặc dù tôi tuyệt thực rất nhiều lần, nhưng họ không có động tĩnh gì.

Đến khi biết rằng từ bên ngoài, sức đấu tranh của quần chúng rất cao, cộng với không chịu được cách hành xử của họ, ở trong đó tôi đã một lần rạch chân rạch tay, do vậy họ bắt đầu có động thái.

Tuy nhiên, đây không phải là những động thái sửa sai mà là vận động tôi làm đơn xin khoan hồng.

Sau khi tôi không chấp nhận làm đơn xin khoan hồng, họ vận động tôi làm đơn xin đi chữa bệnh.

Rất nhiều đơn khiếu nại, đơn từ tố cáo tôi đã làm trong thời gian ở trong trại nhưng tôi cho rằng có lẽ họ không gửi những đơn từ đó của tôi đi đâu cả.

Vì biết tôi hay làm đơn từ, cho nên khi vào trong trại họ thu giữ hết giấy tờ, sách bút. Và cũng vì vấn đề này mà giữa tôi và cơ sở giam giữ tôi đã xảy ra rất nhiều lần đối đầu.

Tôi cũng làm đơn tố cáo việc quản giáo thu giữ giấy tờ không cho tôi viết vì đây không phải là những việc bị cấm đoán theo quy định.

BBC: Có nhiều bài viết trên báo chí chính thống về bà. Vậy bà có đọc được những bài viết đó không?

Có, tôi có đọc được những bài viết đó.

Trong chỗ chúng tôi ở thì có TV và họ nói là cho đọc báo Pháp luật, nhưng thực tế họ không bao giờ cho chúng tôi đọc một loại báo gì.

Bà Bùi Thị Minh Hằng

Bà Bùi Thị Minh Hằng được biết đến qua việc xuống đường chống Trung Quốc năm 2011

Nhưng khi có những sự kiện như thế, cách họ thông tin là các cán bộ, quản giáo cho những trại viên gần gũi với cán bộ mang vào như một cách truyền tải đến tôi.

Họ gần như dàn xếp một lịch trình để cho tôi và trại viên trong trại được xem những sự kiện như thế.

Gia đình

BBC: Nhiều bài báo đã trích dẫn nhận xét của một số ‘người thân’ của bà, vậy xin bà cho biết nhận xét của mình?

Tôi chưa thể một lúc mà nói hết được. Nhưng tôi tin rằng bằng những hành xử không chính danh của chính quyền thì người dân sẽ tự phân tích điều đó.

Tôi rất tin tưởng vào chính nghĩa. Tôi đã viết ra thành những bài thơ rất đau xót trong những ngày tôi ở trong tù thông qua những lá thư gửi cho con tôi.

Từ những khổ đau như thế, tôi biết phải làm gì và làm gì nhiều hơn nữa để xã hội không còn những cảnh như gia đình tôi, không còn những nỗi đau như của con trai tôi trong những ngày tháng phải bỏ học đi nuôi tôi.

Tôi đã dặn con tôi là “một kẻ làm chó thì ta phải chịu khó để làm người”.

Cho phép tôi không nói sâu hơn về những gì thuộc về cá nhân tôi vì những điều đó tôi đã chịu đựng trong rất nhiều năm qua. Đó là điều mà tôi phải rời xa gia đình để đi tìm cuộc sống ở nơi khác trong cảnh mẹ góa con côi.

Đó là những nỗi đau mà tôi không bao giờ muốn một lần trong đời bởi vì chọn bạn bè thì chúng ta chọn được, người này không tốt ta chọn người khác ta chơi, nhưng không ai chọn được nơi mình sinh ra.

‘Không phải chính trị gia’

BBC: Nhưng xin bà cho biết ý kiến riêng của bà trước sự tin cậy đằng sau những bài báo đó?

Tôi chưa nói đến độ tin cậy mà tôi nói đến độ bỉ ổi bởi vì bản thân tôi không phải là một chính trị gia cũng không phải là nhân vật trong giới kinh tế chính trị ở Việt Nam để họ làm điều đó nhắm vào tôi.

Tôi chỉ là một người rất bình thường từ những áp bức bất công trong xã hội. Những nền tảng duy nhất để chúng tôi đấu tranh là quyền của một người dân trong xã hội có luật pháp, có tôn ti trật tự.

Nhưng họ đã dùng những điều đó để trả thù tôi một cách điên cuồng đến mức tôi cho rằng họ lú lẫn. Đến bây giờ tôi nghĩ rằng họ biết là đã bị phản tác dụng. Bởi vì, từ hai hôm nay trở về đây, rất nhiều người dân từ Sài Gòn, Biên Hoà, Bà Rịa và những người xung quanh đây đến với tôi bằng tình cảm.

Có những anh xe ôm chỉ có mấy trái dừa, những lẵng hoa. Tôi tin là người dân bây giờ đã rất trưởng thành và vững vàng.

‘Sẽ làm sáng tỏ’

BBC: Có nguồn tin cho biết bà có ý định tự vẫn?

Tôi từng có quyết định tự vẫn vì những bức xúc trước hành xử sai trái của chính quyền.

Nhưng trong những cuộc biểu tình tôi đi với bạn bè và chứng kiến cảnh họ đàn áp, bản thân tôi xuất phát là một dân oan, tôi từng nói rằng tôi sẽ tự thiêu nếu nhà nước này đối xử với dân như thế.

Cho đến giờ phút này, tôi đang dồn tâm huyết để viết lá thư cho chủ tịch nước và tổng bí thư rằng người dân trong chế độ hiện nay bị quá nhiều áp bức và chịu quá nhiều bất công đến mức không thể chịu đựng nổi.

Và nếu nhà nước không có được những động thái gần dân, vì dân, hoặc khắc phục những điều này thì tôi sẽ hiến tấm thân của tôi cho dân oan nhưng duy nhất tôi chỉ giữ ý định chọn cái chết là tự thiêu. Ngoài ra, nếu như có bất cứ sự kiện gì khác xảy đến với tôi thì đấy là sự tấn công từ bên ngoài.

BBC: Xin bà cho biết ý định của bà trong thời gian tới?

Tôi sẽ dành thời gian nghỉ ngơi trong vòng 10-15 ngày để lấy lại sức khoẻ vì bản thân tôi đã sút trên 15 kg từ lúc vào trại đến lúc về, cộng với rất nhiều vấn đề xảy đến gia đình và con cái tôi.

Hiện nay, tôi vẫn còn một cháu phải bỏ học giữa chừng để đi nuôi mẹ bị bắt. Trước mắt tôi khắc phục những việc của cá nhân tôi.

Sau khi ổn định, việc đầu tiên là tôi sẽ cương quyết làm sáng tỏ về sự bắt giữ oan sai và những hành xử đối với tôi trong thời gian bị chính quyền giam giữ.

@bbc

 

Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài

Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn

Ông Huỳnh Nhật Hải (phải) và ông Huỳnh Nhật Tấn (trái)
 pro&contra: Hai anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946, là những người, vào cuối năm 1988, đã cùng nhau tự ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đồng thời từ bỏ luôn những chức vụ đang đảm nhiệm kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền lực, quyền lợi: Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên (đối với ông Huỳnh Nhật Hải) và Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết (đối với ông Huỳnh Nhật Tấn). Điều gì đã khiến hai đảng viên cộng sản đầy tiềm năng của một gia đình có truyền thống cách mạng từ trước năm 1945 lại có quyết định chia tay cách mạng khi sự nghiệp “cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước”đã thành công hoàn toàn?
 Phạm Hồng Sơn: Hai ông có thể cho biết con đường nào đã đưa các ông đến với ĐCSVN?
 Huỳnh Nhật Hải: Có thể nói hai anh em chúng tôi đã được “nhuộm đỏ” từ bé. Chúng tôi đã có thiện cảm, tinh thần ủng hộ, và làm những việc có lợi cho những tổ chức của cách mạng như Việt Minh hay Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi còn rất nhỏ tuổi. Vì ba má tôi là một gia đình tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ trước năm 1945. Ba tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt vào năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi lúc đó của ĐCSVN). Hai anh trai tôi là những người đi tập kết ra Bắc sau năm 1954.
 Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói là ngay từ nhỏ, mở mắt ra là chúng tôi đã được nghe, được thấy, được sống trong tinh thần của cách mạng, tôi cứ tạm gọi là “cách mạng” đi. Đó là những năm thơ ấu của chúng tôi ở trong “vùng tự do” liên khu 5, khi gia đình chúng tôi phải tránh sự truy lùng của Pháp từ khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả thời gian sau đó khi ba má tôi trở lại Đà Lạt (sau Hiệp định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ ủng hộ bí mật cho ĐCSVN và Mặt trận dưới hình thức là một gia đình tư sản.
 Phạm Hồng Sơn: Hai ông có nhớ đã có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia đình không?
Huỳnh Nhật Tấn: Có, những trí thức như giáo sư, nhà văn, nhạc sĩ có tên tuổi lúc đó mà đi với Việt Minh hay Mặt trận cũng gây cho chúng tôi sự lôi cuốn, cảm hứng âm thầm nhưng rất lớn. Đặc biệt là qua quan sát, tiếp xúc với những cán bộ hoạt động bí mật đã sống ở nhà tôi thì hai anh em tôi thấy đó là những con người rất đáng khâm phục, họ vừa có tinh thần kỷ luật, chịu đựng, hy sinh rất lớn vừa có những lý tưởng rất cao đẹp là quyết giành lại độc lập cho đất nước và tự do cho dân tộc.
Huỳnh Nhật Hải: Một yếu tố nữa cũng làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt trận là sự xuất hiện của quân đội Mỹ tại miền Nam. Sự xuất hiện đó làm cho những người như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ quyền dân tộc. Chúng tôi cảm thấy là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và cần phải chống lại họ và chính quyền thân Mỹ tại miền Nam.
Phạm Hồng Sơn: Thời gian từ khi Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới năm 1975 các ông làm những việc gì để ủng hộ “cách mạng”?
Huỳnh Nhật Hải: Công việc của cả hai anh em chúng tôi đều cùng có hai giai đoạn khác nhau, trước và sau khi chúng tôi “nhẩy núi”, tức là phải bỏ gia đình để vào tận căn cứ trong rừng sâu để hoạt động. Tôi “nhảy núi” vào đúng mồng 3 Tết Mậu Thân 1968 còn em tôi, Huỳnh Nhật Tấn, “nhảy núi” trước đó vài tháng khi đã bị lộ.
Huỳnh Nhật Tấn: Trước khi “nhảy núi”, anh em chúng tôi làm công tác liên lạc, vận động trong giới thanh niên, học sinh, sinh viên tại Đà Lạt để thành lập các nhóm, tổ chức, đoàn thể hoặc in, tán phát truyền đơn hay khẩu hiệu đấu tranh cho Mặt trận.
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi “nhảy núi”, hai anh em chúng tôi, mỗi người một nơi, nhưng đều ở bộ phận công tác phong trào thanh niên học sinh, sinh viên. Anh em chúng tôi thường phải đi vào những “vùng lõm“ (vùng dân cư mà ban ngày do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát còn ban đêm thuộc về lực lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp nhận hay vận động ủng hộ về vật chất, tinh thần cho Mặt trận.
Phạm Hồng Sơn: Những công việc đó chắc phải rất mạo hiểm và hết sức khó khăn?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng thế, chúng tôi phải rất kiên trì, khôn khéo trong công tác vận động và không phải lần vận động nào cũng thành công. Cả hai anh em chúng tôi cũng đã bị phục kích hoặc chạm trán với lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, nhưng rất may cả hai chỉ bị thương nhẹ trong một, hai lần.
Phạm Hồng Sơn: Sau 30/04/1975 các ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch UBND Thành phố hoặc Phó Giám đốc Trường Đảng?
Huỳnh Nhật Hải: Không phải như thế. Sau 30/04/1975 tôi tiếp tục công tác ở Thành đoàn, sau đó mới chuyển qua công tác chính quyền. Năm 1977 tôi được kết nạp Đảng. Năm 1979 làm Chủ tịch khu phố I Thành phố Đà Lạt, rồi sau khi đi học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một năm đến năm 1981 là tôi trở thành Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Lạt, là Thành ủy viên.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi thì được kết nạp Đảng từ năm 1972 sau khi “nhảy núi”. Ngay tháng 10/1975 tôi đã được chọn vào số cán bộ đầu tiên gửi ra Bắc học ở Trường Tuyên huấn Trung ương ở khu Cầu Giấy, Hà Nội trong 3 năm rồi trở về giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng. Và sau lần ra học tiếp ở Hà Nội tại Trường Tuyên Huấn Trung Ương trong 03 năm nữa, đến năm 1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó Giám đốc trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, đồng thời được cơ cấu vào cấp Tỉnh ủy, là Tỉnh ủy viên dự khuyết.
Phạm Hồng Sơn: Một cách ngắn gọn, lý do gì đã khiến hai ông gần như đồng thời quyết định từ bỏ Đảng kiêm các chức vụ đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể lãnh đạo đưa đất nước đạt được những điều tốt đẹp như Đảng thường nói.”
Huỳnh Nhật Hải: Còn trong lá đơn của tôi viết sau ông em tôi một vài tháng, tôi nhớ đã viết là: “Tôi không còn động cơ để phấn đấu cho mục tiêu và lý tưởng của Đảng nữa.” Nhưng thực sự trong thâm tâm thì cũng giống như ông em tôi đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN nữa.
Phạm Hồng Sơn: Quá trình đi đến sự bất tín đó diễn ra như thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Đó là một quãng thời gian kéo dài khoảng 5-7 năm, thông qua những quan sát, tìm hiểu, trao đổi, bàn bạc và trằn trọc từ mỗi bản thân và gần như chỉ giữa hai anh em chúng tôi.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là dựa vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên thực tế hơn là từ vấn đề lý luận.
Phạm Hồng Sơn: Những “thực tế” nào quan trọng nhất khiến hai ông nhận thức lại ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Tấn: Đó chính là những chính sách về quản lý xã hội, điều hành kinh tế và việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của người dân của ĐCSVN. Về quản lý xã hội, ĐCSVN đã không quản lý bằng pháp luật mà bằng sự tùy tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ thị, ý muốn từ lãnh đạo Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa đi “học tập cải tạo”, thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên pháp luật hay xét xử của tòa án. Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi thấy những chính sách rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà Lạt phải sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều mì[i] mà không cần biết khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen canh tác của người dân hoặc việc giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa vào chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự gắn bó với Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt Nam Cộng hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng cho một số viên chức chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt quan điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân, biểu tình, bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và không tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Phạm Hồng Sơn: Các ông đã quen biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay ông Mai Thái Lĩnh,…những cư dân tại Đà Lạt lúc đó chưa?
Huỳnh Nhật Hải: Chúng tôi chưa biết ông Hà Sĩ Phu, còn ông Mai Thái Lĩnh thì chúng tôi đã biết nhau từ hồi cùng “nhảy núi” nhưng sau 30/04/1975 chúng tôi gần như chưa trao đổi hay bàn luận gì với nhau cả. Anh em chúng tôi trước khi quyết định bỏ về đã nói với nhau là “chúng ta đi làm cách mạng không phải để xây dựng nên một nhà nước chuyên chính độc tài như thế này.”
Phạm Hồng Sơn: Gia đình, những người thân và bạn bè đồng chí của các ông có phản ứng gì trước quyết định đó?
Huỳnh Nhật Hải: Lúc đó ba má tôi đều đã qua đời nhưng chúng tôi tin rằng nếu còn sống ba má tôi cũng ủng hộ việc từ giã ĐCSVN của chúng tôi. Hai bà xã của chúng tôi ủng hộ hoàn toàn quyết định về nhà tự làm ăn của chúng tôi.
Phạm Hồng Sơn: Thế còn hai anh trai, những người đã đi tập kết sau 1954, và những đồng chí thân quen của hai ông?
Huỳnh Nhật Tấn: Anh trai cả của chúng tôi thì gần như không có ý kiến gì, còn người anh trai thứ hai thì không đồng ý. Còn những đảng viên đồng sự khác và các cấp lãnh đạo lúc đó hoàn toàn ngạc nhiên, gần như tất cả mọi người đều khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người lúc đó đã nói với tôi là nếu về thì cuộc sống sẽ rất khó khăn, nhưng tôi xác định trong lòng là trước đây khó khăn nguy hiểm như thế mà còn chịu được thì lẽ nào bây giờ lại không.
Phạm Hồng Sơn: Khi “trằn trọc” để đi đến quyết định cuối cùng, hình ảnh hay tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh có vấn vương trong “trằn trọc” đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Có. Chúng tôi lúc đó cũng thấy cần phải xem lại cả ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ, người sáng lập ra ĐCSVN.
Phạm Hồng Sơn: Các ông thấy thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi cùng tìm hiểu, trao đổi, bàn luận chúng tôi nhận thấy tình trạng mất tự do, phi dân chủ hay có thể nói là cuộc sống kìm kẹp, đau thương của nhân dân, của giới trí thức sau chiến thắng 30/04/1975 ở miền Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên tình trạng ở miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí Minh vẫn hoàn toàn ở trên đỉnh cao quyền lực.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi đã từng tự hỏi là mục tiêu sâu xa của ông Hồ Chí Minh là gì? Với những gì lịch sử đã diễn ra khi ông Hồ Chí Minh còn sống thì tôi thấy mục tiêu của ông Hồ Chí Minh vì quyền lực là chính, còn mục tiêu độc lập cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân tộc, cho xã hội Việt Nam đã bị ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai mục tiêu tốt đẹp đó chỉ là những ngọn cờ để ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức cho mục đích giành quyền lực cho ĐCSVN. Thực tế chính quyền dưới thời ông Hồ Chí Minh đã biểu hiện đi ngược lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp đó, độc lập cho dân tộc và tự do, dân chủ cho nhân dân.
Phạm Hồng Sơn: Vâng, về vấn đề tự do, dân chủ cho nhân dân thì đã rõ, nhưng còn về độc lập dân tộc, xin ông nói rõ thêm?
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói ông Hồ Chí Minh đã đưa đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc, đô hộ của người Pháp nhưng lại để đất nước trở lại sự phụ thuộc, khống chế và thôn tính của Trung Quốc cộng sản. Nếu không có sự đồng ý, chủ kiến ngoại giao của ông Hồ Chí Minh thì không thể có tình hữu nghị Việt-Trung như “môi với răng” và cũng không thể có Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể nói ông Hồ Chí Minh đã vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm lăng, thôn tính của Trung Quốc cộng sản đối với Việt Nam như chúng ta đang chứng kiến.
Phạm Hồng Sơn: Liệu có công bằng không khi tình trạng mất độc lập, mất chủ quyền hiện nay qui hết cho Hồ Chí Minh?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng là tình trạng lâm nguy của đất nước hiện nay không thể qui hết cho ông Hồ Chí Minh. Nhưng bất kỳ một lãnh tụ, một nhà sáng lập của một đảng, một tổ chức chính trị nào cũng đều có ảnh hưởng rất căn bản tới tầm nhìn, hành động của các thế hệ kế tiếp, dù xấu hay tốt. Tôi nhớ ngay trong văn kiện, khẩu hiệu của ĐCSVN vẫn luôn khẳng định ông Hồ Chí Minh là người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, rèn luyện “Đảng ta”, tức là ông Hồ Chí Minh đã là kiến trúc sư cho mọi chính sách, đường lối của ĐCSVN cũng như thể chế, cung cách quản lý xã hội của ĐCSVN.
Huỳnh Nhật Hải: Đúng như thế, theo tôi, mặc dù ông Hồ Chí Minh đã mất rồi nhưng tư tưởng, đường lối chính trị của ông ấy vẫn được tiếp tục kế thừa trong ĐCSVN. Không phải ngẫu nhiên mà ĐCSVN hiện nay vẫn hô hào học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phạm Hồng Sơn: Nhưng nhiều người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học theo?
Huỳnh Nhật Hải: Đúng, rất tốt đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ vào lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đã đề ra. Và đúng là ĐSCVN hiện nay cũng đang thực hiện đúng như thế, các khẩu hiệu, lời nói, mục tiêu của họ hiện nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại – cũng như ông Hồ Chí Minh.
Huỳnh Nhật Tấn: Nếu chỉ căn cứ vào truyền thống nhân ái của người Việt Nam thông thường thôi thì cũng thấy đáng lý ra, với cương vị là người có quyền hành cao nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra lịnh không được giết hoặc hãm hại ân nhân của mình như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Nămvà nhiều người khác trong Cải cách Ruộng đất. Hoặc những vụ bắt bớ, thanh trừng các đồng sự, các ân nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét xử thì ông Hồ Chí Minh không thể không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ Chí Minh thực sự là người vì nước vì dân thì sau khi lên nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải làm là phải để nhân dân và giới trí thức có nhiều tự do hơn thời thực dân Pháp chớ.
Phạm Hồng Sơn: Nếu được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải bình tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ có ủng hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không thể chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt cao hơn vấn đề dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự do đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.
Phạm Hồng Sơn: Ngày 30/04/1975 các ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?
Huỳnh Nhật Tấn: Lúc đó tôi đang ở Đà Lạt. Tôi đã trở về Đà Lạt từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến thắng.
Huỳnh Nhật Hải: Tôi về Đà Lạt sau ông em tôi một ngày, ngày 04/04/1975. Cảm xúc của tôi là sung sướng vô cùng, nhất là khi gặp lại má tôi – má đã tưởng tôi hy sinh từ năm 1971 và đã đưa ảnh tôi lên bàn thờ.
Phạm Hồng Sơn: Dịp 30/04 hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của các ông ra sao trong những ngày này?
Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái bất hạnh, đau khổ như ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày quá buồn. Cái chiến thắng 30/04 chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện cho nhân dân, đất nước và lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Phạm Hồng Sơn: Nếu bây giờ vô tình hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông muốn nói là gì?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
Phạm Hồng Sơn: Xin trân trọng cảm ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn.
 Phạm Hồng Sơn
© 2012 pro&contra

Cưỡng chế đất Văn Giang – Sự cấu kết giữa đảng CS Việt Nam và các tập đoàn tư bản đỏ

Trần duy Huỳnh

Đất nước hiện nay là một canh bạc, trong đó những con bạc đỏ đen là đảng CS và các thế lực tập đoàn tư bản đỏ đang ra sức sát phạt dữ dội mà mỗi lệnh là những gì hiện diện trên đất nước này, từ con người, tài nguyên, môi trường, đất đai, biển đảo, v.v…. đến tất cả. Canh bạc đó vẫn sẽ còn tiếp tục cho tới khi nào mọi thứ vẫn còn nằm trong tay đảng.

PHẦN I 

Sự cưỡng chiếm đất ở Văn Giang, Hưng Yên vừa rồi thể hiện mối quan hệ phức tạp, chằng chịt giữa đảng, nhà nước CS VN và các tập đoàn tư bản đỏ hiện nay. Mối quan hệ này dẫn tới tình trạng giống như câu hỏi “con gà đẻ ra quả trứng?” hay “quả trứng đẻ ra con gà?”

Thoạt đầu mọi chuyện có vẻ dể hiểu, đảng CS cầm quyền, nhà nước quản lý. Nhà nước lập ra các tập đoàn kinh tế làm mũi nhọn trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Thế nhưng, khi các tập đoàn trở nên lớn mạnh, mọi việc dường như đã thay đổi ngược lại.
Sự thay đổi ngược lại là, thay vì bị quản lý bởi đảng và nhà nước, các tập đoàn kinh tế hiện nay dường như đang điều khiển đảng CS và nhà nước VN theo ý nó.
Bản thân mỗi tập đoàn kinh tế nhà nước, dù đứng chung hay riêng cũng bao gồm đầy đủ 3 yếu tố: đảng, nhà nước và tư bản (vốn nhân dân). Riêng các tập đoàn kinh tế tư nhân (vốn tư nhân) thì chịu sự chi phối của tất cả tác nhân trên, tức là đảng, nhà nước và các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Vì thế, mối quan hệ giữa đảng CS, nhà nước với các tập đoàn kinh tế trở nên một sự liên kết chặt chẽ, nương tựa, bao che nhau tạo ra những tập đoàn tư bản đỏ với “lợi nhuận” khổng lồ không ai có thể biết rõ được.
 Mặc dù ít người hiểu rõ những vòng xoáy ốc phức tạp trong mối quan hệ này, nhưng rõ ràng ai cũng biết sự liên kết đó được kết dính với nhau là vì TIỀN, và chỉ có TIỀN chứ không phải thứ gì khác.
QUYỀN tạo ra TIỀN và TIỀN lại tạo ra QUYỀN, và cứ thế tạo ra những vòng xoáy, vòng xoáy càng lớn, càng nguy hiểm cho xã hội. Trường hợp Năm Cam là một điển hình cho loại quan hệ này.
Mối quan hệ đó được sự cho phép bởi cơ chế cùng với sự thiếu minh bạch, lỏng lẻo của luật lệ, cho tới nay đã chứng tỏ rằng nó không tạo ra được những sản phẩm như xã hội mong ước mà tạo ra những cơn lốc cuốn hút mọi thứ trên đất nước vào lòng nó. Hãy tưởng tượng cơn bão xoáy giữa biển khơi đang cuốn hút mọi thứ chung quanh vào tâm điểm của nó, thì có thể hình dung ra mối quan hệ này.
Cơn bão xoáy này vét sạch mọi tài nguyên chung của đất nước để làm giàu riêng, làm cho tài nguyên bị kiệt quệ mà đất nước vẫn nghèo, điển hình như các vụ cưỡng chế đang xảy ra khắp nơi, các công trình khai thác dầu ở biển Đông, than ở Thái Nguyên và gần đây là dự án khai thác Bauxite ở Tây Nguyên. Nó cuốn hút mọi năng lực, tiềm năng của quốc gia để phục vụ cho nó, điển hình là làm giá trị lao động, cả chân tay lẫn trí óc, của người Việt Nam trở thành rẻ mạt.
Mối quan hệ tất cả chỉ vì tiền mà không vì phúc lợi xã của toàn dân đã làm các lãnh đạo đảng CS từ vị trí điều khiển dần dần trở thành bị điều khiển.
Hơn nữa, do các lãnh đạo đảng CS không bao giờ dám ra mặt công khai đầu tư vào các tập đoàn tư nhân vì điều này sẽ làm xấu đi uy tín chính trị của đảng, vì thế, để tăng sức mạnh tiền và quyền của mình, lãnh đạo đảng biến các tập đoàn, công ty tư nhân thành sân sau của họ. Chính từ đây, các tập đoàn tư bản này quay ngược lại điều khiển đảng và bộ máy nhà nước.
 PHẦN II 
 
Trở lại vụ cưỡng chiếm đất ở Văn Giang, Hưng Yên ngày 24/04/2012. Chi tiết của vụ việc có lẽ nhiều người đã biết, chỉ xin nêu lên những điểm sau đây.
Ecopark-Văn Giang là dự án đô thị mới, một dự án kinh doanh tư nhân, không phải khu công nghip, công ngh cao hay khu kinh tế, do một tập đoàn tư nhân làm chủ đầu tư. Xin đọc lại bài viết “Ecopark mở đường ‘Đông tiến’” đăng trên Vietstock ngày 07/05/2010 để thấy rằng việc chọn đất đai để đầu tư trước hết là do ước muốn lợi nhuận cao của nhà đầu tư.
Điều này không có gì là sai, chỉ sai ở điểm là dường như các ước muốn lợi nhuận đó luôn được đảng và nhà nước tuân theo, bất chấp ý nguyện của nhân dân hay nhu cầu bảo vệ quỹ đất cần thiết cho an toàn lương thực và phát triển nông nghiệp.
Việc sử dụng quá mức cần thiết lực lượng vũ trang trong việc cưỡng chế vừa qua, bất chấp dư luận trong nước  quốc tế, chưa kể đến những lần họp báo ổn định tư tưởng do chính quyền các cấp tổ chức, đã minh chứng cho sự “tuân thủ” của đảng và nhà nước như đã nói ở trên.
Hãy khoan nói đến Luật đất đai hay Luật cưỡng chế theo điều 40–Luật 2003 (thu hi đt đs dng vào mc đích phát trin kinh tế), câu hỏi được đặt ra là, tại sao phải dùng biện pháp hành chánh thay vì luật để giải quyết tranh chấp giữa lợi ích của một tập đoàn tư bản tư nhân với lợi ích nhân dân, dù cho nhân dân chỉ là một người?, mà biện pháp hành chánh ấy rốt cuộc, và luôn luôn, làm lợi cho nhà tư bản? 
Có người cho rằng vì người nông dân Văn Giang tham lam quá, đòi hỏi nhiều quá, thuyết phục nhiều rồi mà không được nên phải dùng đến biện pháp cưỡng chế. Vậy thử hỏi, nếu nhà đầu tư có quyền tham lam đòi hỏi lợi nhuận cao nhất cho họ thì tại sao người nông dân không thể “tham lam” đòi quyền lợi cao nhất của mình phải được bảo vệ? Hay bởi “thằng dân ngu quá lợn” nên không được có quyền gì?
Rõ ràng là sự thiếu minh bạch của chính quyền, sự nhúng tay của các cấp đảng, chính quyền VN trong việc tranh chấp quyền lợi giữa các tập đoàn tư bản và người nông dân, khiến bất cứ ai cũng có thể suy luận rằng, dứt khoát phải có điều gì đó đã xảy ra giữa nhà nước CS và các tập đoàn tư bản đỏ vì sau cuộc tranh chấp, kết quả bao giờ cũng là sự thiệt thòi cho nông dân. Ở đây xin mở ngoặc, tại các nước dân chủ tư bản, tuy là tư bản nhưng các tập đoàn tư bản ở đó không phải muốn làm gì thì làm.
Cũng xin nói thêm bài viết này không chống hay ủng hộ việc xây dựng khu đô thị Ecopark mà chỉ nêu lên mối quan hệ giữa đảng CS, nhà nước VN với các tập đoàn tư bản đỏ, và cách hành xử của các thế lực này đối với quyền lợi của người nông dân VN.
PHẦN III 
 Ngoài ra, một vấn đề cũng cần nêu lên là trong tình hình kinh tế nói chung và bất động sản hiện nay nói riêng, vậy thì lý do đằng sau của việc khuyến khích phát triển một dự án bất động sản với kinh phí dự trù rất lớn vào khoảng 8.2 tỷ USD là gì?
Diễn đàn bất động sản tổ chức tại hội trường Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) sáng 24/4/2012 đã diễn ra trong bầu không khí u ám, không thấy có một tia sáng nào ở cuối đường hầm cho thị trường này mặc dầu lãi suất giảm 2% còn 12%. Các nhà đầu tư đã bỏ chạy, vậy với dự án Ecopark này, ai là người bỏ vốn? và ai sẽ là người bỏ tiền ra mua bất động sản ở đây?
Ai là người sẽ bỏ vốn? mục đích bỏ vốn là gì? và khi nào thì dự án sẽ bắt đầu sinh lợi?
Chủ đầu tư ư? Không có nhà đầu tư nào dại dột tự đem vốn của mình đặt vào một canh bạc mà mình cũng không biết chắc ít nhất 60% sẽ thắng. Họ cũng có thể sẽ bỏ ra, nhưng với những điều kiện, hoàn cảnh mà chỉ có họ mới biết được.
Còn các tập đoàn kinh tế nhà nước thì trong thời gian qua luôn luôn bị tấn công và phê phán vì đầu tư dàn trải, đầu tư vào bất động sản và thị trường chứng khoán làm thất thoát hàng trăm ngàn tỷ đồng tiền của nhân dân. Hiện nay, các tập đoàn này còn đang thiếu vốn trầm trọng cho việc giữ vững hoạt động của mình, cho nên có thể rất ít khả năng bỏ vốn vào dự án này. Thí dụ, làm sao EVN có thể bỏ vốn trong khi nó đang chạy đôn chạy đáo kiếm tiền trả nợ cho PVN và khắc phục sự cố đập Sông Tranh 2 mà nó là chủ đầu tư?
Hay kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài? Vừa qua Standard and Poor’s đã hạ mức tín nhiệm tín dụng của Việt Nam từ “BB” xuống “BB-“. Ngoài ra, theo VNEconomy, ngày 29/4/2012, nhiều chủ đầu tư dự án FDI bất động sản tại Hà Nội đang tháo chạy. Như thế, khả năng đầu tư nước ngoài vào bất động sản là xa vời.
Như vậy khả năng bỏ vốn chỉ có thể là các ngân hàng thương mại con cưng và tập đoàn tư bản đỏ, sân sau của lãnh đạo đảng.
Trong thời gian qua, diễn biến phức tạp của nền kinh tế dẫn tới một số biện pháp hành chính về tái cấu trúc nền kinh tế và phân loại ngân hàng.
 Những vụ sát nhập M & A (Mergers and Acquisitions) này dường như diễn ra công khai, nhưng thật ra, đã có một số tập đoàn tư bản đỏ, ngân hàng (con cưng) biết trước điều đó để âm thầm chuẩn bị và chờ con mồi. Đây chính là sân sau của các lãnh tụ đảng, người trực tiếp ra quyết định và ký các chỉ thị về tái cấu trúc nền kinh tế vĩ mô. Những sân sau này hoạt động âm thầm, nữa kín nữa hở và đặc biệt là ít bị dòm ngó.
Sự sát nhập điển hình của 3 ngân hàng thương mại vừa qua là một thí dụ. Thí dụ nữa là việc phân biệt vàng miếng SJC và các loại vàng miếng khác, mặc dù hiện nay chưa áp dụng vì bị phản ứng ngược, cũng đã làm giá trị giữa vàng SJC và các loại vàng khác chênh lệch từ 700,000 đến hơn 1,000,000 đồng/lượng.
Ai là người hưởng lợi từ những quyết định này? Chính là lãnh đạo đảng, người ra quyết định và người được độc quyền cung cấp tin tức, để rồi sau đó chiếm hữu và thao túng thị trường vàng và tiền tệ.
Sự trợ giúp của lãnh đạo đảng CS và độc quyền thông tin vĩ mô của một số các ngân hàng thương mại và tập đoàn tư bản đỏ đã dẫn tới một số lượng tiền đồng VN (và đô) khổng lồ tập trung vào một ít ngân hàng thương mại và các tập đoàn kinh tế tư nhân. Quá trình thâu tóm toàn bộ nền kinh tế đang âm thầm diễn ra.
Tuy nhiên, thiên bất dung gian, tình hình kinh tế càng ngày càng kiệt quệ, hàng trăm ngàn doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản do thiếu vốn, lạm phát tăng, thất nghiệp tăng, tình trạng vỡ nợ đang diễn ra nơi này nơi khác. Hàng ngày, ngân hàng cử nhân viên xuống giám sát hoạt động của doanh nghiệp con nợ, ngân hàng lớn cử người xuống giám sát ngân hàng nhỏ.
Tất cả những vấn nạn này đã khiến đảng CS phải buộc các ngân hàng và các tập đoàn tư bản đỏ con cưng nhã tiền ra, nhưng ngược lại, các ngân hàng và bọn tư bản đỏ này cũng thúc ép đảng phải làm gì đó để chuyển đổi một số lượng tiền VN khổng lồ vô giá trị mà nó đang ôm như ôm bom nỗ chậm.
Vậy nếu góp vốn, các ngân hàng và các tập đoàn tư bản đỏ, sân sau của các lãnh tụ đảng sẽ đổi được gì?
Trước mắt là việc cưỡng chế và giao đất thành công tại Văn Giang. Thứ đến, mà điều này mới là quan trọng và chính vì nó mà có việc triệt để cưỡng chế Văn Giang để giao đất.
Hãy đọc một mẫu tin nhỏ từ bài báo “Giải tỏa điểm nóng tại dự án Ecopark”, báo Đầu Tư – Cơ quan của Bộ Kế hoạnh và Đầu tư đăng ngày 26/04/2012:
“…Theo đó, Vihajico được cp 499,07 ha đt thuc các xã Xuân Quan, Phng Công, Cu Cao (huyn Văn Giang) đ thc hin D án. Đi li, Vihajico thc hin D án Đường giao thông liên tnh Hà Ni – Hưng Yên, vi mc đu tư gn 1.500 t đng….”
Ngoài ra, hai tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và Cầu Giẽ – Ninh Bình băng ngang qua Hưng Yên sẽ được xây dựng với tổng kinh phí đầu tư hơn 3.372 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA, BT, BOT và các nguồn vốn khác.
Dự án Ecopark tiến hành cùng lúc những dự án phát triển giao thông chung quanh chính là cơ hội “đúng lúc” mà các ngân hàng thương mại và tập đoàn tư bản đỏ, sân sau của lãnh đạo đảng mong muốn.
Đây là cơ hội “chính đáng” để giải ngân vốn ODA từ WB và Nhật, cơ hội phát hành trái phiếu để xây dựng cơ sở hạ tầng rồi ưu tiên chia chác. Cơ hội giải ngân cho bất động sản và sau cùng, hoán đổi tiền VN thành ngoại tệ nặng rồi chuyển ra nước ngoài một cách hợp pháp.
Và ai là người sẽ mua trong tình hình hiện nay?
Có lẽ quan sát tình hình hàng ngàn, hàng chục ngàn bất động sản tại Hà Nội, Sài Gòn không bán được dù rất nhiều chiêu khuyến mãi, giảm giá thì sẽ có câu trả lời.
Với tình hình kinh tế hiện nay, ai cũng tiên đoán là thị trường BĐS sẽ đóng băng ít nhất là từ 3 đến 5 năm nữa. Trước mắt có lẽ chỉ thu được từ vốn đầu tư khoảng 20 triệu đô la của đại học Anh Quốc Việt Nam (British University Vietnam- BUV), một tỷ lệ quá nhỏ so với tổng số vốn đầu tư 8,2 tỷ USD.
 
KẾT LUẬN 
Năm 2003, dự án này không nghĩa lý gì nếu so với những dự án bất động sản ở phía tây Hà Nội, vì thế thay vì thuộc về tập đoàn nhà nước, nó lọt vào tay Vihajico JSC, một tập đoàn tư nhân chưa có thế lực vào lúc ấy.
Hiện nay, trong khi thị trường bất động sản cả nước đang giãy chết, các chủ dự án bất động sản đang cố gắng bán tống bán tháo các dự án, nhưng do một sự “tình cờ đúng lúc” của dự án Ecopark, chủ đầu tư Vihajico JSC được đẩy ra làm “anh hùng”: “anh hùng d án bt đng sn”.
Loại anh hùng giống như hàng vạn “anh hùng” trên đất nước này đã được đảng tung hô, tuyên truyền ầm ĩ rồi đẩy vào chỗ chết.
Trong vụ cưỡng chiếm đất cho dự án Ecopark vừa qua, người nông dân của ba xã thuộc huyện Văn Giang, kể cả những người chấp nhận nhận tiền bồi thường, những công an, bộ đội tham gia trong vụ cưỡng chế đó, những kẻ đang ra sức bảo vệ và tung hô đảng, tất cả đều là những con cờ rối trong tay đảng, đều là những nạn nhân của những âm mưu đen tối giữa đảng CS và các thế lực tư bản đỏ.
Đất nước hiện nay là một canh bạc, trong đó những con bạc đỏ đen là đảng CS và các thế lực tập đoàn tư bản đỏ đang ra sức sát phạt dữ dội mà mỗi lệnh là những gì hiện diện trên đất nước này, từ con người, tài nguyên, môi trường, đất đai, biển đảo, v.v…. đến tất cả.
Canh bạc đó vẫn sẽ còn tiếp tục cho tới khi nào mọi thứ vẫn còn nằm trong tay đảng.
 30/04/2012
 
@Danlambao