——————————————————————————————————————————————————————————————————————————————–
Day: 28/09/2011
NHÂN VẬT : Văn hào Andersen là con hoang của vua Đan Mạch?
Một số nhà nghiên cứu khẳng định, văn sĩ nghèo khổ, xấu trai kể những chuyện cổ tích đẹp như mơ thực ra là con ngoài giá thú của một vị quốc vương.
Điều mà ai cũng biết là Hans Christian Andersen sinh ra và lớn lên trong một gia đình lao động nghèo, cha là thợ giày, mẹ là thợ giặt. Người cha qua đời khi Andersen mới 11 tuổi và cậu bé đã trải qua trăm nghìn khổ cực trước khi thành danh. Mặc dù vậy, vẫn có nhiều nguồn thông tin cho rằng, Andersen là một vị hoàng tử lưu lạc trong dân gian.
Giọt máu rơi của hoàng gia?
Trong cuốn “Andersen, một huyền thoại chân chính”, nhà sử học Jens Jorgen khẳng định Andersen là con hoang của hoàng đế Đan Mạch Christian 8 và một nữ bá tước. Vì không thể công khai thừa nhận đứa con này, nhà vua đã thu xếp để đứa bé làm con nuôi một anh thợ giày và sau đó đã âm thầm hỗ trợ những bước đi trong cuộc đời cậu bé. Đó là lý do khiến Andersen tuy xuất thân nghèo khổ nhưng được làm những công việc liên quan đến hoàng gia (như kịch viện hoàng gia) và có thời gian còn ở trong cung điện. Bởi lẽ ra, một cậu bé ở tầng lớp dưới lại sớm mồ côi cha như ông lẽ ra phải ở trại tế bần nếu không có một thế lực nào trợ giúp.
Nhà văn Pitt đưa ra thêm một “bằng chứng”: Con gái một vị đô đốc hải quân năm 1848 khi viết thư cho Andersen đã nhắc đến chuyện ông phát hiện ra mình là một hoàng tử.
![]() |
Vua Christian 8, người được cho là cha đẻ của Andersen. |
Quả thật, ở tuổi thiếu niên, Andersen từng học hát để làm diễn viên và cậu bé có chất giọng cao này được tuyển vào nhà hát Hoàng gia, cho đến khi bị vỡ giọng. Andersen cũng từng được vua Frederick VI (“tiền nhiệm” của Christian 8) và được ngài ưu ái, gửi vào học ở một trường La tinh tại Slagelse. Người ta cho rằng đây không phải là cuộc gặp gỡ tình cờ. Ở tuổi trưởng thành, ông từng nhận trợ cấp của Hoàng gia để có thể đi du lịch và sáng tác.
Tuy nhiên, rất nhiều nhà nghiên cứu phủ nhận khả năng Andersen là một hoàng tử. Họ cho rằng, nếu quả thật là như vậy, tại sao ông không hề nhắc đến điều đó, dù là ám chỉ, trong cuốn tự truyện của mình (cuốn “Chuyện cổ tích của đời tôi”). Người ta cũng đưa ra bản photo sổ đăng ký hộ khẩu của gia đình nhà văn, trong đó ông được làm lễ rửa tội ngày 16/4/1805. Sổ đăng ký ghi rõ: “1h sáng thứ 3 ngày 2/4, người thợ giày Hans Andersen cùng với vợ Anne Anderdates đã sinh hạ một con trai”.
Để làm rõ thân thế của “người kể chuyện cổ tích tài danh”, nhà sử học nổi tiếng Karistad đã nghiên cứu tủ hồ sơ về vua Christian 8, bao gồm cả thư từ, nhật ký… Ông nhận thấy, chuyện vua chúa có con rơi ngoài dân gian, thậm chí với cả phụ nữ bình dân, là rất thường, và 80%-90% các mối tình ngoài luồng này làm xuất hiện các “giọt máu rơi”. Khi đó, các ông hoàng sẽ gửi thư cho mẹ đứa trẻ và chu cấp tiền nuôi con cho đến tuổi trưởng thành, sau đó sắp xếp cho đứa trẻ một công việc liên quan đến hoàng gia. Bản thân vua Christian 8 từng can thiệp để một người con trai ngoài giá thú của mình tên là Frederick Reed làm công việc quản lý hoạt động đi săn của hoàng gia. Thế nhưng, trong hàng đống tài liệu về vị vua này, không có một thông tin nào liên quan đến Hans Christian Andersen và người mẹ thợ giặt có tên Anne Anderdates của ông.
Nhưng dù xuất thân thế nào, với văn chương, Andersen đã có ngai vàng của mình. Vì thế khi ông mất năm 1875 ở tuổi 70, một tờ báo đã viết: “Hôm nay hoàng đế rời ngôi/Ngai vàng chẳng thể ai ngồi…”
![]() |
Nhà văn Andersen. |
Thất tình và “trong trắng”
Có rất ít thông tin về chuyện tình ái của Andersen, và nhà văn thì cả đời không lấy vợ. Nhiều người thậm chí còn đặt ra nghi vấn đề giới tính của ông. Một số học giả khẳng định, ông là “trai tân” cho đến cuối đời. Theo nhà nghiên cứu Bush Kinbai, nếu Andersen có cuộc sống tình dục dù là ít ỏi, điều đó hẳn đã để lại dấu ấn trong tác phẩm. Bản thân Andersen hay nói với bạn bè khi có tuổi: “Tôi vẫn là trai tân nhưng máu tôi nóng bỏng”…
Theo những thông tin ít ỏi có được, người ta biết rằng trái tim Andersen từng lạc nhịp trước nhiều giai nhân, nhưng không một lần được họ đáp lại. Có ít nhất ba phụ nữ được nêu tên tuổi. Người trong mộng đầu tiên là cô bạn cùng lớp Shara Henman, người đã khiến cậu bé Hans tưởng tượng mình là một hiệp sĩ cưỡi bạch mã đến cầu hôn. Khi đã bắt đầu có tiếng, Andersen si mê em gái một người bạn, cô Leboun, và “dội” cho cô vô số thư từ nóng bỏng tình yêu. Nhưng cô gái không muốn gắn bó đời mình với một văn sĩ nghèo nên đã cự tuyệt.
Một người phụ nữ khác cũng chiếm được trái tim Andersen nữ danh ca người Thụy Điển Jenny Lind. Ngày 20/9/1843, Andersen viết nhật ký: “Tôi đang yêu!”. Đó là lời dành cho nàng. Yêu say đắm nhưng quá nhút nhát không dám cất lời thổ lộ, văn sĩ trao thư cho nàng trước khi người đẹp đi xa, rồi bị nàng lờ đi, nửa năm sauuay lại vẫn chẳng nhắc một lời về lá thư đó. Không biết nàng đã đọc thư hay chưa, có lần nhà văn lấy hết can đảm để hỏi: “Hình như cô ghét tôi lắm?” và câu trả lời khiến ông ngập tràn cay đắng: “Muốn ghét được thì trước đó phải yêu đã”.
Chính vì thất tình triền miên như vậy nên những câu chuyện tình do ông sáng tác thường vô cùng đẹp nhưng cũng vô cùng buồn. Andersen cũng tiết lộ, chàng Kenuder thất tình trong truyện “Giấc mơ dưới gốc liễu” có nguyên mẫu chính là ông.
Tuy nhiên, Andersen cũng khiến không ít người phụ nữ (trong đó có nhiều quý bà danh giá) mơ mộng và muốn cùng ông dệt nên một chuyện tình. Nhưng với bản tính nhút nhát, tự ti, ông e rằng họ chỉ bị mê hoặc bởi ánh lung linh của những câu chuyện ông kể chứ không yêu con người ông. Sợ rằng nếu đến gần hơn với những quý bà xinh đẹp này, họ sẽ vỡ mộng và chỉ còn nhìn thấy một người xấu trai, nghèo khó, ông đã chạy trốn tình yêu của họ.
Là nhà văn của những cảm xúc vô cùng tinh tế, sự cô đơn và thiếu vắng tình yêu là nỗi đau khôn nguôi của Andersen, như ông đã tâm sự với một đồng nghiệp khi sắp trở thành cát bụi: “Tôi đã trả bằng một giá đắt, có thể nói vô cùng đắt cho những truyện cổ tích của tôi. Vì chúng, tôi đã chối bỏ hạnh phúc mà lẽ ra tôi được hưởng”.
Trung Thành
@BaoDatViet
—————————————————————————————————————————————————————————————————————————————-
CẬP NHẬT TIN 27-9-11
Việt Nam mua hỏa tiễn siêu thanh của Ấn Ðộ
Việt Nam đang thương thuyết mua hỏa tiễn siêu thanh của liên doanh Ấn Ðộ-Nga chế tạo có tên là Brahmos. Ðồng thời, đang điều đình mua một số máy bay vận tải tầm ngắn của Cộng Hòa Séc để tiếp vận cho các hải đảo.

Bản tin của báo The Asian Age cho hay Việt Nam là một trong 15 nước thân hữu được Ấn Ðộ bán cho loại hỏa tiễn siêu thanh nhanh nhất thế giới, mà mối quan hệ ngày càng thêm chặt chẽ.
Theo nguồn tin hiện các cuộc thảo luận đang tiến hành nhưng chưa có các đề nghị cụ thể. Hỏa tiễn Brahmos có tầm bắn xa 300 km với vận tốc nhanh gấp 3 lần tốc độ âm thanh và mang đầu đạn nặng 300 kg. Người ta không rõ Việt Nam điều đình mua loại phiên bản nào hoặc cả 3 loại và số lượng bao nhiêu.
“Các cuộc thương thảo không chính thức đang diễn ra nhưng chưa có đề nghị mua cụ thể.” Nguồn cung cấp tin của báo The Asian Age giấu tên tiết lộ. “Bất cứ sự sở hữu hỏa tiễn Brahmos nào cũng có giá trị vô song đối với Việt Nam và cũng đồng thời căng cường khả năng quốc phòng sẵn sàng cho họ.”
Ðược biết, loại hỏa tiễn này chủ yếu dùng để chống tàu chiến, có thể được phóng đi từ chiến đấu cơ, từ tàu chiến hay từ căn cứ trên bờ. Cho tới nay, hỏa tiễn Brahmos chưa bán cho nước thứ ba nào dù có một số nước biểu lộ ý muốn sở hữu.
Các cuộc thương thuyết mua sắm hỏa tiễn Brahmos được xì ra trong bối cảnh hai nước Việt Nam và Ấn ký thỏa thuận hợp tác dò tìm dầu khí trên biển Ðông và bị Trung Quốc liên tục đe dọa, áp lực phải hủy bỏ. Bắc Kinh coi biển Ðông (họ gọi là Nam Hải) như “cái ao” sau nhà.
Bất cứ nước nào trong khu vực tranh chấp với Trung Quốc cũng đều bị chèn ép, đe dọa mà Việt Nam là nạn nhân nặng nhất. Ngư dân Việt Nam đánh cá gần quần đảo Hoàng Sa bị đâm chìm tàu hoặc bị bắt đòi tiền chuộc. Tàu dò tìm dầu khí của Việt Nam hoạt động ngay trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Công Ước Quốc Tế về Luật Biển (UNCLOS) mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên, bị Trung Quốc cắt cáp.
Mười ngày trước, Ngoại Trưởng Ấn Ðộ S.M. Krishna đến Việt Nam thảo luận hợp tác song phương nhiều mặt với Việt Nam. Hồi năm ngoái, Bộ Trưởng Quốc Phòng Ấn AK Anthony và Tổng tư lệnh quân đội Ấn Ðộ, Tướng VK Singh cũng đã đến Việt Nam. Năm 2009, Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã sang thăm Ấn Ðộ.
Ấn Ðộ đã cung cấp cho Việt Nam một số lượng lớn phụ tùng để tân trang khoảng 100 chiếc chiến đấu cơ Mig 21 già nua cũng như phụ tùng cho mấy chiếc tàu chiến mua từ hồi còn Liên Xô. Tin tức thời sự gần đây nói Ấn Ðộ huấn luyện cho Việt Nam tác chiến tàu ngầm Kilo mà Việt Nam mua của Nga, trong khi Ấn cũng đã mua từ trước và có nhiều kinh nghiệm.
Trong một bản tin khác của báo Straits Time ở Singapore, Việt Nam cũng đang điều đình để mua 12 vận tải cơ tầm ngắn Let L-410 của Cộng Hòa Séc. Mục đích chính yếu là tiếp vận cho các lực lượng trú đóng ở các hải đảo Trường Sa.
Ðây là loại phi cơ vận tản bán phản lực cỡ nhỏ với 2 động cơ, tầm hoạt động tối đa 770 hải ly (hay 1,430 km).
Hồi năm ngoái Việt Nam đã được Cộng Hòa Séc giúp nâng cấp một loại hệ thống radar P-18 do Nga chế tạo, từ sử dụng kỹ thuật ký hiệu thông thường sang kỹ thuật số.
===============================================================
Công an đề nghị truy tố lãnh đạo Vinashin

Chín quan chức cao cấp của Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) bị đề nghị truy tố sau khi công an Việt Nam nói hoàn tất điều tra giai đoạn một tại tập đoàn nhà nước lớn thứ hai đất nước.
Truyền thông nhà nước đưa tin thiệt hại trong vụ án được mô tả là “Cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế” là khoảng hơn 900 tỷ VND (khoảng 43 triệu USD).
Chín quan chức của Vinashin bị buộc tội mua ba tàu cũ mà không có sự chấp thuận của chính phủ và mua sắm thiết bị lạc hậu để đầu tư hai nhà máy nhiệt điện.
Báo chí trong nước cho hay cơ quan điều tra Việt Nam hiện đang tiếp tục làm rõ những sai phạm khác tại Tập đoàn Vinashin cũng như hành vi tham ô tài sản.
Vinashin, tập đoàn bên bờ vực phá sản vào năm ngoái, đã và đang được tái cơ cấu theo hướng chuyển một số tài sản, dự án của Vinashin về Tập đoàn Dầu khí (PVN) và Tổng Công ty Hàng hải (Vinalines).
Báo cáo của Tranh tra Chính phủ hồi tháng Sáu năm nay ghi nhận nợ phải trả của Vinashin là 96.700 tỷ VND (4.6 tỷ đôla), cao hơn mức 85.000 tỷ VND (4 tỷ đôla) đưa ra trước đây.
Thanh tra Chính phủ trong báo cáo này cảnh báo tập đoàn sẽ phải trả thêm hàng trăm triệu đôla tiền phạt hủy hợp đồng.
Vinashin được chính phủ cho nhận 750 triệu đôla, là toàn bộ khoản tiền có được từ lần phát hành trái phiếu quốc tế đầu tiên, và chính phủ đã viết thư ủng hộ Vinashin đi vay 600 triệu đôla từ 15 ngân hàng và 2 quỹ đầu tư nước ngoai.
Trong số này có Standard Chartered PLC, Credit Suisse AG, Depfa Bank PLC và quỹ đầu tư dạng hedge fund là Elliott Advisers Ltd.
Tất cả các hãng đánh giá tín nhiệm như Investors Service của Moody’s, Standard & Poor’s và Fitch Ratings đều đã hạ điểm xếp hạng tín dụng của Việt Nam trong những tháng gần đây, đa phần do các vấn đề tại Vinashin.
‘Đề án thí điểm’

Chính phủ sau đó tuyên bố không trả nợ thay cho Vinashin khi tập đoàn đến hạn mà không đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ.
Giới quan sát nước ngoài bấy lâu nay xem Vinashin kể như dự án với ý đồ riêng của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Một số tiếng nói trong nước muốn ông Dũng phải nhận lãnh trách nhiệm đầy đủ hơn về sự đổ bể của tập đoàn quốc doanh này, bao gồm cả đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm.
Tuy nhiên đề nghị này đã bị bác bỏ và ông Dũng xin lỗi về vai trò của mình trong việc quản lý yếu kém của Vinashin tại một phiên chất vấn ở quốc hội được truyền hình trực tiếp.
Đáng chú ý là kết luận của cuộc điều tra mới nhất, cũng như kết luận của Thanh tra chính phủ hồi giữa năm nay và năm ngoái đều khẳng định điều họ gọi là Vinashin “đã làm trái chỉ đạo của Thủ tướng”.
Báo cáo của Thanh tra Chính phủ hồi tháng Sáu nói về “hàng loạt sai phạm trong việc thành lập mới, tổ chức lại của Tập đoàn Vinashin.
Báo cáo cho hay công ty mẹ Vinashin trong vài năm đã đẻ ra hàng trăm công ty con, đầu tư dàn trải vào các lĩnh vực không thuộc năng lực ngành nghề chính.
Website của Vinashin cho biết “Thủ tướng Chính phủ ngày 04/11/2003 có quyết định về việc thí điểm Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 15/5/2006 cũng đưa ra quyết định phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Kinh tế Vinashin, cũng như ký một quyết định khác nhằm hình thành cơ chế đa sở hữu trong đó có sở hữu Nhà nước là chi phối.
Chính phủ Việt Nam muốn Vinashin trở thành tập đoàn có vị thế lớn trong thị trường đóng tàu quốc tế nhằm có thể cạnh tranh với các tập đoàn đóng tàu lớn mạnh của Trung Quốc, Nam Hàn và Nhật Bản.
Thế nhưng dự án này đổ bể khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra trong năm 2008 và các đơn hàng của công ty bị cắt giảm, làm tê liệt vốn hoạt động, chưa kể những sai phạm quản lý tài chính của chính tập đoàn này.
Giới quan sát nhận định bê bối Vinashin là gánh nặng đối với triển vọng của Việt Nam, gây tổn hại danh tiếng của Việt Nam đối với cả các công ty cho vay quốc tế và có khả năng làm chậm lại dòng vốn đầu tư nước ngoài giúp tạo đà cho nền kinh tế của đất nước này.
=======================================================
Các nhà khoa học tin rằng cafein trong cà phê có thể làm ngăn chặn một số thụ thể hóa học nhất định của não bộ và giúp phụ nữ cảm thấy yêu đời hơn. Những loại cà phê không chứa cafein không có tác dụng này.
Nghiên cứu tiến hành trên 50.000 nữ y tá Mỹ được thực hiện từ năm 1996 đến năm 2006 bởi các nhà khoa học của trường ĐH Y Harvard vừa được xuất bản trên tạp chí Archives of Internal Medicine.
![]() |
Cafe có thể giúp phụ nữ tránh trầm cảm |
Theo kết quả nghiên cứu, những nữ y tá sử dụng thường xuyên 2-3 ly cà phê mỗi ngày giảm được 15% nguy cơ mắc trầm cảm so với những nữ y tá không có thói quen này hoặc uống không thường xuyên và những người uống 4 ly hoặc nhiều hơn sẽ giảm được 20%.
Hiện tại, các chuyên gia đang tiến hành thêm các nghiên cứu để tìm hiểu tại sao cà phê lại có tác dụng như vậy.
Trước khi có kết quả chính xác, các nhà khoa học chưa dám khuyên phụ nữ nên uống nhiều hơn 2 ly cà phê mỗi ngày bởi quá nhiều cà phê cũng khiến tâm trạng căng thẳng và lo lắng.
—————————————————————————————————————————————————————————————————————————————
Phải chăng Mỹ đang gây bất ổn trong khu vực châu Á ?
Douglas H. Paal/The Diplomat
Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ

Tại một thời điểm nhiều chuyển biến, khu vực châu Á-Thái Bình Dương nên gắn bó với các đảm bảo an ninh đã từng mang lại hòa bình và thịnh vượng tương đối. Còn quá sớm để loại Hoa Kỳ ra khỏi các tính toán.
Hoa Kỳ là một yếu tố làm ổn định hay mất ổn định trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương? Khi nghe câu hỏi này, hầu hết người Mỹ, tất nhiên sẽ cho Hoa Kỳ là một yếu tố tạo nên ổn định. Nhưng tôi ngờ rằng hầu hết người Trung Quốc (và một số người khác) sẽ không đồng ý như thế.
Hành vi của Mỹ gần đây ở trong nước và ở nước ngoài có xu hướng củng cố câu hỏi liệu Hoa Kỳ có thực sự là một yếu tố cho ổn định hay không. Một ví dụ gần đây: chính quyền của Tổng thống Obama, sau khi tuyên bố rằng Mỹ đã đặt những nỗ lực chống khủng bố trong một cuộc chiến sai lầm (ở Iraq) thay vì đúng chỗ (ở Afghanistan), công bố “tăng thêm quân tại Afghanistan, chỉ để đồng thời thông báo ý định rút quân của mình. Các nước láng giềng của Afghanistan đã chỉ nghe về sau và bỏ qua về đầu của lời tuyên bố. Sự lệ thuộc của Hoa Kỳ vào Pakistan tăng lên, nhưng mối quan hệ với Islamabad lại nhanh chóng xấu đi.
Chính quyền Obama đã tuyên bố Hoa Kỳ quay trở lại với châu Á và nhiều bạn bè cũ trong khu vực hoan nghênh mối quan tâm trở lại từ Washington. Tuy nhiên, nhiều người Trung Quốc nghi ngờ rằng việc Hoa Kỳ trở lại thực sự chỉ có nghĩa là để tham gia vào một hình thức ngăn chặn Trung Quốc. Thậm chí một số khác còn nói rằng kể từ khi eo biển Đài Loan trở nên bình lặng hơn với việc tổng thống Mã Anh Cửu lên nắm quyền, Hoa Kỳ đang biến vùng biển Nam Trung Hoa thành một áp lực mới để kiểm soát Trung Quốc.
Ở quốc nội, tiến trình lập pháp của Mỹ có vẻ không xuông sẻ. Các cuộc tranh cãi mới nhất về nợ trần của Mỹ dường như không đạt kết quả, trong khi lại còn chuyển hướng chú ý của các nhà lập pháp ra khỏi việc thực hiện những điều quan trọng cần phải làm. Điều này đã góp phần vào các tính toán thời Hậu- Đại suy thoái cho rằng Hoa Kỳ đang xuống dốc trong khi Trung Quốc đang đi lên. Quan trọng hơn tất cả những sự việc ấy là Hoa Kỳ hiện đang bước vào một mùa bầu cử mới, có nghĩa là cho đến nay những gì có vẻ hỗn loạn sẽ sớm trở nên trật tự hơn so với những gì sắp xảy ra.
Đóng góp to lớn của Hoa Kỳ vào thời Hậu- Đệ nhị thế chiến bị nhiều người tin rằng đang dần chấm dứt, khi Washington ngày càng thấy mình không thể tài trợ cho bất cứ điều gì ngoài việc phải chăm sóc người già và trả lãi các khoản thanh toán cho các chủ nợ của chúng ta.
Nhưng tôi nghĩ rằng trí khôn ngoan truyền thống có thể được mở ra trong đầu óc người Mỹ – đàng sau đó có thể là các thành tựu lớn nhất của Hoa Kỳ, nhưng có vẫn còn rất nhiều điều khác nữa sẽ đến.
Hoa Kỳ, như chiếc hàng không mẫu hạm mới của Trung Quốc, đến một cách chậm rãi và không phải là nhỏ để có thể thình lình sửa chữa quá trình. Thiếu một hệ thống nghị viện, từ lựa chọn của ông cha của chúng ta, chúng ta sẽ không có được những thay đổi sâu rộng mang lại từ một cuộc bầu cử riêng lẻ. Thay đổi sẽ đến từng bước theo mỗi chu kỳ bầu cử hai năm.
Vào năm 2008, công chúng đã chối bỏ đảng phái của vị tổng thống đương nhiệm và bầu chọn cho sự “Đổi thay mà chúng ta có thể tin tưởng”. Sau đó, công chúng nhận thấy sự thay đổi từng hứa hẹn đã không xảy ra và bình chọn một số lượng đại biểu đối lập lớn hơn bao giờ hết của Quốc hội vào năm 2010. Và hiện nay, chúng ta đang sẵn sàng cho cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2012.
Các phán quyết về tương lai của Hoa Kỳ ngày hôm nay sẽ có ít giá trị nếu chúng không cố gắng để tính đến các kết quả trong hai cuộc bầu cử tới. Ngày hôm nay, đánh giá về tương lai của Hoa Kỳ là quá sớm, không phải vì chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao nhưng vì chúng ta biết hai chu kỳ bầu cử tiếp theo có thể sẽ mang lại thay đổi nhiều hơn chứ không phải chỉ mang lại một tính chất liên tục hơn.
Kể từ những ngày khởi đầu của Hoa Kỳ, thay đổi sau các cuộc khủng hoảng đã không từng xảy đến một cách nhanh chóng. Franklin Roosevelt phải mất 12 năm và một cuộc chiến tranh thế giới để có được nước Mỹ đi lên một lần nữa sau khi đã suy giảm từ vị trí là chủ nợ xuất khẩu hàng đầu của thế giới và trong cuộc Đại suy thoái. Ronald Reagan phải mất bốn năm sau bốn năm của Jimmy Carter để xây dựng lại xung lực mà Mỹ đã bị mất trong nạn lạm phát năm 1970 và cuộc triệt thoái khỏi Việt Nam.
Hoa Kỳ là một đất nước cởi mở, và sau sự thất bại của các định chế quốc tế nhằm bảo vệ hòa bình và phát triển đầu thế kỷ 20, Hoa Kỳ dẫn đầu công cuộc xây dựng sự cởi mở và chào đón các định chế sau Thế chiến II, chẳng hạn như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, tỉ giá Bretton Woods và những tổ chức khác.
Thành tích này của Hoa Kỳ có lẽ là công cuộc ổn định hóa và chống lại sự mất ổn định lớn nhất lịch sử nhân loại. Hoa Kỳ chấp nhận thay đổi như là một phần không thể thiếu của sự ổn định. Vứt bỏ loại ổn định lỗi thời để ủng hộ sự ổn định của tăng trưởng và phát triển. Và đất nước này đã cho thấy rằng thế giới sau khi chiến thắng và đánh bại một cuộc chiến tranh bạo lực nhất trong lịch sử vẫn có thể sống trong hòa bình và thịnh vượng với nhau.
Nhưng trong các quan điểm khác, các phê phán về hiện diện an ninh của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã xem đât nước này như một loại di tích lỗi thời được bảo tồn từ thời Chiến tranh Lạnh, một thời đại đã kết thúc hơn 20 năm trước đây. Các liên minh và quan hệ đối tác với các nền kinh tế phát triển nhanh nhất của châu Á, những lực lượng từng một thời là những phương tiện không thể thiếu để bảo đảm sự phát triển thành công của họ, giờ chỉ được xem như sự tập trung năng lượng của Mỹ vào những xã hội không thưc thời, không sánh bước kịp – hoặc ngay cả không chống lại nổi – với năng động của một nước Trung Quốc đang nổi lên, một cuộc tái nổi dậy của Trung Quốc cho sự vượt trội ở châu Á.
Những phê phán khác còn có thể vạch ra những thiếu sót của Hoa Kỳ trong cuộc xung đột Ấn-Trung, miễn cưỡng kéo dài sự hòa giải đến cuối cuộc nội chiến Trung Quốc và thiếu thành công trong việc giúp Hàn Quốc thống nhất như thể những bằng chứng của việc Hoa Kỳ không góp phần bình ổn châu Á trong dài hạn.
Nhưng hãy để tôi thách thức hai giả định vùi sâu trong những phê phán này về vai trò an ninh và chính trị đương đại của Hoa kỳ trong khu vực.
Đầu tiên là khu vực đã đạt được một sự ổn định nội bộ vốn không còn cần đến Hoa Kỳ phải đóng một vai trò quá nổi bật. Thứ hai là ngay cả khi bùng nổ bất ổn, vẫn có đủ sự gắn kết và hợp tác nội bộ trong khu vực để xử lý được những cội nguồn mới của sự bất ổn định mà không cần có sự can thiệp từ bên ngoài. Theo logic này, sự tham gia của Mỹ có ý nghĩa là không được chờ đón và không cần thiết.
Xem xét giả định đầu tiên, thật đáng để nhìn vào triển vọng cho quá trình chuyển đổi của Trung Quốc tiếp diễn trong một hoặc hai thập kỷ tới. Nhiều nhà quan sát, thương nhân, nhà phân tích bị ấn tượng bởi các tiến bộ lớn lao mà người dân Trung Quốc đạt được trong 30 năm qua, tự nhiên có xu hướng dự đoán sự tiếp tục tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội sẽ thẳng tiến vào những thập kỷ tới.
Là một người Mỹ từng tham dự mật thiết với châu Á trong bốn thập kỷ qua, tôi có xu hướng thận trọng hơn trong đánh giá của tôi về tương lai của Trung Quốc. Chúng ta đã nhỉn thấy những dự báo như vậy trong những năm 1980 về tương lai của Nhật Bản. Ngày nay, một số người từng viết về một “G-2” của Hoa Kỳ và Trung Quốc và đã viết trong những năm 1980 về việc Tokyo, Washington sẵn sàng lãnh đạo khu vực – và toàn cầu – như thế nào – sẽ diễn ra trong những năm tới.
Trong khi đó, tất cả các nền kinh tế “con hổ châu Á” trong phần sau của thế kỷ 20, đã có thời kỳ tăng trưởng của họ, theo sau bởi sự điều chỉnh các sai trật để hạ thấp tốc độ tăng trưởng và các mô hình phát triển không còn tập trung được đến việc tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp cho đầu tư dẫn đến tăng trưởng và công nghiệp hóa. Trung Quốc đúng là những câu chuyện thành công mới và lớn nhất.
Nhưng tôi tin rằng một khi giai đoạn đầu tư hiện tại đạt đến đỉnh điểm của sự suy giảm vốn liếng nhanh chóng, mà có lẽ sẽ xảy ra trong vòng năm năm tới hoặc lâu hơn, các nhà lãnh đạo Bắc Kinh cũng sẽ phải đối đầu với sự cần thiết phải thay đổi cách quản lý sai trệch. Chương trình năm năm lần thứ 12 của Trung Quốc đã cố gắng vật lộn với quá trình chuyển đổi này, nhưng rõ ràng là đang gặp phải trở ngại từ trong hệ thống, vốn chỉ có thể xảy ra những đề kháng với sự thay đổi.
Các nền kinh tế con hổ, mỗi nơi trong cách riêng của mình, cũng đã phải phát triển các tổ chức chính trị và văn hóa để quản lý các quá trình chuyển đổi kinh tế mà họ đã trải qua. Kết quả là một nền chính trị đa phương sẽ phát triển ở các bước khác nhau, theo những cách khác nhau ở các quốc gia khác nhau, nhưng thời gian qua ngày càng mang lại niềm kỳ vọng gia tăng từ công chúng. Về vấn đề này, Trung Quốc, phải đối phó với những thách thức quy mô lớn nhất của bất cứ quốc gia nào, vẫn còn một chặng đường dài trước khi bước vào giai đoạn cần thiết của sự phát triển và cải cách chính trị này.
Thực tế của việc dân Trung Quốc nuôi dưỡng một ý thức mạnh mẽ về bất mãn dân tộc, và việc Trung Quốc có một số tranh chấp chưa giải quyết được với các nước láng giềng chỉ làm rối rắm tất cả những đau khổ và phí tổn của sự thay đổi. Sau một màn hiển thị ngoạn mục của sự khôn khéo về ngoại giao và chiến lược với các nước láng giềng từ cuối những năm 1990 cho đến khoảng năm 2007, chiều kích cứng rắn của nền ngoại giao Trung Quốc đã bắt đầu vượt trội hơn phần mềm mỏng, và kể từ đó khu vực đã có phản ứng.
Nên có một chút ngạc nhiên về Trung Quốc, hoặc ở nơi khác, rằng sự trở lại châu Á của Mỹ sau phiền nhiễu của họ ở Trung Đông đang được chào đón, từ Hàn Quốc đến Indonesia và Malaysia, Ấn Độ và cả Úc ở giữa. Rằng điều này đã xảy ra tại một thời điểm khi Trung Quốc cảm thấy tự hào sau khi đã đạt được những thành công nổi tiếng – như Thế vận hội, tăng trưởng kinh tế và ổn định sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hội chợ triển lãm Thượng Hải – chỉ tăng thêm những cảm xúc vào thời điểm này.
Khi những khó khăn chuyển đổi kinh tế mà Trung Quốc gặp phải dần lộ ra, tôi tin rằng những gì đang có vẻ là cơ hội kinh doanh của các nước ở Trung Quốc, có thể trở thành các vấn nạn hoặc thậm chí những bất lợi. Các thử thách đối với hệ thống kinh tế và chính trị của Trung Quốc và những tiềm năng vọng động của họ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, tất cả sẽ củng cố xu hướng ngày càng tăng đến việc các nước “che chắn” mối quan hệ quốc tế của họ kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh . Đối với các nước láng giềng của Trung Quốc, trong không khí thay đổi này – và tôi sẽ đánh giá ngay cả đối với chính bản thân Trung Quốc – thế đối trọng và sự hiện diện của Mỹ sẽ đa phần giúp vào ổn định hơn là gây ra bất ổn.
Về giả định thứ hai – rằng châu Á đã đạt đến một thời điểm gắn kết, khi sự hiện diện của Mỹ và các hoạt động không còn là cần thiết so với trước đây – tôi chỉ có thể nói rằng tôi mong ước được là như thế. Đôi khi, những người phê bình Hoa Kỳ nói rằng người Mỹ rất gắn bó với các mạng lưới đồng minh “phối hợp” (tạm dịch: hub and spokes-ND) của mình khiến họ đang ngăn cản con đường tiến bộ về kiến trúc an ninh để xử lý các vấn đề của khu vực.
Tuy nhiên, những gì từng xảy ra không hỗ trợ một giải thích như vậy. Khi Úc hình thành Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hoa Kỳ cung cấp hỗ trợ vô điều kiện. Nhưng khi Mahathir bin Mohamad đã đề xuất một “khu vực Đông Á Caucus,” Washington và bạn bè của mình đã nhìn đó như một nỗ lực chia rẽ nhằm buộc lực lượng Hoa Kỳ phải ra khỏi các vấn đề của châu Á – Thái Bình Dương một cách không tự nhiên.
Hoa Kỳ cũng tham gia trong các nền tảng của cuộc Đàm phán Lục quốc nhằm phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên theo mệnh lệnh của Trung Quốc. Cho đến nay, các kết quả khác nhau của quá trình này đã dạy chúng ta rất nhiều bài học, nhưng đã không khiến Hoa Kỳ phải từ bỏ quá trình. Thật vậy, với suy tính của Trung Quốc đang diễn ra, ngày nay Hoa Kỳ đang dành cho các đàm phám một định dạng khác để tự chứng minh.
Một chính quyền Bush vướng bận với các khó khăn đã khó có thể trả lời có hay không đến khái niệm về Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), nhưng chính quyền mới của Obama cũng đã đề nghị để cho hội nghị này một cơ hội thử nghiệm, trong khi ký Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại như là một điều kiện tiên quyết có thể chấp nhận . Nhưng các diễn đàn đa phương vẫn còn ở giai đoạn phôi thai và chưa chứng minh sức mạnh và độ bền của chúng. Cho đến khi chúng ta có được các cơ chế an ninh và kinh tế trong khu vực khiến tạo nên các kết quả quan trọng đáng tin cậy theo thời gian, khi ấy sẽ quả là điên rồ để mà từ bỏ các cấu trúc và những thói quen từng mang châu Á đến thời điểm này của sự tương đối thành công ngày hôm nay.
Hơn nữa, căn cứ vào việc một đảng phái lớn nhất đối với cuộc đối thoại Châu Á-Thái Bình Dương có vẻ phải đối diện với những thách thức chuyển tiếp quan trọng, điều này nhấn mạnh lên tính liên tục trong an ninh sẽ thận trọng hơn.
Do đó, trở lại ý tưởng rằng Hoa Kỳ có vẻ đi xuống (và một số có thể đã nói thẳng ra như vậy) vì hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và sự bế tắc trong nước. Tôi muốn nhắc nhở rằng người châu Á không nên đánh giá sớm về Hoa Kỳ – và tôi cũng không nghĩ rằng họ sẽ hành động như vậy.
Hoa Kỳ vẫn còn là một quốc gia cực kỳ giàu có và công nghệ tiên tiến. Tính dẫn đạo của đất nước này trong hầu hết các lĩnh vực đang mở rộng ra hơn là thu hẹp lại, mặc dù vẫn cần phải tìm cách điều chỉnh sự phân bố của cải rộng lớn của mình, không thông qua quyết định của nhà nước đối với cá nhân, nhưng bằng cách tạo ra ưu đãi cho các cá nhân để triển khai tài sản của họ trong những phương cách chặt chẽ và có hiệu quả. Quá trình đó dù đang được tiến hành trong một cách mạnh mẽ và có vẻ như không khả thi. Nhưng tôi vẫn tin tưởng rằng nó sẽ mang lại một nước Mỹ mà sự hiện diện và tham dự của mình sẽ được xem như là một đóng góp cho sự ổn định hơn một yếu tố cho bất ổn.
Douglas H. Paal là phó chủ tịch nghiên cứu tại Quỹ Carnegie cho Hòa bình Quốc tế. Đây là một phiên bản thay đổi của nội dung một bài viết từng giới thiệu ở đây.
Nguồn: The Diplomat
@X-Cafe
—————————————————————————————————————————————————————————————————————————————–