









– Trong bài “Thời kỳ Bắc thuộc mới”:
“Cái mốc chuyển từ kẻ thù truyền thống (như được ghi trong Hiến pháp Việt Nam) thành bạn thân thiết là cuộc gặp gỡ bí mật cấp cao Trung – Việt ở Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, vào 2 ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, theo sáng kiến của đại mưu sĩ Đặng Tiểu Bình. Đại diện cho phía Việt Nam tại cuộc gặp là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng, còn phía Trung Quốc là Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Có rất ít thông tin chính xác về nội dung thật sự của cuộc gặp này được tiết lộ, nhưng ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Bắc Kinh đến phó hội đối với tương lai của đất nước ta đã không che mắt được ai. Đến nỗi ngoại trưởng Việt Nam lúc bấy giờ, ông Nguyễn Cơ Thạch, người bị gạt ra ngoài rìa của cuộc họp lịch sử này, đã phải than thở: “Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!”.
– Trong bài “Bản chất chính quyền Đại Hán”:
“Tình trạng bi đát này của nhóm lãnh đạo Việt Nam đã kéo dài từ 21 năm nay, khi cả hai chính quyền độc đảng Bắc Kinh và Hà Nội đều run sợ trước sự sụp đổ của bức tường Berlin và nhất là trước sự tan tành của Liên bang Xô viết và phe Xã hội chủ nghĩa, liền bắt tay nhau dù là mới trải qua cuộc «chiến tranh giữa 2 đồng chí thù địch» đầu năm 1979, để hòng cùng nhau trụ lại trước định mệnh đã an bài. Đó là bước ngoặt trong cuộc hội ngộ Việt – Trung ở Thành Đô – Tứ Xuyên cuối năm 1990, mà ông Nguyễn Cơ Thạch phải la hoảng lên là “một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu» để lập tức bị mất chức ngoại trưởng kiêm phó thủ tướng, bị gạt khỏi chức ủy viên Bộ Chính trị. Thực chất Thành Đô là cái bẫy cực kỳ thâm hiểm mang bản chất Đại Hán mà một loạt kẻ lãnh đạo mù quáng, mất gốc dân tộc Việt đã dại dột chui vào.
Từ đó đẻ ra bao chuyện nhẹ dạ, hớ hênh, tội lỗi với dân với nước. Hai hiệp định bất bình đẳng, mất đất, mất đảo, mất biển, mất tài nguyên, tạo điều kiện cho lao động Trung Quốc tràn vào khắp mọi vùng, độc chiếm các món thầu béo bở nhất, từ mỏ bauxite đến hàng loạt nhà máy điện, giành vị trí lao động phổ thông của người Việt mặc cho luật pháp ngăn cấm. Lực lượng lao động này lập làng Trung Quốc ở Tây Nguyên, làm đường chiến lược, khai thác hàng chục vạn hécta rừng dọc biên giới và đầu nguồn. Đồng thời hàng giá rẻ kém chất lượng, chứa chất độc tràn ngập đất nước ta, đồng Nhân dân tệ bắt đầu khuynh đảo thị trường tài chính ngầm. Tai họa cực kỳ nguy cấp hiển hiện, rình rập khắp nơi”.
– Trong bài “Tình bạn Mỹ – Việt giữa hiểm họa bành trướng”:
“Cuộc đối thoại thứ 5 sẽ diễn ra ở Hà Nội năm 2012. Trong cuộc đối thoại này đại diện phía Việt Nam là Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh (con của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch; ông Thạch từng nhận xét sau cuộc họp Việt – Trung ở Thành Đô cuối năm 1991 rằng “một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu”)”.
Bùi Tín như cuống quýt lên vì sợ hãi. Bởi vì, theo ông bọn thù địch ngoại bang này còn ghê sợ hơn ngàn lần tất cả những kẻ trước đây ta đã phải đương đầu:
Sau khi thực hiện chiến tranh với Liên Xô mà chúng từng coi là người anh Cả trong phe Xã hội chủ nghĩa, với Ấn Độ là nước dân chủ lớn nhất ở châu Á, nhưng bị giáng trả và ngăn chặn, hiện nay Bắc Kinh mưu đồ bành trướng xuống phương Nam, ráo riết nô dịch hóa theo hình thức thuộc địa kiểu mới các nước Miến Điện, Việt Nam, Lào, Campuchia bằng những thủ đoạn từ lộ liễu đến tinh vi, từ hợp tác kinh tế, viện trợ kinh tế – tài chính – giáo dục – văn hóa, đẩy mạnh thương mại một chiều, làm đường xá, khai thác khoáng sản, năng lượng, cấy dân cư, đề xướng cư dân lân bang đi lại không hộ chiếu, cho đến thủ đoạn then chốt là mua chuộc nhóm lãnh đạo chính trị của các nước ấy bằng mọi cách thâm hiểm, hủ hóa bằng tiền, gái, rồi đe dọa khống chế bằng tình báo, tập trung vào nhóm lãnh đạo cao nhất, làm cho những người này tê liệt, mất khả năng phản ứng, há miệng mắc quai, vì đã trượt quá sâu vào trong quỹ đạo quy phục làm bộ hạ tay sai của chúng (2).
“ …cuốn sách mới Death by China (Cái chết từ Trung Quốc) của 2 học giả Peter Navarro và Greg Autry được giới thiệu rộng rãi trên toàn nước Mỹ. Cuốn sách phơi bày mặt trái của hiện tượng “Phép lạ Trung Hoa” (Chinese miracle), chỉ rõ Trung Quốc là tai họa cho toàn nhân loại, là tên đế quốc mới thực sự, là tai ương cho chính dân tộc đại Hán, đang nô lệ hóa nhân dân Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, đang bóc lột tận xương tủy dân nước mình, đang xuất khẩu hàng xấu, hàng giả, hàng nhái, hàng chứa độc chất ra khắp thế giới, đang bành trướng sang châu Phi, Nam Mỹ, đang nô dịch hóa Đông Nam Á…”(3)
Trong ký ức Bùi Tín, cái bản chất Đại Hán không ngừng chảy rất ghê sợ trong huyết quản những tên thái thú Trung Quốc. Ông kể:
“Hồi 1951 khi tôi phụ trách trường đạo tạo sỹ quan sơ cấp của Sư đoàn 304 đóng ở Thanh Hóa, một cố vấn Trung Quốc cấp Dinh (tiểu đoàn) được phái đến trường, gọi là đồng chí Triệu. Lúc nào anh ta cũng nói nhũn như con chi chi: «Mao chủ tịch phái chúng tôi đến giúp, nhưng chính là để học tập các đồng chí. Chúng tôi không am hiểu kẻ thù, không am hiểu chiến trường, ý kiến còn thô thiển, chủ quan, mong các đồng chí tuỳ nghi lựa chọn và lượng thứ cho”. Nhưng bất kỳ ý kiến lớn nhỏ nào của anh ta mà chưa kịp thi hành anh ta tâu ngay lên thượng cấp để xử lý rất găng. Sinh hoạt cũng vậy. Anh ta ăn riêng có thịt, có cá, có rượu bổ, lại có ngựa cưỡi, có 3 người phục vụ: 1 cần vụ, 1 giám mã, 1 bảo vệ, đi thao trường về là nằm ngửa có cần vụ bưng nước ấm đến để ngâm chân và xoa bóp, nhưng lại luôn hát: chúng ta là con em nhân dân trăm họ, luôn sống giản dị trong lòng dân, hết lòng phục vụ nhân dân, luôn nhường cơm xẻ áo cho dân …” (2)
Song le, ông luôn tự hào về truyền thống chống Bắc thuộc của dân tộc mình: “Nhân dân Việt Nam luôn kiên cường chống lại mọi hiểm họa ngoại xâm đến từ phương Bắc. Lịch sử tồn tại và phát triển của Việt Nam từ xa xưa đến ngày nay đã chứng minh sự thật ấy” (3)
Và vui mừng nhận thấy sức hậu thuẫn vô cùng lớn của quốc tế: “Cả thế giới tiến bộ, từ Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Ấn Độ, Úc, Liên hiệp Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada…đều đứng về phía nhân dân ta chống hành động ngạo mạn phi pháp của phía Trung Quốc…..Thái độ rõ ràng, kịp thời của Hoa Kỳ, cường quốc số một của thế giới, trong cuộc khủng hoảng biển Đông là rất quan trọng. Từ năm ngoái ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã tuyên bố rằng “Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia về thông thương trong vùng biển Đông và Thái Bình Dương”, làm cho đại diện Trung Quốc Dương Khiết Trì giận dữ bỏ phòng họp” (3).
Ông khẳng định: “Việt Nam đã chuyển từ thân Trung Quốc sang thân Âu – Mỹ ư? Thế thì càng tốt hơn nữa. Theo nghĩa thân Trung Quốc là thân Trung Quốc bành trướng kiểu Đại Hán, và thân Âu – Mỹ là thân những giá trị tự do, dân chủ đa nguyên đa đảng trên cơ sở bầu cử thật sự tự do và định kỳ” (4).
Ông nhìn nhận, như những nhà thông thái nhìn nhận: Trung Quốc chỉ là con hổ giấy, là quả bong bóng mỏng bơm căng:
– 2 – Là con quan thượng thư dưới triều đình phong kiến nhưng Bùi Tín được kết nạp Đảng rất sớm. Ông sinh ngày 29-12-1927 tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, tháng 9 năm 1945 đi bộ đội và tháng 3 năm 1946 (19 tuổi) đã được kết nạp vào Đảng.Ông được Đảng trọng dụng, được phong hàm đại tá khá sớm, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân từ năm 1972, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Nhân Dân kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chủ nhật từ năm 1988. Năm 1982 ông được thưởng Huân chương Julius Fuçik của Tổ chức các nhà báo quốc tế (OIJ). Nhân Dân và Quân đội Nhân dân là hai tờ báo lớn nhất và tín cẩn nhất của Đảng.
Việc Bùi Tín được kết nạp Đảng sớm và thăng quan tiến chức nhanh có thể được giải thích bởi hai lý do:
– Tuy là quan thượng thư nhưng lý lịch gốc của cụ Bùi Bằng Đoàn rất cơ bản và trong sạch. Nhà nghèo, thường phải quét lá đa để đốt lên thay đèn đọc sách nhưng 17 tuổi đã đỗ cử nhân Hán học rồi phải khai tăng thêm 3 tuổi để được vào trường Hậu bổ học tiếng Pháp. Được chọn vào triều đình Huế làm Thượng Thư (bộ trưởng) bộ Tư Pháp khi mới 44 tuổi. Suốt mười hai năm ở kinh đô, trông nom việc xử kiện của tất cả các tỉnh Trung kỳ, cụ vẫn giữ một đức tính liêm khiết đến mức tuyệt đối. Hồi đến nhậm chức tri phủ Xuân Trường (1927), cụ cho treo cái bảng ở cổng phủ ghi rõ: “Ai có việc hay đưa đơn, không được mang theo một lễ vật gì qua cổng này”. Sau cách mạng Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh mời cụ ra làm việc. Hai lần đầu cụ từ chối. Cụ làm chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội từ cuối năm 1946 cho đến ngày mất, năm 1955. Người kế nhiệm Bùi Bằng Đoàn là Tôn Đức Thắng, sau đó, đến Trường Chinh.
Hồi ở Việt Bắc, Bùi Bằng Đoàn và Hồ Chí Minh như hai bạn thơ tâm giao. Bài “Tặng Bùi Công” có thể xem là một trong những bài thơ hay nhất của Hồ Chí Minh:
Khán thư sơn điểu thê song hãn
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì
Tiệp báo tần lai lao dịch mã
Tư công tức cảnh tặng tân thi…
dịch là:
Xem sách chim rừng ngoài cửa đậu
Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ bạn thơ xuân tặng một bài
Bài họa của Bùi Bằng Đoàn:
Thiết thạch nhất tâm phù chủng tộc
Giang sơn vạn lý thủ thành trì
Tư công quốc sự vô dư hạ
Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi
dịch là:
Một lòng sắt đá phò nòi giống
Vạn dặm giang sơn giữ thành trì
Chăm lo việc nước không hề rảnh
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù
– Bên cạnh nợ nước, Bùi Tín còn có mối thù nhà. Ông kể:
Ông nâng niu trân quý cái chất lý tưởng xuất phát từ lòng yêu nước trong sáng:
– 3 -Tháng 9 năm 1990 Bùi Tín sang Pháp dự Hội hàng năm của báo Nhân đạo (l’ Humanité) rồi quyết định ở lại Pháp để có thể công khai đấu tranh cho tự do dân chủ ở quê nhà. Bắt đầu lên tiếng trên BBC với “Kiến nghị của một công dân Việt nam” mỗi ngày ông một quyết liệt hơn qua những bài báo đăng trên Time, Far Eastern Economic Review, Washington Post, Le Monde, Talawas, Đàn Chim Việt, Thông Luận, Đối thoại, Tổ Quốc …, qua những phát biểu trên BBC, RFI, RFA, VOA. Với tư liệu đầy ắp, với sức viết tràn trề ông còn cho xuất bản hơn chục đầu sách:Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật, Về 3 ông Thánh, Mây Mù Thế Kỷ, Cung Vua và phủ Chúa, Tâm Tình với Tuổi Trẻ Việt Nam, Following Ho Chi Minh, From Enemy to Friend và La face cachée du régime ….
Cuống cuồng run sợ, người ta kết án ông là chống Đảng, phản bội Tổ quốc, bất mãn, làm tay sai cho các thế lực Diễn biến Hòa bình; hệ thống Tuyên giáo của ĐCSVN mở nhiều chiến dịch bôi bẩn, xuyên tạc, vu cáo ông….
Không, nhà báo Bùi Tín không bất mãn cá nhân, bởi vì, như trên đã thấy, ông từng được Đảng trọng dụng, được thăng quan tiến chức khá nhanh.
Tất cả chỉ là do ông vốn là người tôn thờ cái cốt cách di truyền trong tầng sâu tâm khảm ông: « Tôi không thể nào quên, cha tôi luôn nằm thẳng. Ngủ ban đêm hay ngủ trưa, đều một mực như thế. Hai tay chắp vào nhau đặt trên bụng. Suốt cả một đời người, ông luôn ngủ với một tư thế không thay đổi. Đi từ nhà trên xuống nhà dưới, đi bách bộ ở hành lang, hay ở trong sân nhà, cha tôi bao giờ cũng đi đến góc, rồi rẽ phải hay rẽ trái, không bao giờ đi tắt. Tất cả đều thành nếp sống và nếp nghĩ. Cũng có thể có người cho là lẩm cẩm. Nhưng cái ngay thẳng của người “quân tử” là như thế, phải như thế. Không thể nhượng bộ cho chính mìmh”, cho nên ông đằng đẵng bị cái “nỗi bất màn thánh thiện” dày vò. Ông từng tâm sự:
Đã bao lần tôi thầm thốt lên: Ôi! Số phận của con người!
Cuộc chiến tranh đã hao phí hàng triệu sinh linh, đều là con em đất Việt, đồng bào ruột thịt cả. Để làm gì? Để đến nỗi này chăng? Nói là giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày, với biết bao tủi cực và khổ đau…Nhân danh lẽ phải? Nhân danh lẽ công bằng? Nhân danh cách mạng? Tôi chẳng sao lý giải nỗi nữa!
Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì? Để sau toàn thắng, cuộc sống của nhân dân ta còn lầm than, bi đát hơn cả thời chiến tranh, để Nguyễn Du sống lại sẽ còn phải khóc cho thân phận hàng chục vạn nàng Kiều hiện đại, đang nhan nhản trên các hè phố Hà Nội, Sài Gòn khi nắng chiều vừa tắt” (6).
“Nếu giành thắng lợi trong chiến tranh để xây dựng một chế độ tiến bộ hơn, mang lại cho nhân dân cả hai miền đã thống nhất trong một nước độc lập thật sự, tự do, ấm no và hạnh phúc thì có thể chấp nhận. Thế nhưng tôi nhận ra rằng nền độc lập vẫn không trọn vẹn. Đất nước đã có độc lập theo nghĩa không còn bị nước ngoài xâm chiếm làm thuộc địa, nhưng đất nước vẫn chưa có độc lập, tự chủ vì còn bị một học thuyết ngoại lai cầm tù. Đây là một nét văn hóa gốc gác bị vi phạm. Bóng ma của chủ nghĩa Mác, nhất là của chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao… còn đậm nét trong suy nghĩ của các nhà lãnh đạo. Họ còn bị lệ thuộc. Quyền độc lập tự chủ của nước Việt nam nghìn năm văn hiến đã bị những người lãnh đạo cộng sản dâng cho một học thuyết lạ hoắc từ phương trời xa xăm ập đến! Hơn nữa chế độ xây dựng trong cả nước từ hơn 20 năm nay còn thua kém chế độ ở miền Nam trước khi gọi là “giải phóng!” Vậy thì giải phóng để làm gì? ở miền Nam hồi đó, dù chưa thật đầy đủ, đã có nền chính trị dân chủ, đa nguyên, đã có nền tư pháp tương đối độc lập, nói chung có tự do tín ngưỡng và tôn giáo, có tự do báo chí, ngôn luận. Tất cả đều còn khiếm khuyết nhưng đã khác xa, tiến bộ hơn cái chế độ độc quyền một đảng lộng hành, người dân không có quyền dân chủ, tự do báo chí là con số không, tù chính trị còn rên xiết” (7).
Ông kinh hoàng nhìn thấy những tà thuyết của Mác – Lênin – Mao Trạch Đông – Xtalin không chỉ tàn phá đất nước ông, kìm hãm dân tộc ông mà còn hủy diệt cả đất nước láng giềng:
Cho nên, năm 1982 ông đã gặp đại sứ Ngô Điền và thiếu tướng Lê Hai phụ trách công tác chính trị quân Tình nguyện Việt Nam nêu nhận định và phát biểu ý kiến khẩn thiết: “Tình hình hiện nay là bộ đội ta bị sa lầy, chỉ có cách là rút sớm toàn bộ các đơn vị ta về nước, giao lại cho bạn, và chuyển sớm cho Liên Hợp Quốc cùng Cộng đồng quốc tế giải quyết vấn đề Campuchia, nếu không tình hình sẽ còn gay go cho đất nước ta hơn nhiều”
Năm 1986, sau khi ông Lê Duẩn mất, ông Trường Chinh được cử làm quyền Tổng Bí Thư, Bùi Tín đã viết một bản kiến nghị dài 5 trang đánh máy, đề nghị giảm số quân từ trên 1,6 triệu xuống 60 vạn trong 3 năm cho ngang với mức trung bình của thế giới, đề nghị đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt khoát cả về kinh tế và chính trị, thực hiện hòa giải với tất cả các nước thù địch cũ: Nhật, Pháp, Trung Quốc, Hoa Kỳ.
Được mời thỉnh giảng ở trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tại Hội trường lớn ở đây, tháng 4 năm 1990, nhà báo Bùi Tín đã dõng dạc phê phán: “Đảng đã bao biện, ôm dồm, dẫm chân lên chính quyền quá lâu rồi, đã đến lúc phải trả lại toàn bộ chính quyền cho các cơ quan dân cử. Có thể nói chính đảng đã vi phạm có hệ thống hiến pháp là luật cơ bản của đất nước, trong một thời gian dài. Hiến pháp chỉ rỏ rằng: nước ta, toàn bộ chính quyền thuộc về tay nhân dân, thông qua các cơ quan dân cử là hội đồng nhân dân và quốc hội. Nhân dân không bầu ra trung ương đảng và không bầu ra bộ chính trị. Trung ương đảng và bộ chính trị quyết định những nội dung, biện pháp, chỉ số, chính sách, về kế hoạch nhà nước trong 5 năm hay trong 1 năm về nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp v. v…đều là sai nguyên tắc, làm vậy là lấn quyền của quốc hội và hội đồng nhân dân…” (6)
Dẫu sao, người ta vẫn thấy Bùi Tín chưa bao giờ gay gắt, cay cú, chưa bao giờ nặng lời, thậm chí nhiều lúc ông thiết tha như day dứt chính mình:
***Thế đấy, Bùi Tín không hề phản động, cũng không bất mãn, không cơ hội, ông chỉ thực hiện sứ mệnh cao cả của một công dân chân chính, một trí thức có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc mình. Những người lãnh đạo trước đây do nhận thức kém cỏi lại hợm hĩnh, ‘kiêu ngạo cộng sản’ khi có chức có quyền nên đã đối xử rất tệ bạc với những người như Bùi Tín. Thế hệ lãnh đạo hiện nay như Đinh Thế Huynh. Nguyễn Phú Trọng ….- thuộc hàng học trò, hàng em nhỏ của ông – hãy khách quan hơn, tỉnh táo hơn mà nhìn nhận lại để sám hối, sửa sai, công khai xin lỗi ông và mời ông trở về. Đấy là những bước cơ bản cần thực hiện trong tiến trình hòa hợp, hòa giải ngõ hầu xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc.
Ngày Bùi Tín bước vào tuổi 85
Hà Nội 29 tháng 12 năm 2011
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Tel: (04) 35 534 370
Trong hai bản tuyên bố riêng biệt, Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Hà Nội và Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) vừa lên tiếng đòi hỏi chế độ Hà Nội trả tự do cho bà Bùi Thị Minh Hằng.
|
Bà Bùi Thị Minh Hằng biểu tình ở Sài Gòn ngày 27 tháng 11, 2011 phản đối việc đàn áp những người ký tên ủng hộ Quốc Hội ra luật biểu tình. (Hình: Blog Nguyễn Xuân Diện) |
Bà Hằng, 47 tuổi, một người biểu tình rất nhiều lần ở Hà Nội và cũng đã bị bắt giam nhiều lần vì đã tham gia phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
“Không một ai có thể bị bỏ tù chỉ vì thực hiện quyền tự do phát biểu hoặc hội họp ôn hòa”. Bản tuyên bố của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội viết hôm Thứ Năm.
Tòa đại sứ cho hay đã thường xuyên đòi hỏi chế độ Hà Nội thả hết mọi tù nhân chính trị và tôn giáo vì làm như thế là vi phạm các quyền tự do căn bản của người dân được công nhận trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà chế độ Hà Nội đã ký tên cam kết tuân hành.
Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (HRW) hôm Thứ Tư cũng kêu gọi Việt Nam trả tự do cho bà Hằng.
Phil Robertson, phó giám đốc vùng Á Châu của HRW nói không có lý do chính đáng gì để nhà cầm quyền Hà Nội bắt bà Bùi Thị Minh Hằng vào “một nơi mà thực trạng là một trại cưỡng bách lao động”.
“Việc giam giữ bà Bùi Thị Minh Hằng không qua xét xử của tòa án cho thấy sự coi thường đáng lo ngại đối với quyền con người và các bảo đảm về quyền tự do ngôn luận được ghi trên hiến pháp Việt Nam,” Robertson nói.
Bà bị công an bắt giữ ở Sài Gòn ngày 27 tháng 11, 2011 khi cùng với một số người khác biểu tình bên hông Nhà Thờ Ðức Bà, phản đối nhà cầm quyền đàn áp các người ký tên ủng hộ Quốc Hội ra luật Biểu Tình.
Ngày hôm sau, bà bị đưa ra Hà Nội và tống vào “cơ sở giáo dục Thanh Hà”, một trại tập trung lao động cưỡng bách các người phụ nữ mãi dâm, con nghiện thuộc xã Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, do Bộ Công An quản lý.
Ngày 18 tháng 12 năm 2011, Luật Sư Hà Huy Sơn đại diện cho bà Hằng, đã gửi đơn khiếu nại tới chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đòi hỏi trả tự do ngay cho bà vì hành động này hoàn toàn trái pháp luật.
Ông Thảo là người ký quyết định đưa bà Bùi Thị Minh Hằng vào “cơ sở giáo dục”. Nhiều bloggers phản ứng trên các diễn đàn thông tin đấu tranh dân chủ đều nói việc nhốt bà Hằng mà không qua xét xử của tòa án chỉ là hành vi trả thù của nhà cầm quyền và bất chấp luật lệ tố tụng.
Ngày 25 tháng 12 năm 2011, có 12 nhân sĩ đã gửi cho chủ tịch nước Trương Tấn Sang bức thư kêu gọi trả tự do cho bà Hằng. Bức thư viết rằng “Việc cưỡng bức bà Bùi Thị Minh Hằng vào cơ sở giáo dục và bắt giữ, bắt giam, hăm dọa công dân bày tỏ chính kiến một cách ôn hòa là trái với đạo lý, trái Hiến pháp nước CHXHCNVN, vi phạm Công Ước Quốc Tế về Quyền Con Người mà Việt Nam đã ký kết tham gia. Một nhà nước pháp quyền văn minh thì không có một công dân nào bị bắt giam, bỏ tù hay đưa đi cải tạo khi chưa có phán quyết của tòa án.”
WASHINGTON (AP) – Trong một cuộc họp báo hiếm hoi tại Ngũ Giác Ðài, Tổng Thống Barack Obama hôm Thứ Năm công bố chiến lược quốc phòng mới của Hoa Kỳ trong thời buổi ngân sách thiếu hụt.
|
Tổng Thống Barack Obama với Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta (thứ nhì bên trái) và Bộ Trưởng Bộ Binh John McHugh (phải) và nhiều viên chức Ngũ Giác Ðài công bố chiến lược quốc phòng mới, tại Ngũ Giác Ðài hôm Thứ Năm. (Hình: AP Photo/Haraz N. Ghanbari) |
Trong những đề nghị của Tổng Thống Obama, hải quân sẽ tiếp tục duy trì toàn bộ 11 hàng không mẫu hạm, và chiến lược quốc phòng sẽ chú trọng hơn tới vùng Châu Á Thái Bình Dương.
Sự kiện tổng thống họp báo ở Bộ Quốc Phòng là rất hiếm thấy. Nó chứng tỏ tầm quan trọng không thể tránh khỏi của sự giảm thiểu chi phí quốc phòng và đường lối để bảo đảm cho an ninh Hoa Kỳ không bị phương hại. Tổng Thống Obama nói rằng phải tìm một kế hoạch “khôn ngoan, có tầm nhìn chiến lược và xác định được những ưu tiên”.
Ít nhất chi tiêu quốc phòng sẽ giảm bớt $487 tỷ trong 10 năm tới và có thể thêm $500 tỷ nữa nếu Quốc Hội muốn hạ thấp thâm hụt ngân sách nhiều hơn.
Theo lời ông, trong những điều kiện ấy quân đội Hoa Kỳ phải “thon nhỏ hơn” nhưng vẫn phải được trang bị đầy đủ nhất, chiến đấu có hiệu quả nhất và “thế giới phải hiểu là Hoa Kỳ tiếp tục duy trì ưu thế quân sự”.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta có mặt trong buổi họp báo bên cạnh các tướng lãnh cao cấp nhất nhìn nhận rằng vì thiếu ngân sách, quân lực Hoa Kỳ sẽ phải thêm một số rủi ro nhưng ở mức độ chấp nhận được. Ông nói: “Vào thời điểm lịch sử này của một thế giới biến chuyển. Ngũ giác đài buộc phải có sự thay đổi chiến lược. Ngân sách chỉ là yếu tố thúc giục.”
Quân đội Hoa Kỳ sẽ được giảm bớt về quân số cũng như các căn cứ trong nước và hải ngoại. Sẽ có những chấn chỉnh thích ứng về sự phối trí quân lực đồng thời gia tăng khả năng điều động linh hoạt để thích hợp với mọi tình huống. Cụ thể, quân đội Hoa Kỳ triển khai tại Âu Châu sẽ rút bớt trong khi vẫn duy trì quan hệ chặt chẽ với khối NATO.
Tổng Thống Obama cho rằng “những cuộc chiến tranh kéo dài trong thập kỷ trước nay đã kết thúc”, quân lực Hoa Kỳ sẽ không tham gia những trận chiến toàn diện và lâu dài nhưng vẫn phải sẵn sàng đương đầu với mọi tình thế đột biến. Ông không đưa ra những dự án mới về phòng thủ nhưng nói là hệ thống phòng thủ chống hỏa tiễn và kỹ thuật chiến tranh trong lãnh vực không gian ảo (cyberwarfare) sẽ được cải tiến.
@NguoiViet