KHI TÓC KHÔNG CÒN XANH

Nguyễn Thị Thanh Dương.

Tôi thu xếp ít quần áo và vài thứ lặt vặt cần thiết vào trong chiếc va ly nhỏ, sửa soạn cho một chuyến đi vài ngày. Bác ruột tôi vừa qua đời tại thành phố Wichita, tiểu bang Kansas. Gia đình bác mới từ tiển bang Washington D.C. dọn về đây được mấy tháng nay.

Lòng tôi buồn vời vợi đang nghĩ nên nói cách nào cho đám anh chị em họ của tôi về chuyện hạnh phúc của gia đình mình đang đến hồi sụp đổ?

Chồng tôi về tới nhà, thấy tôi bên chiếc va ly anh chỉ hỏi một cách bình thường:

– Em sắp đi đâu?

– Bác Lân em vừa qua đời, em phải về tham dự tang lễ.

Anh lạnh lùng, ngắn gọn:

– Cho anh gởi lời chia buồn đến họ.

Chúng tôi đang làm đơn ly hôn. Anh, người đàn ông thành đạt của tôi cũng là một người bay bướm trăng hoa. Suốt thời gian hơn 10 năm chung sống tôi đã cố gắng chịu đựng vì các con, vì muốn gìn giữ tài sản của gia đình không thể để mất vào tay người đàn bà khác.

Nhưng cho tới hôm nay thì sức chịu đựng của tôi đã cạn kiệt, như giòng nước lũ làm vỡ bờ chảy xối xả những giận hờn và tủi nhục. Anh đã về Việt Nam du lịch nhiều lần và gian díu với một cô gái trẻ đẹp, chính anh thẳng thắn đề nghị ly hôn với tôi, để cưới cô gái đó làm vợ.

************

Sau những ngày tang lễ bác, và những lần tâm sự với các anh chị họ về tình trạng gia đình của tôi hiện nay. Các anh chị đều nói hạnh phúc của tôi không thể cứu vãn được nữa, chia tay là giải thoát cho cả hai.

Wichita thành phố không qúa lớn cũng không qúa nhỏ, và cũng chẳng có gì hấp dẫn tôi vào lúc này, mà còn hai ngày nữa tôi mới phải trở về nhà, dù là ngôi nhà bất hạnh, có người đàn ông tôi từng yêu thương, qúy trọng, nay đã quay mặt phản bội hất hủi tôi.

Đến tiểu bang Kansas, thành phố Wichita lại không xa mấy thành phố Liberal, chỉ 4 tiếng lái xe, làm tôi bỗng dưng tha thiết nhớ đến thành phố Liberal, nơi mà ngày đầu tiên đến Mỹ gia đình chúng tôi đã ở đây, và trong ký ức tôi mơ hồ nhớ đến John, người bạn thân thuở đó. Thuở tôi mới 15 tuổi.

Gia đình chúng tôi đi vượt biển, đến trại tị nạn Bidong, Mã Lai. Sau 9 tháng gia đình chúng tôi đến Mỹ nhờ sự bảo trợ của một gia đình người Mỹ. Đó là ông bà Smith, nhà truyền giáo, họ chỉ có 1 người con trai, anh tên John, lớn hơn tôi 1 tuổi.

Nhà chúng tôi ở không xa căn nhà của ông bà Smith, nơi hứơng Nam của thành phố Liberal nhỏ bé. Nhà ông bà Smith đúng là một căn nhà nông thôn, mảnh sân rất to rộng phía trưóc khi mùa Xuân đến là trồng trọt dưa hấu, xung quanh nhà những cây lê, cây táo và cây đào lần lượt thi nhau nở hoa.

Tôi không có ai để chơi ngoài John hay sang nhà trò chuyện, mấy đứa em tôi cũng thích xúm vào hóng chuyện, và thỉnh thoảng tôi cũng chạy sang nhà John vào những lúc cây có trái chín trên cành. Ôi, tôi mê cây táo chẳng biết loại táo gì mà cành cây khi chĩu trái thì xà xuống thấp đến nỗi tôi chỉ việc ngồi xổm mà tha hồ hái trái. Lại còn vườn dưa hấu trước sân, tôi hay cùng John háo hức vạch tìm trong đám lá những trái dưa hấu nhỏ vừa hiện ra và thích thú theo dõi chúng cho đến khi lớn lên, to tròn vươn lên khỏi đám lá. Không gì ngon ngọt bằng trái dưa hấu vừa cắt cuống trong vườn, bổ ra ăn ngay tại chỗ trong một buổi trưa hè mà John thường làm cho hai đứa cùng ăn.

John nói chuyện với tôi đủ thứ, từ những chuyện hàng ngày của anh cho đến những ước mơ mai sau, anh lấy vợ thì sẽ về sống ở một nông trại. Anh say sưa tả cái nông trại của gia đình anh trước kia ở tiểu bang Texas, có một căn nhà gỗ dài, bên cạnh là chuồng bò bằng hàng rào gỗ sơ sài, anh khoe biết cách vắt sữa bò.

Anh đã chạy rong trên cánh đồng có khô hay đi trên con đường đất mà mỗi khi gío mùa hè lồng lộng thổi làm tung bụi mịt mù.

Đất Texas khô cằn gần như sa mạc, cả mấy chục acre đất nhà anh chỉ toàn là những bãi cây lúp xúp thấp lè tè chưa vượt qua đầu thàng bé lên 10 như anh thuở đó, và những bụi xương rồng rải rác. Nhưng anh vẫn yêu thích ở nông trại, một trời một cõi như của riêng mình.

Tôi cũng say sưa nghe John kể, như đi lạc vào một cảnh trong phim ảnh, vì nó xa lạ với tôi, chứ tôi chẳng đời nào thích sống ở những nơi khỉ ho cò gáy như thế.

Tôi luôn mơ nước Mỹ với những thành phố nhộn nhịp phồn hoa như New York , tôi sẽ dạo bước trên những vỉa hè có những cửa hàng sang trọng. Cuộc sống sẽ là một chuỗi ngày vui…

Hai năm sống ở Liberal thì cha mẹ tôi quyết định sẽ dọn đi tiểu bang khác, vì tương lai của mấy chị em tôi, để chúng tôi được sống ở thành phố lớn, học ngôi trường lớn và có cộng đồng người Việt Nam đông hơn. Tôi qúa chán thành phố Liberal nhỏ bé này rồi, và đã đợi chờ quyết định này của cha mẹ từ lâu.

Ngay chiều hôm đó, tôi hí hửng chạy sang nhà John để báo tin vui này. Đó là một buổi chiều mùa hè đầy nắng. Tôi quen thuộc thò tay mở chốt cánh cổng bằng rào gỗ ngoài sân, và đi bộ trên con đường dài mà hai bên là vườn dưa hấu đang độ chín. May qúa John có nhà, mà mấy khi John đi vắng đâu, anh thích ở nhà giúp cha mẹ làm vườn, ngoài những khi thỉnh thoảng theo cha mẹ đi truyền đạo trong thành phố vào dịp cuối tuần.

Trời nắng nên tôi và John  không hẹn mà cùng bước về phía những cây táo trồng quanh mảnh sân trước, như chúng tôi thường đến đó ngồi hái trái ăn và tán chuyện gẫu.

Tới một cây táo to lớn, cành rậm rạp mang nhiều trái, John ngồi xuống trước rồi đến tôi. Hôm nay tôi chẳng cần hái những trái táo mà lên tiếng khoe ngay:

–         Anh John, gia đình tôi sắp rời khỏi thành phố này rồi.

Mặt Johm hoảng hốt như vừa nghe một tin kinh khủng lắm:

–         Sao? Em sẽ đi…có thật không?

–         Thật đấy, bố tôi nói cuối tuần này sẽ dọn đi. Ngày mai cha mẹ tôi sẽ sang từ gĩa cha mẹ anh. Bây giờ tôi cũng sang để chào tạm biệt anh.

Giọng John vẫn bàng hoàng:

–         Có bao giờ em trở lại đây không?

Thấy gương mặt buồn lo của John, tôi tội nghiệp hứa liều:

–         Chắc chắn tôi sẽ trở lại thăm John và cha mẹ của John chứ.

John bỗng vụt đứng dậy:

–         Hãy đợi anh ở đây, anh sẽ trở lại ngay.

John chạy bay vào nhà và lại chạy bay ra chỗ cây táo, không để tôi phải đợi lâu, anh đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ có ghi sẵn tên John và số điện thoại nhà anh, mà chắc là anh vừa ghi vội, giọng anh tha thiết như năn nỉ:

–         Em hãy giữ lấy số điện thoại này, khi nào đến nơi ở mới thì liên lạc với anh. Em hứa đi!

Tôi cảm động, một lần nữa tôi hứa liều:

–         Vâng, khi có nơi ở mới tôi sẽ gọi cho anh.

–         Đừng thất lạc nhau nhé. Em hứa đi!

–         Vâng, không bao giờ !

***********

Nhưng khi đến California thì tôi bận rộn với cuộc sống mới, và những lời hứa vội vàng với John bỗng chỉ là một trò đùa, tôi vứt đi mảnh giấy mà anh đã kỳ vọng trao vào tay tôi, đã dặn dò tôi và chắc là đã chờ đợi mỏi mòn kể từ ngày tôi rời thành phố nhỏ!

Nối lại nhịp cầu liên lạc với John làm gì trong khi ở cái tuổi 17 tôi mơ hồ hiểu John đã yêu thích tôi, mà tôi dù có cảm tình với anh thì tôi cũng không thể nào lấy anh, vì mộng ước của anh và tôi hoàn toàn trái ngược. Đành rằng gia đình anh là người ơn của gia đình tôi, họ hiền lành đạo đức, John sẽ là người chồng, người cha tốt như tấm gương của cha mẹ anh, nhưng tôi không thể lấy người chồng ít học, làm nông trại và tôi chỉ quanh quẩn sống với chồng trong mấy chục acre đất hoang vu, chốn đồng khô cỏ cháy với mấy con gà, con bò như anh đã vẽ ra.

Tôi đã từng nghe chuyện nhà nông khốn khổ, trồng 1 acre bắp chỉ bán được khỏang 80 đồng theo gía sỉ, hay những vụ cam trúng mùa ở Florida, gía cam bán ra mà như cho không, chỉ 50 cent cho một thùng cam to, và những vụ khoai tây trúng mùa ở Idaho cũng xuống gía rẻ bèo như thế.

Giấc mơ tuổi mới lớn của tôi là giàu sang phú qúy, lấy người chồng có địa vị, học cao hiểu rộng.

Ở thành phố mới tôi đã miệt mài học hành, chính bản thân tôi cũng sẽ vươn cao. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đi làm và kén chọn người chồng tương lai. Tôi đã bỏ qua nhiều cơ hội lập gia đình vì chê họ không xứng đáng với tôi, cho đến khi gặp người chồng hiện tại. Năm ấy tôi đã 30 tuổi, chồng tôi là một người thành đạt trong học vấn và trong kinh doanh. Tôi đã đạt được ước mơ và vui hưởng trong hạnh phúc trong vài năm đầu.

************ .

Tôi quyết định thuê xe để lái từ thành phố Wichita đến thăm thành phố Liberal, nói cho đúng hơn để thăm lại gia đình ông bà Smith và John của ngày xưa xem họ thế nào?

Sau 4 giờ lái xe, tôi đã trở về nơi chốn cũ.

Thanh phố nhỏ, đường kính lớn khỏang hai miles thì có gì là khó mà không tìm ra ngôi nhà của ông bà Smith nơi cuối phố, dù tôi đã xa cách hơn 20 năm rồi. Tôi hỏi thăm người ta nói nhà ông bà truyền giáo Smith vẫn ở chỗ cũ.

Khi tôi xuống xe, đứng ngẩn ngơ nơi cánh cổng rào gỗ năm xưa, bỗng thấy ngậm ngùi, có thể cánh cổng gỗ đã từng hư cũ, từng thay đổi, làm lại cái khác, và cái chỗ mở chốt cửa không phải là miếng gỗ mà tay tôi đã từng chạm vào năm xưa, nhưng vẫn giống thế, và như thể vẫn chờ đợi tôi chạm tay vào.

Tôi run run thò tay vào mở chốt cửa, lại ngậm ngùi hơn vì ngẫu nhiên bây giờ đang là mùa hè, hai bên lối đi của mảnh sân vẫn trồng dưa hấu, lá xanh rậm rạp, và xung quanh vẫn là những cây đào, cây lê, cây táo… Thế giới đổi thay bao nhiêu thứ mà nhà ông bà Smith dường như không hề thay đổi.

Tôi đi vội trên con đường dài, hồi hộp nhìn chăm chăm vào ngôi nhà trước mặt đang đóng cửa, không còn tâm trí nào nhìn ngắm vườn dưa hấu xem có nhiều trái hay không. Rồi tôi gõ cửa và chờ đợi.

Mãi sau mới có tiếng mở cửa, hiện ra trước mặt tôi là bà Smith, bà đã gìa đi -dĩ nhiên-  Sau vài phút ngỡ ngàng nghe tôi tự giới thiệu thì bà đã nhận ra tôi, bà mời tôi vào nhà, rưng rưng nước mắt bà trách móc:

–         Thì ra là cô, tại sao mãi hôm nay cô mới trở lại đây? John đã chờ đợi cô mấy năm trời.

Tôi xúc động và nước mắt cũng rưng rưng như bà Smith:

–         Tôi xin lỗi, tôi vô cùng xin lỗi vì đã không thực hiện điều đã hứa với John

–         Cô đâu có biết, ngay khi gia đình cô đi được một tuần là John đã chờ đợi cô gọi phone về từng ngày.  Nó luôn tin tưởng cô sẽ gọi phone cho nó và một ngày nào cô sẽ trở về Liberal.

Bà Smith gục đầu xuống và khóc nấc lên, kể tiếp:

–         Nó đau khổ và héo hon cho đến khi hoàn toàn tuyệt vọng…

Tôi vuốt ve cánh tay bà an ủi như an ủi cho chính mình, tôi cao giọng hỏi thăm:

–         Số phận tôi và John không thể gần nhau thôi mà. Bây giờ anh ấy ra sao?

–         Sau đó John lấy vợ, Christine là con gái một nhà truyền giáo bạn thân của vợ chồng tôi, cô gái hiền lành ngoan ngoãn và rất yêu John, đã làm lành vết thương lòng của John. Nhà vợ chồng nó cũng ở gần đây.

–         Thế anh ấy không muốn sống ở nông trại như anh ước mơ sao?

Bà Smith lau nước mắt, thoáng một niềm vui:

–         Đó chỉ là ước mơ của một thằng bé tuổi vị thành niên, một thằng bé nhà quê, mà suốt thời thơ ấu sống nơi trang trại. Khi John và Christine yêu nhau, cả hai cùng vào đại học. Họ đã tốt nghiệp y khoa và đang hành nghề bác sĩ ngay tại thành phố Liberal này.

Tôi ngạc nhiên và vui mừng reo lên:

–         Không ngờ John học gỉoi và có chí đến thế!

–         Tôi tin là nhờ có tình yêu của Christine.

–         Với nghề nghiệp bác sĩ cả hai vợ chồng John có thể đi đến những thành phố lớn lập nghiệp dễ dàng, nhưng sao họ vẫn ở lại nơi đây?

–         Chúng tôi đã quen sống ở thành phố nhỏ, từ ngày ông Smith mất đi, John càng không muốn xa mẹ. Nhưng nó dù bận hành nghề, vẫn không quên phụ giúp tôi gieo trồng và làm vườn mỗi khi mùa Xuân về. Đó là niềm yêu thích của John.

Tôi đứng dậy chào tạm biệt bà Smith. Bà bỗng nắm cánh tay tôi, lo lắng dặn dò:

–         Phải đấy, cô nên về ngay đi, và xin cô hãy hứa với tôi một điều.

Tôi nói với tất cả chân tình:

–      Tôi xin hưá bất cứ điều gì tôi có thể.

–         Cô hãy đi và đừng bào giờ trở về đây nữa, bao nhiêu năm qua, vết thương lòng của John đã lành. Tôi tin là John đã quên cô, nó đang sống yên vui hạnh phúc bên vợ con. Nhưng nếu cô xuất hiện sẽ gợi lại nỗi đau cũ.  Cô hãy hứa lại một lần nữa cho tôi yên lòng.

Tôi chậm rãi nói từng lời rõ ràng cho bà Smith nghe rõ:

–         Tôi xin hứa đây là lần cuối cùng đến đây. Thôi, xin chào bà

Tôi đi ra cửa, buớc trên con đường thân quen của thuở  tôi 17 tuổi lòng đầy tham vọng, và John 18 tuổi hãy còn ngây thơ và ngốc nghếch, muốn tán tỉnh tôi mà đưa ra một ước mơ nghèo nàn, đơn giản.

Tình yêu chân thật của anh John nhà quê chẳng mấy khi đi đâu xa khỏi cái tiểu bang Kansas với những cánh đồng lúa mì mênh mông, chỉ là một trò cười đối với tôi.

Nhưng hôm nay, ở cái tuổi không còn trẻ nữa, khi mái tóc không còn xanh nữa, sau những vật chất phù hoa tôi đã nếm biết bao vị đắng, trải qua bao phũ phàng của tình nghĩa vợ chồng. Và sau cuộc trò chuyện với bà Smith, tôi chợt nhận ra một tình yêu hồn nhiên trong sáng của John dành cho tôi, và cái hạnh phúc mà bây giờ vợ của John đang hưởng tôi biết là vững chắc, đẹp đẽ biết bao nhiêu, điều mà tôi không hề có.

Khi ra đến ngoài cổng, tôi quay lại khép cánh cổng rào bằng gỗ. Tôi biết mình vừa khép lại một qúa khứ, một bầu trời xanh, và mất nó vĩnh viễn.

—————————————————————————————————————————————————————————————————————————————–

CẬP NHẬT TIN 27-9-11

Lớp học yoga cười bên hồ Hoàn Kiếm lên báo Anh

 

===================================================================

Forbes ca ngợi Chủ tịch tập đoàn AA

Trong khi đó, tạp chí danh tiếng Forbes số ra tháng 8/2010 xuất bản tại khu vực châu Á dành hẳn một trang giới thiệu về doanh nhân Nguyễn Quốc Khánh, người sáng lập và là Chủ tịch tập đoàn AA, công ty hàng đầu về trang trí nội thất và sản xuất các mặt hàng đồ gỗ tại Việt Nam.

Forbes đánh giá, không có nhiều công ty Việt Nam có thể cạnh tranh ở nước ngoài nhưng doanh nhân Nguyễn Quốc Khánh là một ngoại lệ.

Ông Khánh được tạp chí Forbes ca ngợi.

Khởi nghiệp cách đây 20 năm nhờ biết nắm bắt thời cơ, ý chí nỗ lực và kỹ năng ngôn ngữ, giờ ông Khánh nắm trong tay một công ty nội thất hàng đầu đang chiếm ưu thế trong thị trường nội địa với lĩnh vực thiết kế nội thất cao cấp và chiếm tới 80% số hợp đồng với các khách sạn 4 và 5 sao trên cả nước.

Hơn 5 năm qua, AA vượt biên giới, nhận các đơn đặt hàng làm cho các khách sạn, khu nghỉ dưỡng, nhà ở từ InterContinental ở Kiev, Ukraine đến Trump SoHo ở New York. Công ty của ông Khánh hoàn thành hàng chục dự án khách sạn 5 sao ở Mỹ, Trung Đông, châu Âu và đặc biệt là châu Á.

Ông Khánh chia sẻ, ông có kế hoạch đưa công ty tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam vào đầu năm tới. Ông cũng đặt mục tiêu nâng vốn để mở rộng khả năng sản xuất và đẩy mạnh hoạt động bán lẻ đồ gỗ. Ông hy vọng những nỗ lực này sẽ nâng số doanh thu cho AA lên 100 triệu USD trong ba đến bốn năm tới.

======================================================================

Người gốc Việt đầu tiên được đề cử vào tòa phúc thẩm liên bang Mỹ

Thẩm Phán Jacqueline H. Nguyễn, người Mỹ gốc Việt đầu tiên làm thẩm phán liên bang, vừa được Tổng Thống Barack Obama đề cử vào Tòa Kháng án Liên bang Khu vực 9.

Thẩm Phán Jacqueline H. Nguyễn
Thẩm Phán Jacqueline H. Nguyễn.

Tòa Kháng án Liên bang khu vực 9 có thẩm quyền trên mọi vụ kháng án từ các tòa liên bang trong khắp miền Tây nước Mỹ, bao gồm các tiểu bang California, Arizona, Nevada, Idaho, Montana, Oregon, Washington, Alaska, Hawaii, và vùng quần đảo Northern Mariana.

Trong thông cáo báo chí đưa ra hôm 22-9, Nhà Trắng viết: “Hôm nay, Tổng thống Obama đã đề cử thẩm phán Jacqueline H. Nguyen vào Tòa Kháng án Liên bang Khu vực 9”.

“Thẩm phán Nguyễn là một nhà tiên phong, trong suốt sự nghiệp lúc nào bà cũng bày tỏ sự cống hiến vượt bậc phục vụ công chúng”, Tổng thống Mỹ nói. “Tôi rất hân hạnh được đề cử bà vào Tòa Kháng án Liên bang”.

Thẩm Phán Jacqueline Nguyễn bắt đầu làm thẩm phán liên bang từ năm 2009, cũng do Tổng Thống Obama đề cử và được Thượng Viện Mỹ phê chuẩn với số phiếu tuyệt đối 97-0.

Thượng nghị sĩ Diane Feinstein, một thành viên Ủy ban Tư pháp Thượng viện, cho biết bà hài lòng với quyết định của Tổng Thống Obama.

Thượng nghị sĩ Feinstein cũng cho rằng việc đề cử Thẩm phán Jacqueline Nguyễn vào Tòa Kháng án Liên bang khu vực 9 “sẽ được phê chuẩn nhanh chóng”.

Trước đây, Tổng thống Obama đã đề cử một người khác vào ghế này, Giáo sư Goodwin Liu thuộc đại học Luật UC Berkeley. Tuy nhiên, đảng Cộng hòa phản đối đề cử này và sau hai lần bỏ phiếu không được, Giáo sư Liu tự rút lui.

Hiện nay, còn một luật sư gốc Việt nữa đã được Tổng thống Mỹ đề cử vào tòa liên bang là Luật sư Miranda Du ở Nevada. Thượng Viện vẫn còn đang xét đề cử này.

——————————————————————————————————————————————————————————————————————————————

Báo TQ lại lên tiếng về Biển Đông

Một giàn khoan dầu ngoài Biển Đông -hình chỉ có tính minh họa

Không lâu sau cuộc gặp hai ngoại trưởng Việt Nam và Trung Quốc bên lề kỳ họp của Liên Hiệp Quốc tại New York để cải thiện quan hệ, báo Trung Quốc lại lên tiếng chỉ trích nặng nề cả Việt Nam và Philipines trong chuyện Biển Đông.

Nhưng hiện cũng có tiếng nói trên báo Trung Quốc đề nghị chính Bắc Kinh làm rõ về bằng chứng “vi phạm” của các nước khác trong bối cảnh các bên đều mơ hồ và không công bố bản đồ hay ranh giới gì cho những tuyên bố của họ.

Nhằm giải toả căng thẳng sau những bất đồng trong đó có tranh chấp tại Biển Đông, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã gặp người tương nhiệm phía Việt Nam, ông Phạm Bình Minh trong khuôn khổ một loạt các cuộc gặp của lãnh đạo ngoại giao Trung Quốc với một số nước ở Hoa Kỳ.

Theo tin Tân Hoa Xã hôm 25/9, hai bộ trưởng đều nói chính phủ hai nước sẵn sàng hợp tác để giải quyết bất đồng.

Gây chuyện?

Nhưng báo China Daily hôm đầu tuần 26/9 vừa có thêm bài với tựa đề “Manila, Hanoi at it again” (tạm dịch: ‘Manila và Hà Nội lại gây chuyện’) để phê phán hai nước này “lôi kéo Hoa Kỳ và Ấn Độ vào Biển Nam Trung Hoa”.

Bài xã luận của báo Đảng Trung Quốc nói hai nước thuộc Asean này gần đây “bận bịu với chuyện gây khó khăn cho Trung Quốc, nuối lời hứa để giải quyết tranh chấp biển Nam Trung Hoa song phương với Bắc Kinh”.

Ngoài ra, cây bút Lý Hồng Mai cũng có bài trong ngày thứ Hai 26/6 trên trên tiếng Anh của Tân Hoa Xã cảnh báo rằng những nước theo chiến lược ‘kéo bè kéo cánh’ ở Biển Đông ‘sẽ vỡ mộng’.

Bà Lý Hồng Mai nói thẳng đến Ấn Độ và Nhật Bản đang dính líu vào biển Nam Trung Hoa trong hai động thái cùng liên quan đến ‘chủ quyền của Trung Quốc’.

Tác giả nhắc đến kế hoạch của công ty Ấn Độ OVL và Việt Nam tại hai lô khai thác khí đốt ở Biển Đông “hiện được các nước khác theo dõi một cách lo ngại và là chuyện vi phạm chủ quyền trên biển của Trung Quốc”.

Thậm chí, đây là điều mà đã khiến một số nhà quan sát đem ra so sánh với tranh chấp ảnh hưởng lâu nay của Ấn Độ với Trung Quốc tại vùng Kashmir và Pakistan.

Bà Lý Hồng Mai cũng nói đến chuyện Nhật Bản hội đàm với Philipinnes về vùng biển này trong nỗ lực của Manila muốn ‘cân bằng quan hệ’.

Ngoài ra là các hoạt động tăng cường quốc phòng của Philippines như mua sắm phi cơ, chiến hạm từ Mỹ.

Nhưng bà Lý Hồng Mai cho rằng kể c̉a khi Philippines vươn tay ra phía Nhật Bản và Việt Nam cố tìm cách kéo Ấn Độ vào phía mình, thì chuyện “đưa bên thứ ba” vào tranh chấp biển “chẳng thể nào xứng lại được với sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc”.

Còn bài trên China Daily của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng nghiêm khắc cảnh báo Việt Nam trong vụ làm ăn với Ấn Độ.

Bài xã luận bằng tiếng Anh viết rằng Việt Nam, cũng như Philippines vì “liên tục nuối lời nên bị mất uy tín và làm suy giảm niềm tin chính trị (political trust) giữa họ v̀a Trung Quốc”.

Hai lãnh đạo Philippines và Trung Quốc nâng cốc nhưng báo chí vẫn nói nhiều về căng thẳng trên biển giữa Bắc Kinh và các láng giềng

Cần cùng làm rõ?

Tuy vậy, bên cạnh các bài nặng nề chỉ trích Hà Nội và Manila, hiện trên trang Nhân dân Nhật báo (People’s Daily), bản tiếng Anh có đăng bài từ bản tiếng Hoa của báo Hoàn Cầu tại Trung Quốc, có ý kiến nêu ra một cách nhìn khác.

Giải thích vì sao giới chức Bắc Kinh không phê Hà Nội nặng lời qua vụ khai thác khí với Ấn Độ, tác giả Ding Gang cho rằng các bên đều cần nêu rõ vấn đề.

Theo tác giả Ding Gang thì sau khi kiểm mọi thông tin do cả Ấn Độ, Việt Nam và Trung Quốc công bố, ông cũng chưa thể tìm thấy bằng chứng rằng vụ khai thác của Việt Nam “vi phạm lãnh hải của Trung Quốc”, vì tất cả còn “rất mù mờ”.

Đặc biệt, bài báo cũng kêu gọi chính phủ Trung Quốc, Việt Nam và Ấn Độ cùng công bố các bản đồ về các khu vực họ nói đến.

Tác giả cũng nói những năm qua, tranh chấp biển Nam Trung Hoa gia tăng, khiến truyền thông Hoa Kỳ và các nước Phương Tây cùng một số quốc gia xung quanh vùng biển này cũng xây dựng thuyết ‘Mối đe dọa từ Trung Quốc’ trên nền tảng đó.

Nhưng tác giả viết cần phải cảnh giác trước cái bẫy của việc tạo ra nhãn hiệu ‘bá quyền Trung Quốc”, và truyền thông Trung Quốc cần tránh gọi vùng biển này là “Biển Nam của nước Trung Quốc”, và tránh gọi mọi hành động của các nước ở khu vực này là “vi phạm lợi ích cốt lõi của Trung Quốc”.

Thay vì phản ứng mơ hồ như thế, các cơ quan của Trung Quốc nêu trình ra các bằng chứng rõ rệt cho thế giới thấy các nước khác vi phạm chủ quyền của Trung Quốc ra sao.

Tác giả Ding Gang cũng kêu gọi vấn đề ở vùng biển này “phải được giải quyết hòa bình” và Trung Quốc không nên tham gia trò chơi “trốn tìm” mãi mãi với các nước khác.

@bbc

——————————————————————————————————————————————————————————————————————————————

Cảnh báo ‘diễn biến hòa bình’, miệng hùm gan sứa

Vũ Quí Hạo Nhiên/Người Việt

Một chỉ thị nội bộ của đảng Cộng Sản Việt Nam cảnh báo về việc Mỹ lãnh đạo một âm mưu “diễn biến hòa bình” bị lộ ra công chúng, nhưng phía Mỹ đánh giá chỉ thị này đầu voi đuôi chuột, coi vậy chứ không phải vậy, và tuy hung hãn nhưng trong nội dung lại ít chống Mỹ hơn trước. Ðó là kết luận của Phó Ðại Sứ Virginia Palmer trong một công điện gửi về Washington DC đề ngày 12 tháng 11, 2009.

Phó Ðại Sứ Virginia E. Palmer, tác giả bức công điện. (Hình: Ðại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội)

Chỉ thị được nói đến trong công điện, là chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí Thư, do Ban Tuyên Giáo gửi ra. Trang web tỉnh Quảng Ninh lỡ tay đăng lên mạng, rồi sau đó xóa đi. Tuy nhiên, tới lúc rút bài ra khỏi mạng, nhiều trang mạng, trang blog đã đăng lại rồi.

Tựa đề của chỉ thị này là “Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động ‘diễn biến hòa bình’ trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.” Chỉ thị đề ngày 25 tháng 6, nhưng trong chỉ thị thì cho biết Ban Bí Thư ban hành chỉ thị này ngày 24 tháng 4.

Chỉ thị 34-CT/TW cảnh báo: “Các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược ‘Diễn biến hòa bình’ và ‘xâm lăng văn hóa’ đối với nước ta với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt.”

Tuy mở đầu với “các thế lực thù địch,” nhưng trong nội dung, chỉ thị này nhắm mũi dùi vào Mỹ.

“Mỗi lần nêu một thí dụ cụ thể có danh tánh” trong các kẻ thù bên ngoài, thì thí dụ đó lại là một chương trình của Mỹ, bà Palmer viết trong công điện. Hầu hết các chương trình viện trợ, giúp đỡ, du học của Mỹ đều bị cho là một thứ âm mưu đen tối nguy hiểm, “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.

“Ðội Hòa Bình” chẳng hạn, tức Peace Corps hay còn gọi là Ðội Chí Nguyện Hòa Bình, bị miêu tả là “tổ chức chuyên tuyên truyền và kích động lật đổ.”

Cơ quan viện trợ USAID bị tố cáo vì có chương trình viện trợ cho Việt Nam để đánh giá cách quản trị nhà nước. Chương trình này, theo chỉ thị trên, “cho thấy rõ các bước cụ thể của Mỹ nhằm thúc đẩy mầm mống ‘cách mạng màu’ ở Việt Nam.”

Học bổng Fulbright và sáng hội Vietnam Education Fund bị cho là một thứ “chiến lược con người” và chiến lược này là “để đào tạo một lớp người thân Mỹ và phương Tây.”

Học bổng Fulbright, tất nhiên, chính là học bổng tài trợ cho Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân du học tại Mỹ.

Chương trình sinh hoạt “Góc Hoa Kỳ” tại tòa đại sứ bị chỉ trích là “quảng bá với lớp trẻ hình ảnh nước Mỹ, lối sống Mỹ.”

Ðiều tố cáo bị bà Palmer gọi mỉa mai là “âm mưu thâm độc nhất” – bà dùng chữ “most conspiratorially” để tương ứng với chữ “conspiracy theory” – là một thứ “lộ trình 4 bước” trong đó đỉnh điểm là khuyến khích đại học Mỹ mở chi nhánh ở Việt Nam.

Phần viết về báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, không tố cáo Mỹ, nhưng từ ngữ cũng không kém phần “hốt hoảng” – “paranoid,” bà Palmer viết. Thí dụ, việc truyền bá đạo Tin Lành bị cho là “phát triển không bình thường.”

Chỉ thị này cũng cảnh cáo đảng viên về hiện tượng “tự diễn biến,” được hiểu là việc đảng viên cộng sản không còn tin vào cộng sản nữa.

Ngôn ngữ kiểu đấu tố của chỉ thị này rõ ràng. Phó Ðại sứ Palmer cho rằng ngôn ngữ trong đó giống “lập luận, giọng văn, và mục tiêu” trong chương trình phát hình cái gọi là lời “thú tội” của Luật Sư Lê Công Ðịnh.

Tuy nhiên, bà Palmer cũng đánh giá chỉ thị này là miệng hùm đó, nhưng mà gan sứa: “less than meets the eye.”

“Lối nói xách mé này,” bà viết, “không có gì lạ, nhất là khi đang chuẩn bị cho một Ðại hội Ðảng.”

Bà chỉ ra một điểm quan trọng: Khác với các tài liệu chống diễn biến hòa bình khác, chỉ thị này không đấu tố các tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO). Bà viết, “các NGO quốc tế được nâng như nâng trứng” (nguyên văn: “treated with kid gloves”).

Chỉ thị này chỉ nói chung chung, “Các thế lực thù địch đã lợi dụng hoạt động của một số tổ chức NGO vào các mục đích chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ, xâm hại an ninh và chủ quyền nước ta.”

Trong khi đó, theo bà Palmer trích lời một đại diện NGO làm việc ở Việt Nam hơn 15 năm, “các tài liệu nội bộ trước đây về đề tài này dùng ngôn ngữ nặng nề hơn nhiều và thường nêu rõ tên của từng NGO liên quan.”

Với lời hăm dọa tuy nghiêm mà không nghiêm như vậy, bà Palmer kết luận là “Chỉ thị 34 quan trọng ở chỗ nhắc chúng ta là có một nhóm có quyền lực trong nội bộ đảng, một nhóm mà chúng ta rất ít làm việc chung, đang chủ động chống lại việc hợp tác sâu đậm thêm.”

Bà cho rằng “Không nên bỏ qua Chỉ thị 34, nhưng cũng không nên phản ứng thái quá.”

Bà còn nói, “ở một mặt nào đó, tác giả Chỉ thị 34 nói cũng có lý.”

“Mặc dù chúng ta không có âm mưu một thứ ‘cách mạng màu’ ở Việt Nam,” bà viết, “nhưng chúng ta có khuyến khích điều hành nhà nước một cách dân chủ hơn, cũng như gia tăng sự tôn trọng cái mà các tác giả Chỉ thị 34 gièm pha là ‘nhân quyền kiểu phương Tây.’”

Ở mặt đó, bà viết, “các phần tử cực đoan đồng ý với chúng ta, là với cách điều hành đúng đắn và tinh thần tôn trọng pháp luật, về lâu về dài chính trị sẽ phải thay đổi tới cội rễ.”

@NguoiViet

—————————————————————————————————————————————————————————————————————————————–