Thăng Long – Hà Nội, thành phố rồng bay

CUỐI TUẦN MỜI XEM LỄ BẾ MẠC LỄ HỘI HANOI 1000 NĂM






————————————————————————————————————————————————————————————————–

Truyện của Phạm Lưu Vũ – “Thiên hạ vốn vô phúc”

Phạm Lưu Vũ

(Trích Luận ngữ tân thư)

Bậc Thánh nhân đứng giữa Trời, Đất, hợp với Trời, Đất mà tìm ra lý, rồi làm thành đạo lý, cốt truyền lại cho muôn đời. Về sau, con người ngày càng đông, của cải ngày càng nhiều, mắt mũi ngày càng tối tăm đi, lòng tham cũng theo đó mà tăng mãi không ngừng… Kẻ học giả xét không kĩ, thấy đạo lý của Thánh nhân cứ ngày càng được bàn dài ra đến thiên kinh vạn quyển, thì lại cho đó là sự nâng cao, là đã “phát triển“ thêm được cái đạo lý của Thánh nhân. Tóm lại cho rằng càng đời sau thì đạo lý càng cao hơn đời trước (!). Thật là một sai lầm khủng khiếp. Bởi nếu được như thế thì thiên hạ đã có phúc quá. Đạo lý nếu cứ được nâng cao, cứ được “phát triển“ mãi cho đến tận bây giờ, thì làm gì còn tranh giành, khủng bố, làm gì còn những thế hệ lưu manh cứ nối đời bịp bợm thiên hạ, làm gì phải giết nhiều người đến thế. Giết mấy nghìn năm chưa đủ, lại còn tiếp tục giết mãi đến bao giờ? Than ôi! Thiên hạ vốn vô phúc. Cho nên dẫu của cải ngày càng tăng, hiểu biết ngày càng rộng, chữ nghĩa ngày càng nhiều… song đạo lý của Thánh nhân thì cơ hồ cứ “phát triển“ theo chiều ngược lại…

Vẫn “Lời tựa“ trong Luận ngữ Tân thư. Sau đây xin trích tiếp một phần của bộ sách đó.

Tục ngữ có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc“. Thế nếu ngược lại, con kém cha thì nhà… vô phúc hay sao?

Cũng chưa chắc đã đến nỗi như thế, vì đó chẳng qua chỉ là chuyện trong một “nhà“. Khối kẻ bất tài đểu cáng, song nhờ có “lộc“ của ông cha mà xài mãi vẫn không hết của ăn cướp đó sao. Nhưng chuyện của cả thiên hạ thì đúng như thế thật. Thiên hạ có phúc thì đạo lý đời sau cao hơn đời trước. Thiên hạ vô phúc thì ngược lại, càng đời sau càng hạ thấp đạo lý của đời trước xuống.

Hạ thấp như thế nào?

Cách đây hai ngàn rưởi năm, Khổng Tử làm Dịch. Ngài biết rằng khi đặt ra tam tài (Thiên, Địa, Nhân) là ý Thánh nhân xưa muốn nói tới một loại “Người“ (Nhân) đặc biệt nào đó, có đủ phẩm chất xứng được với Trời, Đất, sánh ngang với Trời, Đất, cùng với Trời, Đất mà làm nên mọi lẽ huyền vi trong vũ trụ này. “Nhân“ mà đạt tới mức như thế thì tất phải không giống ai, không “chơi“ nổi với ai, mà Ngài gọi đó là: “Chẳng phải con Truỷ, chẳng phải con Hổ, ở ngoài đồng vắng…“. (Luận ngữ). Chữ “Nhân“ ấy ở trong “Thiên, Địa, Nhân“ chính là cái phần “hồn vía“ của vũ trụ. Nó có “tượng“ là “Người“, thuộc về con Người… Chứ không phải hễ cứ là “người“, hễ cứ mồm ngang mũi dọc, đi đứng bằng hai chân, biết ăn nói leo lẻo thì bất kể thế nào, cũng ứng vào chữ “Nhân“ trong cái “tam tài“ ấy được. Ngài bèn đặt ra đạo “Nhân“, định nghĩa về “Nhân“ mà theo đó, chỉ khi nào đạt / ngộ đến đạo ấy, đúng với định nghĩa ấy thì mới đích thị đóng vai trò là “Nhân“ trong bộ ba Thiên, Địa, Nhân kia. “Nhân“ của Khổng Tử chính là chỉ một trạng thái giác ngộ đã đến bực tuyệt đỉnh của con người. Nó tương đương với chữ “Phật“ trong đạo Phật. Số còn lại tất thảy đều bình đẳng với mọi loài sinh vật khác, thậm chí nếu không cẩn thận thì có lúc, có thời “nhân“ chỉ ngang hàng với những thứ “sô cẩu“ (chó rơm) mà thôi.

Nhưng từ khi Ngài đặt ra đạo ấy, thiên hạ chẳng mấy ai đạt tới. Khối kẻ lừng lẫy, nổi tiếng là “người“ nhất trong tất cả các giống người. Vậy mà khi hỏi như thế đã “Nhân“ chưa, Ngài đều bảo: “Chưa lấy gì làm chắc!“. Môn chữ “Nhân“ vì thế cho đến nay, vẫn là một tuyệt kĩ làm người của riêng trí tuệ Khổng Tử. Sinh thời, học trò có kẻ từng khuyên Ngài nên hạ thấp đi một chút, may ra ở đời có người hiểu mà theo kịp, song Ngài nhất quyết không chịu, đến nỗi suýt mắc họa vào thân.

Hơn một trăm năm sau, nước Lỗ lại sinh ra một Thánh nhân khác là Mạnh Tử. Vị Thầy này nghiên cứu chữ “Nhân“ của Đức Khổng Tử, thấy quả nhiên ghê gớm, người đời khó lòng hiểu nổi, đừng nói là theo đòi tu dưỡng ra làm sao. Bấy giờ thiên hạ đã loạn (vô phúc) lắm rồi, con người chỉ còn biết đâm chém, tranh giành nhau mà thôi, không thể nào thoát ra được nữa. Nhưng đạo “Nhân“ nếu không được thi hành, thì con người rốt cuộc sẽ đi đến đâu? Nhưng oái oăm thay, đó lại là cái mà cả thiên hạ không ai hiểu nổi, thì thi hành thế nào? Thôi thì cố vớt vát được chừng nào hay chừng đó. Thế là cái việc mà Đức Khổng Tử ngày trước nhất quyết không chịu làm, giờ đến lượt Thầy Mạnh Tử đành phải làm thôi. Thầy bèn hạ thấp cái đạo “Nhân“ kia đi một chút.

Hạ thấp như thế nào?

Mạnh Tử thêm vào đằng sau chữ “Nhân“ một chữ “nghĩa“, thành ra “Nhân nghĩa“. Theo đó thì làm người (Nhân), không nhất thiết cứ phải đòi cho bằng được ngang với Trời, Đất. Cốt sao đạt tới “nhân nghĩa“ là được rồi. “Nhân“ là cái thuộc về cả Trời, Đất, vũ trụ… khó lắm! Còn “Nhân nghĩa“ là cái chỉ thuộc về mỗi con người mà thôi. Thế là “thêm“ chữ, mà thực ra đã “bớt“ đi rất nhiều qui mô, tầm vóc. Đó rõ ràng là một sự “thỏa hiệp“, một bước “lùi“ đấy chứ. Hy vọng con người có thể hiểu được (“nhân nghĩa“) mà thi hành. Đạo “Nhân nghĩa“ này của Thầy Mạnh Tử tuy cũng là một trí khôn trùm thiên hạ đấy, song vẫn chỉ là một phần nhỏ. Nó thấp hơn cái đạo “Nhân“ lồng lộng kia của Đức Khổng Tử nhiều lắm.

Sau đó thì thế nào, có bao giờ thiên hạ trở lại được cái đạo “Nhân“ ấy của Đức Khổng Tử không?

Chưa bao giờ, bởi thiên hạ vẫn ngày càng vô phúc. Cho nên đời sau cứ thế tiếp tục hạ thấp dần những đạo lý của đời trước theo phương châm: “Vớt vát được chừng nào hay chừng đó“.

Tiếp tục hạ thấp như thế nào?

Cứ mỗi đời lại hạ thấp thêm một ít, hạ thấp bằng đủ các kiểu trên đời, kể ra không xuể. Ví dụ hơn một nghìn tám trăm năm sau, ở phương Nam có một vị Thánh nhân, khi xem xét cái đạo “Nhân nghĩa“ của Thầy Mạnh Tử, đem đối chiếu với thời cuộc lúc bấy giờ, vị Thánh nhân này thấy nó vẫn cao quá, xa vời quá, không cách gì thực hiện cho được. Nhân nghĩa nếu được thi hành, được “tưới“ khắp thiên hạ, thì kẻ làm vua không còn cái thú làm vua, kẻ làm quan không mơ màng đến bổng lộc, kẻ làm dân tha hồ tự do, tha hồ ung dung tự tại mà vẫn không ra ngoài phép tắc. Một “thiên hạ“ như thế chẳng phải là điều không tưởng hay sao? Không tưởng, chẳng lẽ lại bỏ qua nhân nghĩa? Thôi thì vẫn thi hành. Nhưng lại phải hạ thấp xuống, chỉ còn: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân…“. mà thôi. Yên được dân, thế cũng coi như “Nhân nghĩa“ rồi, không đòi hỏi phải sướng dân, mới dân, hay sáng dân… gì gì nữa. Muốn “yên dân“, thì trước tiên phải lo “trừ bạo“. Luôn luôn trừ bỏ kẻ hung bạo trong thiên hạ cho dân được yên, thì cái việc nhân nghĩa ấy, so với cả cái đạo “Nhân nghĩa“ kia, tuy có thấp hơn nhiều lắm, song thời bấy giờ, mong đạt được đến đó cũng là tuyệt lắm rồi.

Cứ hạ thấp mãi như thế, vậy chẳng lẽ thiên hạ mấy nghìn năm, chưa bao giờ là “có phúc“ hay sao?

Thỉnh thoảng cũng có đấy, nhưng chỉ là những “phúc“ nhỏ, riêng, ngắn ngủi, nằm trong cái “vô phúc“ lớn, tổng quát, trùm hết mọi đời.

Còn bây giờ thì sao?

Bây giờ, các Thánh nhân đã chìm vào dĩ vãng cùng với đạo lý của các Ngài. Thế giới ngày nay tự hào là văn minh, là giỏi giang lắm. Đã bay vào vũ trụ, lại còn bắn phá được cả sao Chổi… thế mà cái đạo lý “yên dân“ kia, xem chừng vẫn còn quá cao, nói chi đến “nhân nghĩa“ làm gì nữa cho xa vời. Kẻ hung bạo trừ mãi không hết, thậm chí ngày càng hung bạo hơn, chúng lại có bom đạn, súng ống… trong tay. Kẻ lưu manh, bịp bợm giáo hóa mãi không chừa, thậm chí càng đời sau càng đểu cáng hơn đời trước. Chúng lại có sẵn quyền lực, địa vị trong tay, tha hồ mà nhân danh mọi thứ… Yên dân tức là yên được cả thiên hạ, trong khi những kẻ hung bạo, lưu manh đủ các kiểu lớn, bé… vẫn còn nhan nhản, vẫn leo lẻo nhân danh cái sự bịp bợm để ngồi trên đầu, trên cổ thiên hạ giữa thanh thiên bạch nhật như thế, vẫn tự xem dân như những món tài sản riêng trong túi mà muốn sao được vậy, mà bất chấp luật lệ, thi nhau hoành hành. Thậm chí còn coi dân chẳng khác gì những thứ thịt chó, thịt mèo cần phải ướp riềng mẻ, mắm tôm… trước khi làm những món chả, hấp, nhựa mận, tiết canh… Thế thì cái đạo lý “yên dân“ kia xét cho đến đời nay, lại tiếp tục là một điều không tưởng nữa.

Nghĩa là tiếp tục phải hạ thấp?

Tất nhiên, không theo được đạo lý của người xưa thì đành phải hạ thấp xuống chứ còn biết làm thế nào.

Đạo “yên dân“ mà hạ thấp xuống nữa thì thành cái gì?

Thì thành cái đạo… “yên thân“. Bây giờ thì chỉ còn mong: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên… thân…“. mà thôi. Không yên được cả thiên hạ, cả thiên hạ không yên thì cốt sao yên lấy cái thân mình, vợ con mình, gia đình mình là tốt lắm rồi. “Đạo“ ấy tóm tắt như sau: mình cố không “động“ đến ai, cũng cố mong đừng ai “động“ đến mình… Tóm lại là “Nhân nghĩa“ kể từ thời Thầy Mạnh Tử cho đến bây giờ, chỉ còn lại… có bấy nhiêu mà thôi.

Thế thì có còn là đạo lý nữa không?

Đạo lý là cái gì? Chẳng phải đến bây giờ, chính nó cũng đã bị “hạ thấp“, đến nỗi chỉ còn là cái “lý“ của kẻ cướp rồi hay sao? Cho nên “yên thân“ cũng không dễ mà đạt cho mĩ mãn đâu. Bạn đang ở giữa châu Nam Cực? Hay đang ngồi trên sao Hoả? Cứ thử thò mặt ra đường xem? Dẫu có tình nguyện làm con giun, con dế, cũng chưa chắc đã “yên“, nếu không biết lối mà tung hô, mà dạ, vâng… cho phải phép.

Vậy thì: “Ngu“ là căn hầm trú ẩn cuối cùng của cái giống động vật có tên (khoa học) là “con người“ đáng thương. “Hèn“ là một đại lượng tỉ lệ thuận với vai vế, địa vị hay (thậm chí) tỉ lệ thuận với tri thức, cũng của cái giống động vật có bốn chi (song chỉ sử dụng hai chi để di chuyển) đó. “Định nghĩa“ như thế “trừu tượng“ lắm phải không?

Đại khái hãy so sánh với ngày hôm qua, không được phép so sánh với bất kì ai, kể từ gã hàng xóm trở đi…

Thiên hạ đang là một bầy cừu có chủ. Tốt hơn hết, hãy là một con cừu. Tối qua trong một đám cưới, có mấy con cừu cứ thi nhau ca ngợi những ông chủ đang chăn dắt chúng. Vậy thì kẻ biết chữ ngồi nghe cần phải biết liệu hồn. Biết đâu đến một lúc nào đó, ngay cả cái đạo “yên thân“ này, cũng vẫn còn là một mơ ước… quá cao. Thì sao?

Viết tháng 6/2005, sửa chữa, bổ sung tháng 11/2006

@ PhamLuuVu Blog

Phạm Lưu Vũ có tên: Phạm Khắc Lưu

Bút danh khác: Vũ Phong Lưu. Sinh năm 1957. Quê: Nam Định .Nghề nghiệp: Kỹ sư xây dựng

Các truyện ngắn, tạp văn, thơ đăng trên báo Người Hà Nội,Văn nghệ, Lao động, Evăn và các trang Web…

————————————————————————————————————————————————————————————————–

Tiến tới đại hội Đảng – Kỷ luật hàng loạt cán bộ cao cấp

Chiều 15.10.2010, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ra thông báo về Kỳ họp thứ 33 của Ủy ban được diễn ra trong những ngày cuối tháng 9 và đầu tháng 10.2010.Tại kỳ họp Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét, kết luận gần 30 vụ việc:

1. Về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm:

Đối với tập thể Thường trực Tỉnh ủy Ninh Bình:

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với tập thể Thường trực và 3 người là Thường trực Tỉnh ủy Ninh Bình có kết luận như sau: Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm Quy định số 51-QĐ/TW, ngày 19/4/2007 của Ban Bí thư về phương thức lãnh đạo của Đảng, Quy chế làm việc của Tỉnh ủy, giải quyết nhiều việc vượt thẩm quyền của Thường trực Tỉnh ủy; ban hành một số văn bản trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cho chủ trương, chỉ đạo giải quyết nhiều việc thuộc thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Nhân dân tỉnh, dẫn đến bao biện, làm thay, có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Những sai phạm trên gây hậu quả nghiêm trọng, làm thất thoát, lãng phí tiền, tài sản, đất đai của nhà nước; gây dư luận bất bình, mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Đối với các cá nhân:

Ông Đinh Văn Hùng (trái). Ảnh: TL

– Ông Đinh Văn Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, chịu trách nhiệm chính về các vi phạm của Thường trực Tỉnh ủy và các vi phạm cá nhân. Vi phạm của ông Hùng là nghiêm trọng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề nghị Ban Chấp hành Trung ương xử lý kỷ luật theo thẩm quyền.

– Ông Tạ Nhật Thới, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh: cùng chịu trách nhiệm về khuyết điểm, vi phạm của tập thể Thường trực Tỉnh ủy nêu trên. Những vi phạm của ông Tạ Nhật Thới là nghiêm trọng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định thi hành kỷ luật đối với ông Tạ Nhật Thới bằng hình thức cảnh cáo.

Ông Bùi Văn Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh cùng chịu trách nhiệm chung về khuyết điểm, vi phạm của tập thể Thường trực Tỉnh ủy; đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Thường trực Tỉnh ủy còn hạn chế. Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định thi hành kỷ luật ông Bùi Văn Thắng bằng hình thức khiển trách.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình, Đảng đoàn, Hội đồng Nhân dân tỉnh, Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Bình kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan, xử lý nghiêm minh theo quy định của Đảng và Nhà nước; chấn chỉnh, khắc phục kịp thời những thiếu sót, sai phạm, thu hồi tiền, đất đai cho Nhà nước.

– Kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với Chánh Thanh tra Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh về kỷ luật phát ngôn: Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận đồng chí đã vi phạm Quy định 115 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu kiểm điểm sâu sắc, rút kinh nghiệm.

2. Về xem xét thi hành kỷ luật đảng:

Ông Lê Văn Quế. Ảnh: TL

– Xem xét thi hành kỷ luật ông Lê Văn Quế, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Sông Đà và ông Dương Khánh Toàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Tổng Giám đốc Tập đoàn Sông Đà:
Ông Lê Văn Quế với cương vị là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Sông Đà, đã vi phạm Luật Đấu thầu và Nghị định số 88/1999/NĐ-CP của Chính phủ khi chỉ định 5/14 gói thầu và lựa chọn 2 nhà thầu cùng trúng thầu của một gói thầu tại Dự án tòa nhà HH4-Song Da Twin Tower, gây thiệt hại 3,144 tỷ đồng; thiếu kiểm tra để ông Dương Khánh Toàn, Tổng Giám đốc ký Quyết định số 245-TCT/QLKT ngày 21-11-2007 vượt thẩm quyền; không thực hiện đúng quy chế làm việc của Ban Thường vụ Đảng ủy và Hội đồng quản trị về việc cử ông Dương Khánh Toàn đi học tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, làm ảnh hưởng đến uy tín của tập thể và cá nhân ông, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với ông Lê Văn Quế.

Ông Dương Khánh Toàn đã vi phạm nguyên tắc quản lý trong Dự án tòa nhà HH4-Song Da Twin Tower vượt thẩm quyền, gây thiệt hại cho các bên liên quan; chưa thực hiện đúng Quyết định số 59-TCT/TCĐT, ngày 28-8-2004 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty về việc đi học hệ không tập trung, chuyên ngành công trình thủy lợi tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội.
Những vi phạm của ông Dương Khánh Toàn đến mức phải xem xét có hình thức kỷ luật. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm điểm, ông đã thành khẩn, ý thức được trách nhiệm về những khuyết điểm, vi phạm của bản thân, Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cấu rút kinh nghiệm sâu sắc.
Theo tinh thần Chỉ thị 37 về đại hội đảng bộ các cấp, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề nghị Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương không đưa ông Dương Khánh Toàn vào danh sách nhân sự cấp ủy khóa tới của Đảng bộ Khối, Đảng bộ Tập đoàn Sông Đà nhiệm kỳ 2010-2015.

– Xem xét kết quả kiểm điểm, xử lý kỷ luật đối với Ban cán sự đảng và một số cán bộ chủ chốt Ủy ban Nhân dân tỉnh tỉnh Tiền Giang theo Thông báo kết quả giải quyết tố cáo số 20-TB/UBKTTW, ngày 5/7/2010 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương: Ủy ban Kiểm tra Trung ương nhất trí đề nghị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy không xử lý kỷ luật Ban cán sự đảng Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang, yêu cầu kiểm điểm nghiêm túc; giao Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tiền Giang xem xét xử lý kỷ luật các cá nhân liên quan theo thẩm quyền.

– Quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo về Đảng, đồng thời đề nghị cơ quan có thẩm quyền kỷ luật cảnh cáo về hành chính đối với các cá nhân sau:

+ Trung tướng Lê Quốc Sự, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Công an Trung ương, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần, Bộ Công an: Trên cương vị Bí thư Đảng ủy, Tổng Cục trưởng đã thiếu trách nhiệm để đơn vị xảy ra nhiều khuyết điểm, vi phạm trong lĩnh vực quản lý, mua sắm tài sản; vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng đất an ninh; gửi tiền có nguồn từ ngân sách Nhà nước vào ngân hàng.

+ Trung tướng Trần Quang Minh, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần, Bộ Công an, có khuyết điểm, sai phạm: trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Tổng cục trưởng ông Minh đã thiếu trách nhiệm tham mưu giúp Tổng cục trưởng trong lĩnh vực công tác được phân công; để đơn vị thực hiện không đúng các quy định của Nhà nước và Bộ Công an trong việc tổ chức mua sắm hàng hóa trong thời gian dài, gây thất thoát ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến uy tín tập thể, cá nhân.

+ Thiếu tướng Nguyễn Chí Dũng, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh (hiện nay là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh 2): Trên cương vị là Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an Thành phố đã thiếu trách nhiệm để đơn vị xảy ra nhiều khuyết điểm, vi phạm nghiêm trọng trong thời gian dài; để đơn vị lập quỹ riêng, chi tiêu không đúng quy định của Nhà nước; quản lý, sử dụng nhà, đất an ninh không đúng quy định.

+ Đại tá Nguyễn Chiến Lũy, nguyên Phó Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã thiếu trách nhiệm tham mưu giúp Giám đốc trong lĩnh vực được phân công để đơn vị lập quỹ riêng, chi tiêu trái quy định của Nhà nước; quản lý, sử dụng tài sản, nhà, đất an ninh thiếu chặt chẽ, có nơi không đúng quy định của Nhà nước, ảnh hưởng đến uy tín tập thể, cá nhân.

– Xem xét thi hành kỷ luật ông Lê Thanh Nhàn, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam theo đề nghị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Nam: Từ năm 2006 đến tháng 9/2009, ông Lê Thanh Nhàn đã lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện không nghiêm các quy định của Điều lệ Đảng; vi phạm nguyên tắc sinh hoạt đảng; vi phạm quy chế làm việc của Ban cán sự đảng, quy chế làm việc của Tỉnh ủy; vi phạm quy định của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao về quy hoạch, tuyển dụng, điều động, miễn nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ; để xảy ra một số vi phạm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cơ quan. Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định thi hành kỷ luật ông Lê Thanh Nhàn bằng hình thức khiển trách.

“Siêu xe” Bentley biển số xanh 80B-6986
được một thành viên mạng Flickr đưa lên
Internet cách đây năm tháng.
Ảnh: internet

– Xem xét trách nhiệm của ông Văn Thanh Liêm, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại và Dịch vụ SABECO đã mua xe ôtô với giá trị lớn, gắn biển 80B xanh trái quy định. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề nghị Ban Thường vụ Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo kiểm điểm và làm rõ trách nhiệm đối với ông Văn Thanh Liêm. Đề nghị Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương chỉ đạo kiểm tra việc cấp biển số xanh 80B không đúng đối tượng được quy định tại Thông tư số 06/TT-BCA, ngày 11/3/2009 của Bộ Công an; làm rõ trách nhiệm và có hình thức kỷ luật đối với tập thể, cá nhân trong việc cấp biển số xanh 80B cho xe ôtô thuộc thẩm quyền vốn của Công ty SABECO; đề nghị Đảng ủy Công an Trung ương chỉ đạo chấn chỉnh việc cấp biển xe xanh cho các doanh nghiệp và một số tỉnh thành không đúng quy định.

3. Về giải quyết tố cáo:

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã giải quyết đơn thư tố cáo đối với 12 cá nhân, trong đó có 9 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.

4. Về giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng:

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã giải quyết và giúp Ban Bí thư giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với 9 trường hợp (trong đó 4 trường hợp thuộc thẩm quyền Ban Bí thư). Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định xóa kỷ luật 1 trường hợp, hạ hình thức kỷ luật 3 trường hợp, giữ nguyên hình thức kỷ luật 2 trường hợp.

5. Về công tác giám sát:

-Ủy ban Kiểm tra Trung ương giám sát tình hình khắc phục sai phạm qua kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Tháp và các cá nhân có liên quan. Qua giám sát, cho thấy, các tập thể, cá nhân sai phạm đã khắc phục hậu quả nhưng chưa triệt để. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã báo cáo Ban Bí thư tiếp tục chỉ đạo giải quyết dứt điểm vụ việc. Đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Tháp tiếp tục xử lý kỷ luật nghiêm các cán bộ lãnh đạo của huyện Châu Thành vi phạm về quản lý sử dụng đất đai.

6. Một số công việc khác:

– Ủy ban Kiểm tra đã thông qua dự thảo Báo cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, đã trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 13.

– Cũng tại kỳ họp này, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thông qua dự thảo bổ sung, sửa đổi Điều 7, Hướng dẫn số 11-HD/UBKTTW, ngày 24/3/2008 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về thực hiện Quy định số 94-QĐ/TW, ngày 15-10-2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm về kế hoạch hóa gia đình trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định.

Theo TTXVN

@ SGTT

————————————————————————————————————————————————————————–

Tranh giành quyền lực trong giới lãnh đạo Trung Quốc

Ông Tập Cận BìnhẢnh : Reuters

Kerry Brown

Diên Vỹ, X-Cafe chuyển ngữ

Tái định giá đồng Nhân Dân Tệ, biển Nam Hải bên bờ chiến tranh, ẩu đả về giải Nobel. Điều gì đã khiến Trung Quốc hành động điên cuồng? Mách nước: đã đến mùa bầu cử tại Trung Quốc và chẳng ai biết được ai đang nắm quyền.

Khi Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates hạ cánh xuống Hà Nội ngày 10 tháng 10, ông hy vọng sẽ chứng tỏ sự cam kết của Washington trong việc tạo ổn định ở Đông nam Á. Hoá ra ông đang đẩy một cánh cửa đã mở rồi: Những quốc gia trong khu vực đang vô cùng lo lắng về việc phát triển hải quân của Bắc Kinh và những thái đội hiếu chiến gần đây nhằm biến Thái Bình Dương trở thành một chiếc hồ của Trung Quốc.

Trong khi đó, Bắc Kinh đang phản ứng mạnh mẽ với phương Tây về nhân quyền, môi trường, và việc định giá tiền tệ, dẫn đến việc nhiều người cho rằng sự đi lên của Trung Quốc cuối cùng đã bắt đầu gây ảnh hưởng bất ổn mà những học giả và bình luận gia đứng đầu về quan hệ quốc tế đã tiên đoán từ lâu nay. Nhưng nhiều nhà quan sát đã bỏ qua một động cơ quan trọng khác trong thái độ cương quyết gần đây của Bắc Kinh: chính sách đối ngoại của Trung Quốc không nằm trong tay của các nhà ngoại giao.

Trên danh nghĩa, nhân vật tối cao chuyên quyết định chính sách đối ngoại là Đới Bỉnh Quốc, người chỉ đứng ở vị trí 50 trong toàn hệ thống chính trị. Quyền lực thật sự nằm trong tay của Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản — và, chính xác hơn, trong tay chín thành viên của ban chấp hành trung ương. Tại đây những chỉ thị về việc phải cứng rắn với Nhật Bản trên vùng biển Đông Hải, hoặc với Hoa Kỳ trong vấn đề định giá đồng Nhân Dân Tệ được đưa ra. Và hôm Thứ Sáu vừa qua đánh dấu việc khởi đầu của cuộc họp bốn ngày Bộ Chính trị, được bắt đầu với một đám mây bất thường đang lơ lửng trên đầu các nghị trình.

Tầng lớp “tinh tuyển của giới tinh tuyển” của Trung Quốc này có vẻ như đang bị phân tâm vào thời điểm này. Trong một thời gian khoảng hai năm, bảy trong số chín thành viên này sẽ đến tuổi về hưu và buộc phải đứng sang một bên. Cứ mỗi 5 năm, trong dịp đại hội đảng, thế hệ lãnh đạo sắp đến sẽ được thăng tiến, và năm 2012 sẽ là một năm trọng đại: Chúng ta sẽ thấy sự chuyển đổi từ “thế hệ thứ tư” của giới lãnh đạo Trung Quốc dưới quyền Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo sang thế hệ “thứ năm”. Một thời đại mới sẽ bắt đầu. Trên lý thuyết, Hồ và Ôn sẽ thầm lặng về hưu, lo chuyện cá nhân và để những người trẻ hơn (và có lẽ lần này sẽ có một phụ nữ) tiếp tục điều khiển.

Nhưng lần này lại có hai khó khăn. Khó khăn đầu tiên là không có nhân vật kỳ cựu nào đứng ra để điều khiển quá trình một cách êm thấm. Đặng Tiểu Bình, lãnh tụ vĩ đại trong thời của mình, đã tấn phong Hồ nhiều năm trước khi ông ta bước vào vị trí đỉnh. Điều này bảo đảm con đường hoạn lộ của ông được mở rộng. Uy tín và thanh thế rộng lớn của Đặng có nghĩa là những ai phản đối Hồ sẽ phải nghĩ đến ảnh hưởng và di sản của Đặng.

Trong khi người tiền nhiệm của Hồ là Giang Trạch Dân, vẫn sử dụng ảnh hưởng của mình ngay cả trong tuổi 80, ông ta cũng chẳng có sức mạnh như Đặng. Vì thế quá trình chuyển đổi lần này sẽ không có bàn tay dẫn dắt của một nhân vật trưởng lão. Điều này có nghĩa là trong mặc dù bộ chính trị từng có sự thay đổi lớn trước đây, ảnh hưởng của nhiều thành viên về hưu lần này sẽ gây bất ổn hơn rất nhiều.

Không ai biết được trận chiến nào sẽ xảy ra hiện nay trong khuôn viên chính quyền trung ương ở Bắc Kinh, nơi những người lãnh đạo sống và làm việc. Bộ chính trị dưới quyền của Hồ và Ôn vốn rất kín kẽ. Không có nhiều thông tin rò rỉ về việc ai hậu thuẫn ai, và ai đang được ưu ái, ai đang bị nguy hiểm. Thời gian qua, các tin đồn đã xoay quanh Ôn về việc ông không ủng hộ đảng và việc ông thỉnh thoảng đi ngược ý của Hồ. Ông đã xuất hiện tại thành phố Thâm Quyến ở miền nam vào cuối tháng Tám và nói về cải cách chính trị, dẫn đến những phỏng đoán rằng ông đang tìm cách tạo ra ít nhất là một di sản cho phe cấp tiến trong đảng. Nhưng trước khi mọi người mừng rỡ, Ôn đã đưa ra những chỉ trích mạnh mẽ nhất đối với người Nhật khi họ bắt giữ viên thuyền trưởng của một tàu đánh cá Trung Quốc đi lạc vào vùng biển tranh chấp hôm tháng Chín. Có phải ông đã tìm cơ hội để bù đắp cho việc bị phê bình là quá mềm yếu hồi đầu năm? Chúng ta không thể biết được. Cuộc phỏng vấn vừa qua giữa Fareed Zakaria và Ôn — bị truyền thông nhà nước kiểm duyệt — chỉ làm sự việc thêm khó hiểu. Nhưng không như những người lãnh đạo phương Tây, thói quen tạo ra những hồi ký dài dòng sau khi những chính trị gia rời khỏi chức vụ vẫn chưa được hưởng ứng ở Trung Quốc, vì thế có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được chắc chắn điều gì đã xảy ra.

Cũng như những nền văn hoá chính trị khác, chính sách đối ngoại là phương cách dễ dàng để những nhà lãnh đạo Trung Quốc qua mặt những đối thủ của mình. Chắc chắn Đảng Cộng sản không phải là ý tưởng về một cơ quan dân chủ, nhưng nó cũng có rất nhiều sự chia rẽ – và không chỉ giữa cách tả và cách hữu, cấp tiến và bảo thủ, cổ truyền và hiện đại. Nó có những quyền lợi khác nhau của giới tinh tuyển và giới kinh doanh, và những động lực lãnh đạo khác nhau tuỳ theo việc ta nhìn vào đảng ở cấp trung ương hay cấp tỉnh. Ví dụ những nhân vật lãnh đạo Đảng Cộng sản tại khu vực trung tâm như Hồ Nam, cũng có những quyền hạn không kém như những chỉ thị từ Bắc Kinh.

Vào những thời điểm tốt đẹp nhất, rất khó để áp đặt sự đồng thuận đối với một cơ chế gồm 78 nghìn thành viên, với vô số tầng lớp và quyền lợi để thoả mãn. Nhưng khi có một thay đổi quan trọng tại tầng chóp bu, mọi thứ càng trở nên mong manh hơn, đặc biệt trên phương diện thực tế khi quá trình này chưa bao giờ được thử nghiệm trước đây. Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường, những người đứng đầu để thay thế Hồ và Ôn trong năm 2012 sẽ phải thực sự chứng tỏ tính chính danh của mình trước công chúng và bên trong đảng ra sao thì vẫn chưa rõ. Các nhà phân tích và quan sát đã cố gắng tìm hiểu những đầu mối về việc ai sẽ nắm vị trí nào. Nhưng thực tế là chỉ còn hai năm nữa, quá ít ứng cử viên vượt trội rõ rệt để điền vào bảy vị trí trong Bộ Chính trị là điều đáng lo ngại. Việc này càng kéo dài thì càng gây thêm nhiều khó khăn. Viễn cảnh về việc những nhân vật này sẽ đơn giản bước ra sau bức màn đỏ vào mùa thu năm 2012 mà không có tí chuẩn bị nào để tiến thẳng vào Bộ Chính trị thì thật là lố bịch.

Điều này có nghĩa là trong một hệ thống độc đảng khoá kín, trên thực tế chúng ta đang bước vào một thể loại bầu cử kỳ lạ nhất. Với một trăm biểu hiện và dấu hiệu nhỏ, những ứng cử viên cụ thể, từ bí thư tỉnh uỷ Trùng Khánh Bạc Hy Lai đến đương kim Phó Thủ tướng Vương Kỳ Sơn, từ bí thư tỉnh uỷ Quảng Đông Uông Dương đến Trưởng ban nhân sự đầy quyền thế Lý Viện Trào, đều đang đánh dấu lãnh thổ của mình. Tỏ vẻ cứng rắn hơn đối với “sự xâm lấn và can thiệp ngoại quốc” có thể là một “bục bầu cử” tốt để đứng – bỏ qua những nhà quan sát ngoại quốc chẳng có tí manh mối nào về tại sao và từ đâu thình lình họ lại có thái độ giận dữ và cương quyết như thế.

Trong vô số những điều chúng ta không biết được về việc ai sẽ là những lãnh đạo sắp tới của Trung Quốc, có vài điều chúng ta có thể chắc chắn được. Cho dù những lãnh đạo này là ai, họ sẽ không phải là những nhà kỹ trị như thế hệ trước. Sẽ có những nhà khoa học chính trị, kinh tế gia và luật sư điều khiển Trung Quốc đi vào tương lai – rất giống như của phương Tây. Thời đại của những kỹ sư và nhà địa chất đang kết thúc.

Những lãnh đạo mới của Trung Quốc sẽ không có những liên hệ rõ ràng và ngay lập tức với quân đội. Không có ai trong những ứng cử viên chắc chắn của hệ thống lãnh đạo sau 2012 từng phục vụ hoặc chỉ huy quân đội. Nhưng điều đáng ngại nhất, bởi vì tuổi tác của họ (khoảng 50 trở đi), toàn bộ họ là những người được nuôi nấng và đào tạo trong thời kỳ Cách mạng Văn hoá 1966-1976, giai đoạn bưng bít, bài ngoại nhất trong lịch sử hậu 1949 của Trung Quốc. Không ai trong họ từng được du học trong bất cứ thời gian nào, và họ đều bị giới hạn trong kinh nghiệm quốc tế.

Một dấu hiệu tốt đẹp hơn nhiều đó là những cố vấn chủ chốt của họ và những người mà họ đang chăm bón trong 5 đến 10 năm sau 2012 để nắm quyền ở Trung Quốc sẽ là những người thuộc thế hệ được đào tạo từ phương Tây với số lượng rất lơn. Họ sẽ là những người tinh tuyển lãnh đạo tài năng nhất, có học vấn nhất so với bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Nhưng cho đến năm 2012, sẽ trông đợi những khoảnh khắc không dễ chịu và một vài bất ngờ. Đảng Cộng sản không thể cho phép việc chuyển hoán lãnh đạo trở thành một trận chiến không khoan nhượng để nắm lấy quyền lực. Nhưng trên quan điểm thế cuộc, cũng không ngạc nhiên mấy khi những cá nhân và những tập thể mà họ liên quan đến bắt đầu đối chọi nhau. Chúng ta chỉ có hy vọng rằng hệ thống hiện hành có thể chịu đựng được căng thẳng này và vào mùa thu này, đưa ra một kết quả có thể chấp nhận được, mang tính bền vững, và đặc biệt là có thể hoạt động được trước những thử thách khổng lồ bên trong nước đang đối diện với Trung Quốc trong những năm sắp đến.

@ X-Cafe

————————————————————————————————————————————————————————–