This slideshow requires JavaScript.
Day: 26/01/2012
Khoa học : Những lợi ích kỳ diệu của rượu vang đỏ
Tại sao các thầy thuốc lại đưa ra lời khuyên mọi người nên dùng rượu vang đỏ một cách hợp lý? Tại sao hàng triệu người trên hành tinh này vẫn ưa chuộng loại thức uống này, trong số đó có rất nhiều người là phụ nữ. Và tại sao trong những bữa tiệc long trọng, người ta vẫn dùng rượu vang đỏ như một thứ uống khai vị? Những thông tin sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ điều đó một cách sâu sắc.
Rượu vang đỏ được chiết xuất từ nhiều giống nho đỏ khác nhau. Nước ép từ thịt quả nho là thứ nước không màu. Màu của rượu phụ thuộc vào màu của vỏ quả nho và thời gian vỏ nho tiếp xúc với nước ép nho.
Rượu vang đỏ được nhiều người ưa chuộng vì nó có những hương vị đặc trưng. Đó là mùi nho khô, hay mùi dâu tây, mùi anh đào, mùi quả mâm xôi, mùi bánh mỳ nướng, mùi côca và mùi cam thảo… Và hơn hết, các thành phần trong rượu vang đỏ có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ sức khỏe và phòng chống bệnh tật. Theo một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp, rượu vang đỏ có 3 cơ chế tác dụng: Phòng chống ôxy hóa, giãn mạch và chống huyết khối.
Phòng chống lão hóa, kéo dài tuổi thọ
Các nhà nghiên cứu trường Đại học Y Harvard và Viện Lão hóa quốc gia Mỹ cho rằng, thành phần tự nhiên có trong rượu vang đỏ có thể giúp kéo dài tuổi thọ và ngăn cản các yếu tố nguy cơ bất lợi cho sức khỏe, do chế độ ăn nhiều chất béo gây ra. Hợp chất resveratol có nhiều trong rượu vang đỏ có tác dụng kéo dài tuổi thọ. Chất chống ôxy hóa flavonoid trong rượu vang đỏ có tác dụng kích hoạt enzym, làm chậm quá trình lão hóa. Được biết, chất này trong rượu vang đỏ cao gấp 15-20 lần so với hoa quả. Với phụ nữ, cứ vài ngày đều đặn uống 1 ly rượu vang đỏ giúp kéo dài tuổi thọ.
Chống béo phì
Các nhà khoa học thuộc Hội Nội tiết Mỹ cho biết, hợp chất resveratol trong rượu vang đỏ có thể làm giảm lượng tế bào chất béo trong cơ thể. Hợp chất này đã khiến cho các preadipocytes phát triển không bình thường, ngăn chúng biến thành các tế bào mỡ hoàn thiện và ngăn chặn sự tích lũy chất béo trong cơ thể. Như vậy, hợp chất resveratol có đặc tính chống béo phì bằng cách tạo ra những ảnh hưởng trực tiếp lên tế bào mỡ trong cơ thể.
Thú vị hơn, chất này còn làm giảm sự tiết ra cytokin – một chất điều chỉnh sự phản ứng của hệ miễn dịch và liên quan đến sự phát triển của bệnh béo phì và tiểu đường. Mỗi ngày bạn chỉ cần uống 2 ly rượu vang đỏ có thể làm giảm được 20-30% lượng calo, vì thế, có tác dụng giảm béo.
Phòng ngừa ung thư
Các nhà khoa học trường Đại học Santiago de Compostela (Tây Ban Nha) đã tiến hành một số nghiên cứu, và họ đã nhận ra rằng, chất tannins và resveratol trong rượu vang đỏ có tác dụng phòng ngừa ung thư phổi và ung thư tiền liệt tuyến. Được biết, tannins hoạt động như một tác nhân nhằm chống ôxy hóa, nó “càn quét” các hạt cơ bản vốn có hại cho tế bào. Trong khi đó resveratol có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của các khối u.
Nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học Mỹ được tiến hành với 1.742 người, chia thành 3 nhóm: Nhóm uống rượu vang đỏ 3 cốc/tuần, nhóm uống rượu vang trắng và nhóm không uống loại rượu nào. Kết quả, nhóm người không uống rượu có nguy cơ bị ung thư đường ruột là 9,9%, người uống rượu trắng nguy cơ này là 8,9% và nhóm người uống rượu đỏ nguy cơ này chỉ 3,4%.
Phòng chống bệnh tim mạch và đột quỵ
Các nhà khoa học Anh vừa phát hiện ra các thành phần polyphenol của rượu vang đỏ có thể ức chế quá trình tổng hợp một loại protein liên quan tới bệnh tim mạch. Điều này cũng giải thích vì sao người Pháp thường xuyên uống rượu vang đỏ và tỷ lệ mắc bệnh tim của người Pháp rất thấp, mặc dù chế độ ăn uống của họ cũng giàu chất béo lão hóa. Theo các nhà khoa học, polyphenol phòng chống được bệnh tim nhờ khả năng ức chế cơ thể sản xuất endothylin (một loại protein gây co mạch máu, làm giảm lượng ôxy tới tim và đóng vai trò chủ chốt gây ra bệnh mạch vành). Polyphenol có trong vỏ quả nho đỏ, vì vậy, chỉ riêng rượu đỏ mới có tác dụng phòng chống các bệnh tim mạch.
Lời khuyên của các chuyên gia dinh dưỡng là, những người trong độ tuổi trung niên trở lên, nếu mỗi bữa ăn uống thêm 1-2 ly rượu vang đỏ sẽ rất có ích cho tim mạch và kích thích ăn uống.
“Kỹ nghệ” từ thiện của Mỹ

Ở Mỹ có 400 nhà tỷ phú và 10 % trong số đó cam kết cống hiến ít nhất là một nửa tài sản bạc tỷ của mình cho các hoạt động từ thiện. Sự hào phóng của các đại gia cho việc công ích chỉ là phần nổi của tảng băng : bất chấp khủng hoảng kinh tế, người Mỹ vẫn dành tới gần 300 tỷ đô la cho các chương trình từ thiện.
Năm 2010 chiến dịch « Giving Pledge » do hai ông đại gia là Bill Gates và Warren Buffet đề xướng đã thuyết phục được gần 40 nhà tỷ phú khác trên toàn quốc cam kết cống hiến đến 50 % tài sản cho các công tác từ thiện.
Sau thành công tại Hoa Kỳ hai ông Gates và Warren Buffet đã lên đường đến Bắc Kinh để vận động các đại gia Trung Quốc làm việc thiện. Là nền kinh tế thứ nhì thế giới, Trung Quốc hiện có 64 nhà tỷ phú và 25 % đại gia của toàn châu Á hiện đều đang sinh sống trên quê hương Mao Trạch Đông. Thế nhưng các ông nhà giàu và doanh nhân Trung Quốc không mấy mặn mà hưởng ứng chiến dịch « Giving Pledge ». Chỉ có một nhà triệu phú duy nhất của Trung Quốc bằng lòng cống hiến toàn bộ tài sản 440 triệu đô la -một khi ông qua đời- cho các chương trình từ thiện.
Nước Pháp không thiếu gì các đại gia bạc triệu hay bạc tỷ nhưng hảo tâm của tầng lớp này không thể so với các doanh nhân giàu có ở Mỹ. Một công trình nghiên cứu của nhà xã hội học Michel Pinçon cho thấy là người Pháp thường kín đáo hơn người Mỹ rất nhiều khi nói về tài sản của họ và lại càng « kín đáo » hơn trong các công tác từ thiện.
Đâu là động lực của các ông tỷ Mỹ khi họ sẵn sàng cống hiến một phần lớn gia sản để làm những việc công ích ? và tại sao người ta có thể nói đến cả một nền « kỹ nghệ » từ thiện trong trường hợp của Hoa Kỳ ? RFI đặt câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa từ California và theo ông trước hết việc phân phát tài sản cho người khác dường như là một truyền thống của Hoa Kỳ.
RFI: Mượn chữ của cụ Sào Nam Phan Bội Châu, chúng ta có thể gọi họ là những người “hằng sản” vì có tiền, mà cũng “hằng tâm” vì lại phân phát tài sản của họ cho người khác. Anh nghĩ sao về hiện tượng này ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: – Ngược với quan niệm của nhiều người rằng kỹ nghệ lớn nhất của Mỹ là “kỹ nghệ chiến tranh”, do sự cấu kết về thủ tục ngân sách giữa các tập đoàn kinh doanh chiến cụ hay là bọn lái súng với giới dân cử, kỹ nghệ lớn nhất của Mỹ chính là “hoạt động từ thiện” vì lên tới gần 300 tỷ Mỹ kim một năm và có ảnh hưởng rộng lớn trong xã hội và nay đã ra toàn cầu.
– Khi nói đến “kỹ nghệ”, ta để ý đến ảnh hưởng, cách tổ chức và vận hành phức tạp trong khuôn khổ luật lệ chặt chẽ. Vì hoạt động từ thiện được miễn thuế nên các hội thiện là đối tượng kiểm tra kỹ lưỡng của sở thuế liên bang lẫn những tư nhân giao tiền cho họ. Thật ra dân Mỹ đóng góp rất nhiều vào các sinh hoạt trong xã hội, từ lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tôn giáo đến y tế, giáo dục và phổ biến kiến thức. Thuần về kinh tế thì ngạch số của các hoạt động từ thiện tại Mỹ đã vượt 1% Tổng sản lượng Nội địa GDP, trung bình thì gấp đôi Âu Châu và đấy là một truyền thống.
– Nói về sự đóng góp cho hoạt động từ thiện, dân Mỹ vẫn chi tiền, từ vài ba chục đến vài ba ngàn cho cả triệu hiệp hội hoạt động trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, tôn giáo, y tế hay giáo dục… Song song, họ cũng có cả ngàn “sáng hội” hay “sáng viện”, là “foundations”, của nhiều gia đình doanh gia. Nổi tiếng trong lịch sử thì có Ford Foundation, Rockefeller Foundation, Carnegie Foundation, MacArthur Foundation, hay J. Paul Getty Trust, v.v…
– Từ hơn chục năm nay, người ta mới để ý đến các tên tuổi trên doanh trường như ông bà tỷ phú Bill và Melinda Gates hoặc Warren Buffet hay Georges Soros đã dành một khoản tài sản cho các hoạt động từ thiện. Trẻ nhất trong số đó là người sáng lập và Tổng quản trị mạng lưới xã hội Facebook, nhân vật Marc Zuckerberg, mới 26 tuổi đã làm chủ bảy tỷ đô la và đã đồng ý tặng Sáng viện của ông bà Gates mấy tỷ bạc để tài trợ việc công ích.
RFI: Như anh trình bày thì có phải rằng hoạt động từ thiện này nằm trong truyền thống văn hóa của nước Mỹ từ đã lâu ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: – Nước Mỹ thật ra thành hình từ “thuyền nhân”, những người vượt biển qua xứ lạ để làm lại cuộc đời, đa số là để tránh nạn bách hại tôn giáo từ Âu Châu. Đi tìm tự do, họ tin vào Thượng Đế ở trên đầu và tình liên đới của người tỵ nạn với nhau. Hai tinh thần sùng đạo và lân tuất là đặc tính nguyên sơ. Từ đầu thế kỷ 17, việc ba vùng đất mới được họ lập ra, là Massachusetts, Pennsylvania và Virginia, có tên là “Thịnh vượng chung” cũng hàm ý đó.
– Sau đấy, tinh thần liên đới thể hiện ở một lý tưởng rất Mỹ – không hẳn là Âu Châu – rằng ta được sinh ra là để làm việc thiện. Việc thiện ấy có góp phần phát triển cộng đồng và xây dựng quốc gia sau khi dân Mỹ giành được nền độc lập. Ngày nay tinh thần ấy vẫn còn.
– Tôi nhớ viên Chủ tịch một doanh nghiệp Hoa Kỳ mà tôi làm việc ngày xưa, có khuyên mình một điều là “làm gì thì cũng cố dành ra khoảng 30% thời giờ cho việc công ích”, đó là tôn chỉ của nhiều người Mỹ. Khi ấy, tôi nghĩ ngay đến tỷ lệ tiết kiệm trung bình của dân Á châu là khoảng 30% lợi tức! Dân Mỹ xài rộng và tiết kiệm ít dần, nhưng vẫn có một trương mục khá dày về “công đức” nếu ta nói theo lối duy tâm. Và về mặt tâm linh thì điều ấy có lẽ đúng.
RFI: Nhiều người thì hoài nghi tinh thần từ tâm đó, có thể là vì dụng ý tránh thuế. Anh nghĩ sao về chuyện này ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: – Có lẽ đấy là cách suy nghĩ của các xã hội cần chụp giựt. Dĩ nhiên một số người tưởng cho là làm việc từ thiện thì cũng như mua sẵn vé lên Thiên đàng sau này, và ngay trước mắt thì được bớt thuế! Trong năm 2010, chẳng hạn Tổng thống Barack Obama đã trích ra 245 ngàn trong khoản lợi tức một triệu tám để tài trợ hoạt động từ thiện và số tiền đó được giảm trừ trong căn bản tính thuế lợi tức. Nhưng nếu ta nêu câu hỏi là ông ta có nghĩ đến việc tránh thuế không và tránh được bao nhiêu thì mình thấy ra yếu tố thuế vụ không thể là chính!
– Khi chúng ta vào nhà thờ hay nhà chùa mà bỏ tiền vào thùng phước sương thì có ai đợi lấy giấy biên nhận để cuối năm tính thuế đâu? Vả lại, trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn từ vài năm nay, người ta thấy rằng giới bình dân tại Mỹ vẫn chi tiền khá mạnh cho hoạt động từ thiện, mà họ không thuộc thành phần có thư ký riêng hoặc sẽ chi ly gom lại từng giấy biên nhận để khai thuế.
– Còn các doanh gia hay triệu tỷ phú Mỹ thì họ suy nghĩ khác khi bỏ ra cả triệu cả tỷ cho hoạt động công ích. Đáng chú ý là họ đem cho người dưng, ở tại Mỹ và trên thế giới, mà dành lại rất ít tài sản cho con cháu vì tin rằng con cháu sẽ phải phấn đấu để làm giàu và khi có tiền rồi thì cũng phải san xẻ cho người khác. Tỷ phú George Soros có một lời phát biểu khá đặc biệt, rằng “tiền bạc cũng như phân bón – phải rải ra chứ!”
RFI: Anh nhắc đến ông Soros nên chúng ta trở lại đề mục chính là các tỷ phú Mỹ. Động lực của họ là gì?
Nguyễn Xuân Nghĩa: – Trước khi nói đến các khuôn mặt nổi tiếng nhất thì có lẽ mình cần nhìn vào bối cảnh chung. Dân Mỹ đều sốt sắng tài trợ hoạt động công ích và ta cũng nên chú ý tới quần chúng đông đảo này. Sau đó mới là thiểu số những tỷ phú và khi ấy, ta cần phân biệt hai động lực. Đầu tiên, họ có thể chi tiền cho các tổ chức vô vụ lợi và được miễn thuế. Nhưng trong loại vô vụ lợi, có tổ chức chuyên về quảng bá tư tưởng theo một triết lý chính trị nào đó, đấy là các “think tank”, lò trí tuệ có chủ đích chính trị. Thứ hai, trong các hội vô vụ lợi, có loại chỉ theo đuổi mục tiêu công ích hay lợi ích công cộng và theo định nghĩa của Hoa Kỳ thì đấy mới là hội từ thiện và động lực ở đây chính là lòng vị tha.
– Là di dân gốc Âu Châu, sau khi có tài sản mấy tỷ bạc tại Mỹ, George Soros nổi tiếng trước tiên ở hoạt động có tính chất chính trị. Thí dụ gần đây là khi ông tài trợ một tờ báo Canada để vận động phong trào “Chiếm đóng Wall Street”. Trước đó ông lập ra viện “Open Society” hay “Xã hội Cởi mở” và Soros Foundation để phát huy dân chủ, nhất là tại các quốc gia thuộc quỹ đạo Xô viết cũ sau khi Liên Xô tan rã. Thành thử, ta cần phân biệt hai động lực chính trị và từ thiện.
– Ở giữa quần chúng và thiểu số tỷ phú ta không quên rằng doanh nghiệp Mỹ cũng có ngân sách tài trợ các tổ chức vô vụ lợi. Mục tiêu có thể là quảng cáo, là xây dựng thiện cảm với cộng đồng cư dân ở nơi hoạt động, cho nên yếu tố giảm thuế chỉ là một phần nhỏ. Trong số các doanh gia quyết định về đối tượng yểm trợ của doanh nghiệp tất nhiên là có nhiều triệu phú, đôi khi họ tài trợ ngôi trường cũ và thực tế có đóng góp cho việc xây dựng hệ thống giáo dục tư thục Mỹ
– Sau những tiền lệ xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ngày nay người ta sở dĩ nói đến các tỷ phú hằng tâm là do hiện tượng Bill Gates, khi ông lập ra “Sáng hội Bill và Melinda Foundation”. Đấy là hội thiện hiện có tài sản hoạt động lớn nhất, trị giá hơn 33 tỷ đô la, so với hội thiện đứng hàng thứ hai, được thành lập từ năm 1936 là Ford Foundation chỉ có 11 tỷ hay Getty Trust chỉ có 9,6 tỷ.
– Ông Gates không chỉ bỏ ra hơn 30 tỷ trong số tài sản trị giá 56 tỷ của mình vào hoạt động từ thiện mà còn kêu gọi các tỷ phú khác cùng tham gia trong một câu lạc bộ các tỷ phú hằng tâm. Đáng chú ý không kém là Sáng hội Gates còn quan tâm đến các vấn đề của nhân loại, từ phát triển, y tế, gíáo dục đến môi sinh. Thí dụ như trong năm 2010, đến 84% chi phí cho các chương trình của Sáng hội là dành cho thế giới ngoài nước Mỹ.
RFI: Anh nhắc đến hai trường hợp là George Soros và Bill Gates, chúng ta còn có ông Warren Buffet hay nhiều người khác nữa. Liệu mình có thể phác họa ra một loại chân dung điển hình của các nhân vật này hay không ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: – Ngoài trường hợp các nghệ sĩ có hằng tâm, thí dụ như ca sĩ Michael Jackson hay tài tử điện ảnh Paul Newman là các triệu phú hoạt động mạnh về từ thiện lúc sinh thời, phần lớn các tỷ phú như ông Buffet, Gates hay Soros đều là doanh gia xuất sắc nên mới có tài sản lớn lao như vậy. Trên doanh trường, họ là người sắc bén, thậm chí lạnh lùng, thì mới có thể thành công vượt bậc.
– Một thí dụ mà nhiều nước Âu Á còn nhớ là George Soros. Ông có thành tích đánh xập đồng Anh kim năm 1992 và kiếm ra mấy tỷ bạc, làm nước Anh phải rút khỏi hệ thống tiền tệ Âu châu SME năm 1993. Sau đó, ông bị nhiều nước Á châu đả kích là góp phần gây ra vụ khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997. Quỹ đầu tư Quantum Fund của ông cũng bị phê phán là liên hệ đến việc trốn thuế và rửa tiền. Dù doanh nghiệp của ông có giúp cho công ty của ông George W. Bush khỏi bị phá sản năm 1990, ông cũng lại tung ra 12 triệu Mỹ kim để đòi đánh bại Tổng thống Bush trong vụ tái tranh cử năm 2004 và đang chi tiền vào việc vận động cho tự do buôn bán cần sa. Con người doanh gia và hằng tâm Soros là nhân vật khá phức tạp!
– Warren Buffet là nhà đầu tư khét tiếng có biệt danh là “bậc Tiên tri đất Omaha” nhưng cũng lấy nhiều quyết định đầy rủi ro. Thực tế là trong vụ khủng hoảng 2008-2009, tài sản đã sụt từ 65 tỷ xuống còn có 37 tỷ đô la, tức là mất 28 tỷ trong vòng một năm! Từ năm ngoái, ông trực tiếp tham gia vào ban tranh cử của Tổng thống Obama và cũng gây tai tiếng khi tuyên bố rằng ông trả thuế suất lợi tức còn thấp hơn người thư ký của mình và đề nghị Chính quyền nên tăng thuế biểu của các tỷ phú. Đấy là vài đặc điểm nổi bật của mấy nhân vật này.
– Trong số đó, Bill Gates là người ôn hoà, kín đáo và dung dị, nhất là sau khi chấm dứt hoạt động kinh doanh để giành toàn thời cho hoạt động từ thiện. Nói chung, ngược với quần chúng bình dân Mỹ đã bỏ tiền rất nhiều cho việc từ thiện là thành phần bảo thủ và đứng về phía Cộng Hoà, các tỷ phú lại thiên về đảng Dân Chủ và đấy cũng là chi tiết lạ!
RFI: Chi tiết cuối này khá ly kỳ, anh giải thích thế nào về hiện tượng đó của xã hội Mỹ ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: – Dân Mỹ theo xu hướng bảo thủ, mà người ta cứ tưởng là ích kỷ và chỉ nhắm vào doanh lợi, thật ra lại góp tiền cho các hội thiện nhiều hơn dân Mỹ thiên tả mà ta cho là lý tưởng. Có lẽ xu hướng thiên tả thì muốn nhà nước đảm nhiệm nhiều việc công ích và phó thác chuyện đó cho nhà nước, trong khi phía bảo thủ thì tin rằng đó là phần vụ của từng người dân và họ xung phong đóng góp trong tinh thần tiên phong truyền thống của nước Mỹ.
– Trên cùng, một thiểu số có tiền và đầy lòng hảo tâm thì có tham vọng làm thay đổi bộ mặt của cã hội và cả thế giới bằng thiện chí và tài sản của mình. Đấy cũng là một nghịch lý đáng chú ý của xã hội này khiến ta nhớ đến một câu ca dao của mình:
Vua Ngô có chín lọng vàng
Đến khi xuống lỗ chẳng mang được gì !
Chúa Chổm uống rượu tì tì
Đến khi xuống lỗ kém gì vua Ngô ?
– Khác nhau ở đây là các tỷ phú của nước Mỹ đang mắc nợ như Chúa Chổm lại không uống rượu mà xem tiền như phân bón nên rải ra khắp nơi cho thiên hạ! Có lẽ vì vậy mà nhiều người thấy là chính trị Mỹ đáng ghét nhưng xã hội và dân Mỹ thật ra rất đáng yêu.
@rfi
Khi một xã hội chết lâm sàng
Trương Nhân Tuấn
Xã hội Nga thời Sô – Viết đã chết lâm sàng nếu chỉ có một khoa học gia Sakharov mà không có nhà trí thức Sakharov.
Khoa học gia Sakharov lẫy lừng trong xã hội Sô – viết vào thập niên 60 sau khi thành công thử nghiệm quả bom nhiệt nguyên tử đầu tiên, Tsar Bomba, với sức tàn phá 50Mt, vượt xa mọi trái bom khác hiện hữu trên thế giới. Sakharov là niềm hãnh diện không chỉ của dân tộc Nga mà còn là bằng chứng vượt trội về khoa học của xã hội chủ nghĩa đối với xã hội tư bản Tây phương.
Nhưng nếu không có một nhà trí thức Sakharov, trong thập niên 60, thì giới quân phiệt Nga đã thống lĩnh quyền hành, tất cả kỹ nghệ của Nga đã trở thành kỹ nghệ quốc phòng, thế giới đã có thể chìm dưới biển lửa chiến tranh hay ngập ngụa trong địa ngục cộng sản.
Cũng nếu không có nhà trí thức Sakharov, trong thập niên 70, thì xã hội Nga đã trở thành một quần đảo ngục tù, không chỉ ở Siberie, mà ở toàn lãnh thổ Liên bang Sô-viết. Nhưng một con én Sakharov không làm lên nổi mùa xuân. Sakharov cuối cùng bị đảng cộng sản Nga tước mọi danh dự của “người cha bom H” đồng thời giam lỏng ông này ở Gorki. Ông bị lưu đày trên chính quê hương của ông. Nhưng cũng do đó mà Liên bang Sô-viết lần hồi rệu rã, tự sụp đổ như một thân cây mục nát. Thật là thê thảm, vì đã không nghe những lời cảnh báo như là tiên tri của Sakharov từ hơn ba thập niên trước.
Giới khoa học gia sau này có thể đôi khi nhắc đến nhà vật lý Sakharov, nhưng nhân loại luôn nhớ đến một nhân cách trí thức vĩ đại Sakharov. Và dân tộc Nga hôm nay sẽ buồn biết bao nhiêu nếu không có giải Nobel hòa bình của nhà trí thức Sakharov năm 1975.
Xã hội Sô-viết đã yên mồ yên mả, nhưng điểm son trí thức Sakharov vẫn còn tồn tại mãi mãi.
Xã hội Pháp lẽ ra cũng đã chết lâm sàng, nếu vụ án Dreyfus, không có những người có uy tín như thủ tướng, dân biểu, nhà văn, nhà báo… lên tiếng bênh vực. Dreyfus, cùng với công lý, sẽ phải chết do bộ máy nghiền là tập đoàn hữu phái và giới quân phiệt Pháp thời hậu bán thế kỷ 19. Những người lên tiếng bênh vực trong vụ Dreyfus đều có địa vị quan trọng trong xã hội. Họ lên tiếng không phải vì danh tiếng, tiền bạc… ngược lại, họ bị đe dọa bắt bớ. Emile Zola phải đi tị nạn sang Anh.
Khoa học gia Sakharov vẫn chỉ là một khoa học gia, nhà báo Emile Zola vẫn là một nhà báo, nếu quí ông này chấp nhận một xã hội hoang dã cá lớn nuốt cá bé, sống chết mặc bây, công lý là ý muốn của cường quyền, bạo chúa. Vị trí trong xã hội của Sakharov thời đó được tầng lớp lãnh đạo quí trọng biết bao nhiêu. Emile Zola, Clémenceau, Léon Blum, Jean Jaurès… đều là những người có địa vị và tiếng tăm trong xã hội Pháp. Nhưng vì lương tri, những người này chấp nhận mọi hiểm nguy và mất mát cho chính đời sống của của họ. Họ lên tiếng chống lại những quyết định bạo ngược của người cầm quyền, bênh vực cho những giá trị mà họ xem là cao đẹp trong xã hội. Emile Zola cùng bè bạn khởi động phong trào trí thức trên thế giới. Xã hội nước Pháp ngày càng tiên tiến, văn minh hơn.
Thật là cao quí biết bao nhiêu hai tiếng trí thức!
Còn xã hội Việt Nam nếu không chết lâm sàng thì cũng là một xác ướp, còn phần xác mà không có phần hồn.
Khi mà “dân oan” đã trở thành một tầng lớp rộng lớn trong xã hội thì xã hội đó đã mục nát, rệu rã. Khi mà người yêu nước, bất đồng chính kiến với đảng CSVN, cho dầu chỉ mới lên tiếng một cách ôn hòa, thì bị trù dập, tù đày… xã hội đó là một xã hội đang hấp hối. Trong một xã hội, khi mà công an càng lộng quyền thì công lý của xã hội đó càng tiêu điều. Công lý thể hiện cho đạo đức, lương tri và lương tâm. Khi công lý đã chết thì xã hội đó chỉ còn là một xác không hồn. Nạn nhân của công an, bạo quyền… nói ra sao cho hết! Một nữ nhà báo, thật can đảm, vạch trần những nhơ nhớp bẩn thỉu của gia đình một đại quan công an thì bị công an bắt. Một nhà báo khác dùng thủ thuật để vạch trần những nhũng nhiễu của công an thì cũng bị công an bắt. Làm như vậy để từ nay không còn ai dám đụng đến công an. Một tờ báo nói thật bị đóng cửa; một trang web nói thật cũng bị đóng cửa. Từ đó không ai dám nói thật. Chân lý không còn thì xã hội đó là xã hội của những tên lưu manh, điểu giả.
Những người được trọng dụng với tầm cỡ Sakharov ở Việt Nam không hề thiếu. Nhưng không hề thấy ai lên tiếng.
Đâu cần đến kiến thức chuyên môn để thẩm định các việc đó đúng hay sai? Người ta chỉ cần một chút can đảm.
Người ta thẩm định một khoa học gia qua thành quả của công trình nghiên cứu nhưng người ta thẩm định một trí thức qua thái độ của người này.
Để xã hội Việt Nam không chết lâm sàng, những người có địa vị trong xã hội cần phải tỏ thái độ, cần phải lên tiếng nói khi cần thiết. Những người này không dám nói thì ai dám nói? Không ai dám nói, tất cả đều vô cảm, hèn, thì xã hội đã chết lâm sàng.
@Danluan