—————————————————————————————————————————————————————————————————–
Month: Tháng Chín 2010
Cập nhật tin 30-9-2010
Hoa Kỳ ‘không có ý định làm leo thang căng thẳng biển Đông’
‘Biển Nam Trung Hoa: Một chỉ dấu quan trọng về hợp tác an ninh châu Á trong thế kỷ 21’ là chủ đề của một cuộc thảo luận tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Chiến lược (CSIS) ở thủ đô Washington. Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, ông Kurt Campbell, cho biết, Washington quan ngại về căng thẳng gia tăng tại vùng biển tranh chấp, và chờ đợi ‘chính sách ngoại giao bình tĩnh thay thế các cảm xúc nóng vội. Mời quý vị theo dõi tường thuật của Nguyễn Trung sau đây.
Nguyễn Trung

Các diễn giả tham gia cuộc thảo luận tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Chiến lược (CSIS) ở Thủ đô Washington
Tuyên bố vừa qua của Ngoại trưởng Hillary Clinton về ‘quyền lợi quốc giá của Hoa Kỳ trong việc giải quyết vấn đề biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông) lại trở thành tâm điểm của cuộc thảo luận do CSIS và Trường Báo chí Schieffer thuộc Đại học Công giáo Texas đồng tổ chức
Trợ lý Kurt Campbell nói rằng bà Clinton chỉ ‘nhấn mạnh lại quan điểm bấy lâu nay của Hoa Kỳ về một giải pháp hoà bình, ngoại giao, tự do lưu thông hàng hải và các cơ hội phát triển kinh tê’ tại vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc và một số quốc gia ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương một lần nữa lại khẳng định quan điểm trung dung của Washington.
Ông Campbell nói: “Từ trước tới nay, Hoa Kỳ không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp này. Tuy không phải là một trong các nước liên quan, nhưng Hoa Kỳ có quyền lợi quốc gia đối với việc duy trì tự do lưu thông hàng hải ở vùng biển này. Trong những năm vừa qua, chúng tôi chứng kiến sự tăng mạnh các sự vụ liên quan tới các nước khác nhau từ đánh bắt cá cho tới các dự án khai thác năng lượng tiềm năng. Điều chúng tôi quan ngại là tình thế như vậy có thể làm leo thang căng thẳng, đe doạ tới hoà bình và ổn định của khu vực.”
Phát biểu trước hàng trăm người tham dự, mà theo ban tổ chức, có cả đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và Việt Nam, ông Campbell cho biết, các nước trong khối ASEAN thông báo cho Hoa Kỳ rằng ‘đã có các cuộc đối thoại mới giữa Trung Quốc và các nước tranh chấp biển Đống.
Giới chức này nói rằng chính quyền Washington ‘muốn các bên theo đuổi giải pháp ngoại giao và bình tĩnh giải quyết tranh châp’.
Ông Campbell cho biết: “Hoa Kỳ tin rằng cách thức tốt nhất để giải quyết tranh chấp là thông qua đối thoại. Hồi năm 2002 khi ASEAN và Trung Quốc đồng ý cùng nhau giải quyết những vấn đề có thể phát sinh (thông qua Tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông). Chúng tôi nghĩ đó là một bước đi đầu tiên quan trọng. Chúng tôi muốn một số yếu tố trong thoả thuận đó được làm rõ hơn để trở thành nền tảng đối thoại. Với tuyên bố của bà Clinton, mục tiêu của Hoa Kỳ là tạo ra một môi trường ổn định, dễ đoán định, cũng như thúc đẩy đối thoại. Trong các tuyên bố của mình, chúng tôi không nêu tên bất kỳ nước nào, và chúng tôi không có ý định làm leo thang căng thẳng ở khu vực biển Đông”.
Trước phản ứng gay gắt của Trung Quốc thời gian qua cũng như việc cuộc hội thảo tập trung vào tuyên bố của bà Clinton đưa ra tại Diễn đàn An ninh Khu vực ở Hà Nội hồi tháng Bảy vừa qua, Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ kêu gọi mọi người ‘nhìn rộng hớn về mối quan hệ giữa Washington và các nước ASEAN.
Ông Campbell cũng viện dẫn hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Hoa Kỳ đầu tiên diễn ra tại Mỹ hồi tuần trước, trong đó đưa ra cam kết chung về một loạt các vấn đề liên quan tới sông Mekong, tình trạng biến đổi khí hậu hay các sáng kiến hợp tác thương mại, kinh tế.
Cho dù tuyên bố chung sau hội nghị tại thành phố New York không đề cập cụ thể tới tranh chấp biển Đông, nhưng nhấn mạnh tới ‘tầm quan trọng của việc giải quyết hoà bình các tranh chấp cũng như sự ổn định khu vực, an ninh hàng hải, thương mại không bị cản trở, tự do lưu thông hàng hải theo đúng các nguyên tắc của luật quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển.
Về ý kiến cho rằng Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á và Washington không nêu rõ vấn đề biển Đông trong tuyên bố chung là ‘nhượng bộ Trung Quốc’, ông Ernest Bower, Cố vấn cao cấp đồng thời là Giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Chiến lược, cho biết ông ‘ủng hộ sự kiềm chế của Hoa Kỳ.
Ông Bower nhận xét: “Tôi nghĩ điều này phù hợp với tình hình ở Đông Nam Á. Hoa Kỳ không buộc các quốc gia trong khu vực rơi vào thế khó xử. Các quốc gia ở khu vực này sẽ đối mặt với tình thế này trong hai hay thậm chí mười năm tới. Họ đã phải đối phó với một nước Trung Quốc hàng trăm năm qua. Tôi nghĩ các quốc gia này đánh giá cao lập trường kiên định của Hoa Kỳ cũng như việc Washington không quá thúc ép họ trong vấn đề biển Đông”.
Mới đây, chính quyền Bắc Kinh đã lên tiếng ‘phản đối sự can dự của các quốc gia không liên quan vào vấn đề biển Đông.
Trung Quốc bấy lâu nay vẫn phản đối việc quốc tế hoá tranh chấp lãnh hải này đồng thời nhấn mạnh tới việc đàm phán song phương với các bên tuyên bố chủ quyền ở biển Đông, trong đó có Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. (VOA )
————————————————————————————————————————————————————————–
Hôm 29/09/2010, theo báo Nhật Bản Nikkei, Tokyo dự tính sẽ đóng quân tại vùng quần đảo Senkaku / Điếu Ngư đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc. Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Toshimi Kitazawa đã yêu cầu được cấp ngân sách để chuẩn bị đưa các binh sĩ thuộc lực lượng phòng vệ nước này ra đóng trên đảo Yonaguni, nằm ở cực tây nam nước Nhật.
Theo tờ Nikkei, nhiều nghị sĩ của đảng Dân chủ Nhật Bản, đảng trung tả hiện đang nắm quyền của thủ tướng Naoto Kan, đã gây sức ép đối với chính phủ để đưa quân đến đóng tại chính quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư. Tuy nhiên, hiện tại, bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản tỏ ra thận trọng đối với khả năng này. Đã nhiều lần trong năm nay, Tokyo thể hiện sự lo ngại đối với hoạt động ngày càng tăng mạnh của tàu biển Trung Quốc ngay sát gần bờ biển Nhật Bản.
Xin nhắc lại là, căng thẳng giữa hai nước đặc biệt dâng cao, bắt nguồn từ vụ một chiếc tàu cá Trung Quốc bị Nhật Bản bắt giữ ngày 08/09, sau các va chạm với tàu tuần tiễu Nhật. Thuyền trưởng chiếc tàu cá đã bị câu lưu 16 ngày, trước khi được Tokyo ra lệnh trả tự do thứ sáu tuần trước, trong bối cảnh Trung Quốc phản ứng dữ dội.
Việc Nhật Bản trả tự do cho viên thuyền trưởng kể trên đã gây ra nhiều phản ứng trái ngược tại Nhật Bản. Một nhóm dân biểu thuộc đảng Dân chủ Nhật Bản, đảng của thủ tướng Naoto Kan, đã ra một tuyên bố phê phán chính quyền đã nhượng bộ Bắc Kinh khi đưa ra quyết định này.
Căng thẳng giữa Nhật Bản và Trung Quốc bắt đầu trở lại từ năm 2005, liên quan đến chuyến viếng thăm ngôi đền Yasukuni của thủ tướng Nhật Bản thời đó. Đền Ngôi đền này bị coi là biểu tượng của chủ nghĩa đế quốc Nhật. Theo nhận định của bà Valérie Niquet, Giám đốc Trung tâm châu Á (Học viện Quan hệ quốc tế Pháp), tác giả cuốn sách « Đối đầu Trung-Nhật » (xuất bản năm 2006), tình hình hiện nay còn nghiêm trọng hơn.
“Hiện tại thì Trung Quốc còn không ở vào vị thế của nước đi tìm sự hòa dịu. Và đây chính là vấn đề. Về phần mình, thì hiện thời, Tokyo không tìm cách đẩy xung đột lên đến mức cao, và dường như hài lòng với tình hình bình ổn trong một khu vực khá bất ổn trên mọi cấp độ, thêm vào đó là quan hệ kinh tế rất chặt chẽ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Tóm lại, trong hiện tại, nếu Bắc Kinh vẫn tiếp tục đi theo chiến lược đối ngoại bành trướng thế lực và thể hiện sự lấn lướt đối với các nước láng giềng, thì sự hòa dịu trong khu vực khó có thể đạt được. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần ghi nhận là rất nhiều nước trong vùng mong muốn Trung Quốc tham gia tích cực hơn vào hợp tác khu vực và toàn cầu. Về chuyện này, hiện nay tại châu Á, có thể thấy có một thái độ lo lắng, cũng như một nỗi thất vọng lớn đối với chiến lược gây căng thẳng của Bắc Kinh”. ( RFI )
————————————————————————————————————————————————————————–
Điều gì khiến thị trưởng quyền lực của Moscow ‘gục ngã’?
Thị trưởng gạo cội
Ông Luzhkov là một trong những người sáng lập đảng cầm quyền Nước Nga thống nhất và là một nhân vật trong ban lãnh đạo đảng. Ông được bổ nhiệm vào vị trí Thị trưởng thành phố Moscow năm 1992 và đến nay trải qua ba đời Tổng thống, 6 kỳ Quốc hội và 10 đời Thủ tướng.
Theo ông Sergei Mironov, người đứng đầu Hội đồng liên bang Nga, sở dĩ ông Luzhkov có thể tại nhiệm trong khoảng thời gian dài như vậy là do thị trưởng này sở hữu “quyền lực vô hạn”.
![]() |
Với 18 năm kinh nghiệm, ông được đánh giá là chính trị gia quyền lực trong chính quyền Nga. |
Chủ tịch Viện Chiến lược quốc gia Mikhail Remizov nhận xét, có những đánh giá trái chiều về sự lãnh đạo của ông Luzhkov: “Giai đoạn thứ nhất là vào những năm 1990, khi ông Luzhkov làm rất nhiều cho thành phố và tạo lập mô hình xã hội định hướng kinh tế đại đô thị. Tất nhiên, vị trí thuận lợi của Moscow tạo điều kiện thực hiện ý tưởng này. Giai đoạn lãnh đạo tiếp theo của ông Luzhkov là thời kỳ đan xen các biểu hiện tiêu cực như sự nhập cư bất hợp pháp ồ ạt, tham nhũng tràn lan, xuất hiện không ngừng những điểm xây dựng mới trong thành phố, vi phạm cảnh quan đô thị và lợi ích của người dân”.
Kết quả chính mà hoạt quản lý của ông Luzhkov đem lại là sự biến đổi đáng kể diện mạo kiến trúc Moscow. Trưởng Khoa truyền hình ĐH Tổng hợp Moscow Vitaly Tretyakov từng là biên tập viên chính của tờ Moscow Times cho biết thêm: “Trong những năm gần đây, diện mạo kiến trúc lịch sử của trung tâm Thủ đô hầu như bị phá hủy. Nhiều vấn đề tồn đọng không được giải quyết. Ông Luzhkov chỉ biết và lắng nghe thị hiếu nghệ thuật của bản thân, điều đáng tiếc là ông không có”.
Mất chức vì ‘ngông cuồng’?
Tuy nhiên, Tổng thống Medvedev hôm qua chính thức “nhổ rễ cây cổ thụ Yuri Luzhkov”. Thủ tướng Vladimir Putin cho rằng, ông Luzhokov mất chức vì để mối quan hệ với Tổng thống xấu đi.
Phát biểu với báo giới về sự việc trên, Thủ tướng Putin cho biết: “Ông Yury Luzhkov đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của thành phố Moscow và ở một chừng mực nào đó, ông ấy là một nhân vật có tính biểu tượng của nước Nga hiện đại. Tuy nhiên, rõ ràng quan hệ giữa Thị trưởng thành phố Moscow và Tổng thống ngày càng trở nên tồi tệ. Trong khi đó, Thị trưởng là cấp dưới của Tổng thống. Vì thế, ông Luzhkov đáng ra phải chủ động hàn gắn quan hệ trong tình hình này”.
Tuy nhiên, dường như ông Luzhkov không nhận thức được điều này. Theo bà Natalia Timakova, phát ngôn viên của Tổng thống, ông Luzhkov được đề nghị từ chức trong danh dự và tùy ông quyết định kịch bản ra đi. Bởi vậy, thống nhất với văn phòng Tổng thống, ông Luzhkov xin nghỉ phép một tuần.
Trở lại công việc vào ngày thứ 2 sau kỳ nghỉ, ông Luzhkov trông bình thản và sảng khoái. Ông tuyên bố không có ý định từ chức. Bộ phận báo chí của ông thậm chí còn thông báo kế hoạch hoạt động của thị trưởng trong tháng 10, như không có chuyện gì xảy ra. Và kết cục khắc nghiệt nhất xảy ra. Các nhà phân tích cho rằng thị trưởng mắc “bệnh ngôi sao”, rằng chính ông có lỗi khi không chịu thỏa thuận.
Một nhà bình luận nhận xét: “Thị trưởng quên mất rằng ông là quan chức do người đứng đầu nhà nước bổ nhiệm, ông đặt mình cao hơn các quan chức khác”.
![]() |
Ông Luzhkov kiên quyết không từ chức bất chấp sức ép từ Chính phủ. |
Tuy nhiên, theo giới quan sát, sự ra đi của ông Luzhkov có thể làm ổn định tình hình chính trị và kinh tế không chỉ ở Thủ đô Moscow mà toàn nước Nga.
Bên cạnh đó, giới quan sát Nga nhận định, sự ra đi của thị trưởng đầy quyền uy và tai tiếng này chính là “điểm nhấn” trong cuộc chiến chống tham nhũng của ông Medvedev. Theo họ, không phải vô cớ mà gần đây người dân Moscow liên tục được giới truyền thông “nhắc nhở” về những vụ việc lạm dụng quyền lực của thị trưởng Luzhkov để giúp vợ là bà Yelena Baturina, người phụ nữ giàu thứ 3 thế giới đút túi số tiền 2,9 tỷ USD từ các dự án xây dựng.
Nhiều chuyên gia đánh giá cao “sự khéo léo” của ông Medvedev trong việc “đánh trúng” vào những nhức nhối của người dân Nga. Dù tuyên chiến với nạn tham nhũng ngay từ khi bước chân vào điện Kremlin với nhiều sắc lệnh cứng rắn nhưng những nỗ lực của ông dường như không có kết quả. Mức độ tham nhũng hiện nay không suy giảm, ngược lại, theo nhiều đánh giá, nó đang gia tăng. Theo tổ chức Minh bạch quốc tế, Nga xếp thứ 146 trong số 180 quốc gia được nghiên cứu và số tiền tham nhũng ở nước này lên tới 300 tỷ USD mỗi năm.
Ông Dmytry Medvedev hồi tháng 7 cũng thừa nhận, cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Nga trên thực tế không tiến triển gì kể từ khi ông lên nắm quyền cách đây hai năm. “Hoạt động chống tham nhũng của chúng ta chưa làm hài lòng ai. Tôi biết rằng, chúng ta chưa ghi nhận được nhiều thành tích có ý nghĩa trong việc này. Những nỗ lực được triển khai trong khuôn khổ cuộc đấu tranh chống tham nhũng thường xuyên chỉ là ký kết nhiều văn bản giấy tờ mà thôi”, Tổng thống nhấn mạnh. Ông chủ điện Kremlin còn than phiền: “Một số quan chức cố tình làm trái lệnh tôi”.
Vì vậy, việc “đánh gục” một “hình tượng tham nhũng” như thị trưởng Luzhkov chắc chắn sẽ gây ấn tượng mạnh trong lòng dân chúng, đặc biệt trong thời điểm “nhạy cảm” với phía trước là cuộc bầu cử Tổng thống Nga dự kiến diễn ra vào tháng 3/2012.
“Quyết định sa thải được đưa ra rất đúng thời điểm và đúng đối tượng. Dù ông Luzhkov một mực khẳng định khối tài sản kếch xù của vợ ông có được là do sự thông thái của bà nhưng bất cứ người dân nào cũng có thể nhận ra rằng các dự án xây dựng tại Thủ đô mang lại khoản lợi nhuận không nhỏ cho bà tỷ phú”, ông Konstantin Simonov, nhà phân tích khoa học chính trị tại Moscow nhấn mạnh.
Ông Konstantin Simonov nêu rõ, dù Moscow trở nên sạch hơn, đẹp hơn sau 18 năm ông làm thị trưởng nhưng dư luận bất bình vì việc ông dẹp bỏ nhiều tượng đài lịch sử của Thủ đô để lấy chỗ xây dựng những ngôi nhà chọc trời bằng kính và bêtông. Trong khi đó, việc xây dựng do chính công ty của bà Baturina đảm nhận.
![]() |
Thị trưởng Yuri Luzhkov có mối quan hệ thân thiết với Thủ tướng Putin. |
Phản pháo lại những cáo buộc này, bà Baturina khẳng định, chồng mình bị “vạ lây” trong cuộc cạnh tranh giữa Tổng thống Medvedev và Thủ tướng Putin trước cuộc bầu cử Tổng thống năm 2012. Theo bà, ông Medvedev “ra tay” bởi lo sợ ông Luzhkov ủng hộ Thủ tướng Putin quay trở lại điện Kremlin. Ông này từng phát biểu, nước Nga cần một vị lãnh đạo mạnh mẽ hơn, kiên quyết hơn mà theo nhiều chuyên gia người ông muốn ám chỉ đến chính là Thủ tướng Putin.
Tờ Ria Novosti cũng nhận định, việc sa thải Thị trưởng Yuri Luzhkov là một tín hiệu cho thấy Tổng thống Medvedev đang khẳng định quyền lực và phong cách lãnh đạo mạnh mẽ, quyết đoán của mình trước các đối thủ trong cuộc bầu cử Tổng thống, mà theo giới truyền thông Nga, đối thủ nặng ký nhất của ông Medvedev trong lần bầu cử này rất có thể đương kim Thủ tướng Vladimir Putin.
Tuy nhiên, những lý do dẫn đến sự sụp đổ của “đế chế Luzhkov đang dần bị lu mờ bởi những lo ngại về nhân vật thay thế ông. Dư luận Nga đang rất quan tâm xem ai sẽ là tân thị trưởng Moscow. Những ứng cử viên sáng giá bao gồm Chánh văn phòng Chính phủ Sergei Sobyanin, Bộ trưởng Tình trạng khẩn cấp Sergey Shoigu, cựu Phó Thị trưởng Moscow – giờ là Thống đốc tỉnh Nizhnegodrodskaya Valeri Shantsev và Bộ trưởng Quốc phòng Anatoli Serdyukov. Nhiều chuyên gia cho rằng, dù người thay thế ông Luzhkov là ai thì nhân vật này cũng phải đối mặt với không ít thách thức để có thể thoát khỏi “cái bóng” của cựu thị trưởng gạo cội “có công nhưng cũng lắm tội”.
Hai tỉ phú Mỹ đến Trung Quốc bàn chuyện làm từ thiện
Hai tỉ phú Mỹ đang có mặt tại Trung Quốc để ăn tối với các tỉ phủ Trung Quốc. Trọng tâm của bữa ăn là bàn về chuyện làm từ thiện.

Hình: ASSOCIATED PRESS
Hai nhà tỉ phú Mỹ Bill Gates và Warren Buffet
Buổi ăn dẫn đến một cuộc tranh luận gay gắt tại Trung Quốc, liệu những người siêu giầu tại Trung Quốc có nên làm theo những người siêu giầu của Mỹ hay làm – là tặng một phần lớn, nếu không nói là tất cả tài sản của họ cho các tổ chức từ thiện.
Ông Dien Yuan, viết một trang blog Diễn đàn Nhân đạo châu Á nói lòng nhân đạo theo kiểu Mỹ vẫn còn là một ý niệm vừa mới được nổi lên tại Trung Quốc:
“Có nhiều người Trung Quốc vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của sự giàu có. Họ vẫn tiếp tục làm giàu thêm và chưa nghĩ đến chuyện từ thiện trong lúc này, đặc biệt là tặng một số lớn tài sản mà họ phải vất vả mới có được. Hiện tại, họ chỉ nghĩ đến tích lũy để có thể chăm sóc cho thế hệ kế tiếp, những người già yếu và những người phải phụ thuộc vào họ. Do đó ý tưởng tặng tiền, dù chỉ cho những mục đích có tính cách tổng quát, cũng còn là một điều tương đối mới.”
Khi nhận được giấy mời tham dự buổi ăn tối vào tháng 8 vừa qua, một số người băn khăn hỏi là liệu họ có được yêu cầu đóng góp tiền bạc ở đây hay không:
“Nhiều tỉ phú được mời có chút do dự bởi vì khi tham dự buổi ăn tối họ được công chúng chú ý và công chúng sẽ hỏi ông tỉ phú tại sao ông không dâng hiến gì cả. Tại Trung Quốc, áp lực của công chúng rất quan trọng.”
Ông Dien nói thêm vào đó, chính sách thuế của Trung Quốc chưa có khoản tưởng thưởng cho những người có lòng nhân đạo:
“Tại Hoa Kỳ có nhiều khích lệ về pháp lý, như giảm thuế. Có nhiều cơ cấu pháp lý được thành hình để khuyến khích những người có lòng nhân đạo, trong khi tại Trung Quốc những qui định pháp lý chưa theo kịp với khuynh hướng trao tặng. Do đó chưa có nhiều những khích lệ về pháp lý hay thuế vụ để khuyến khích lòng nhân đạo mạnh thêm.”
Theo tạp chí Forbes, trong số 937 người giàu nhất thế giới, Trung Quốc chiếm đến 64 người.
Tân Hoa Xã loan báo ông Chen Guangbao, một người có lòng nhân đạo nổi tiếng nhất Trung Quốc cho biết sẽ tặng 100% tài sản của ông cho các tổ chức từ thiện và hơn 100 doanh nhân khác của Trung Quốc cũng quyết định làm như thế. ( VOA )
Phụ nữ làm tình không chỉ vì tình yêu
Một cuốn sách mới xuất bản có tên “Tại sao phụ nữ lại quan hệ tình dục” đã đưa ra rất nhiều lý do khiến phái đẹp lên giường với một ai đó. Các nàng hưởng thụ tình dục không phải vì tình yêu và niềm đam mê mà còn rất nhiều lý do không lãng mạn cho lắm.
Cindy Meston và David Buss đồng tác giả cuốn sách và là các giáo sư tâm lý học tại Đại học Texas (Mỹ) đã nêu ra những nguyên nhân cơ bản khiến chị em có hành động này.
Đẩy sự cuốn hút về thể xác xuống cuối danh sách, có vẻ như phụ nữ quan hệ với nhiều đối tác như là cách để phá tan sự nhàm chán, chữa căn bệnh đau nửa đầu, giữ tâm trí được yên bình và thậm chí họ giao ban chỉ để cảm ơn người đàn ông vì đã cho họ bữa tối ngon lành.
Cindy Meston cho biết: “Nghiên cứu đã cho thấy phần lớn đàn ông ân ái với phụ nữ vì họ tìm thấy sự hấp dẫn tính dục, ngược lại, phần lớn chị em lại chẳng tìm thấy sự hấp dẫn giới tính nào ở bạn tình nam”.
Các nhà nghiên cứu đã phỏng vấn 1.006 phụ nữ để viết lên cuốn sách này và phát hiện ra vô vàn những câu trả lời đáng kinh ngạc.
Một người trong số họ tiết lộ rằng mình làm việc đó vì muốn được trải nghiệm trong tâm linh, đó như là cách để cô ấy gần với Chúa nhất.
Những người khác lại liệt kê lý do họ có sex: chữa bệnh nhức đầu do căng thẳng, rèn luyện kỹ năng giường chiếu và làm vậy có một nước da mịn màng hơn.
Tuy nhiên, phần lớn (84%) thừa nhận họ “giao ban” để đảm bảo cho cuộc sống thanh thản hoặc lên giường như là cách mặc cả với chồng để anh ta làm việc nhà. “Thà quan hệ còn hơn là để nổ ra một cuộc cãi vã với chồng. Thêm vào đó nó mang đến cho tôi cảm giác phải làm một việc gì đó”, một người tham gia cuộc nghiên cứu cho biết.
Vài người lại thừa nhận: “Tôi đã lên giường với đàn ông bởi vì cảm thấy thương xót họ”.
Một trong số 10 người tham gia cuộc nghiên cứu thừa nhận rằng quan hệ để đổi lấy quà tặng hoặc một bữa ăn xa hoa. Chị em coi việc “Anh ấy đãi cho tôi một bữa tối tuyệt vời” hoặc “Anh ta mua cho tôi một món quà rất đẹp và đắt tiền” và “Anh ấy cho tôi thấy một cuộc sống xa hoa là thế nào”… rất xứng đáng để “tặng” chàng một đêm mặn nống.
@ DatViet
————————————————————————————————————————————————————————
Vì sao Trung Quốc sẽ đè bẹp cả thế giới
Tác giả: Aleksandr Khramchikhin[1]
Vấn đề lớn nhất của nhân loại có lẽ là ở chỗ, nó không hiểu Trung Quốc hiện nay là cái gì và Trung Quốc đang có những khuynh hướng phát triển như thế nào? Nhưng mặt khác, có thể, nhân loại không hiểu được như thế lại hoá hay. Bởi vì, hiểu ra điều đó là chuyện cực kì nặng nề, và cái chính là, dẫu có hiểu, nó cũng đành bất lực, chẳng làm được trò gì.
Có thể đành phải chờ đợi và đoán xem, đất nước này dùng cách nào để đè bẹp phần còn lại của thế giới. Kiểu tiếp cận Trung Quốc thông thường của phương Tây hoàn toàn không phù hợp.`Một mặt, chủ nghĩa duy tâm ngớ ngẩn của những chú panda huggers, hi vọng Trung Quốc sẽ hoà nhập vào hệ thống kinh tế và chính trị hiện hành do phương Tây tạo ra một cách ôn hoà, hiền lành, ngoan ngoãn, tiếp tục bì bạch chạy theo người tiêu dùng giày dép thể thao và laptop ở phương Tây để nhận khoản tiền lương hậu hĩnh nhất là 100 đô la mỗi tháng. Mặt khác, tầm nhìn cuồng tín, nông cạn về tư tưởng của China hawks, cho rằng mọi vấn đề của Trung Quốc đều bắt nguồn từ việc nước này không có nền dân chủ theo kiểu phương phương Tây. Trung Quốc sắp sụp đổ vì không có dân chủ. Hoặc là Trung Quốc sẽ tấn công, chiếm lấy tất cả, vì nước này không có dân chủ. Hoặc, lúc đầu nó tấn công, sau đó nó sụp đổ, vì nó không có dân chủ. Hoặc lúc đầu nó sụp đổ, sau đó nó tấn công, bởi vì… Chao ôi, những kẻ đần độn thật bất hạnh.
Tuy thế, Trung Quốc cũng có nhiều người không đần độn. Ấy là những người hiểu rất rõ, rằng nếu đưa dân chủ kiểu phương Tây vào Trung Quốc, thì nó sẽ sụp đổ ngay lập tức. Quan điểm về Trung Quốc của Nga là hỗn hợp kì lạ giữa mối sợ hãi bản năng và niềm hi vọng về một thứ bạn “cùng thuyền chiến lược” trên mặt trận chống Hung thần – Đế quốc Mĩ. Quan niệm ấy không thể xem là hợp lí. Trung Quốc hiện nay có hàng loạt đặc điểm nổi bật. Nói vắn tắt, nó là thế này:
1. Là sự kết hợp giữa một bên là sự hiện diện của một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới có nhịp độ phát triển nhanh và trình độ kĩ thuật cao, với một bên là những vấn đề kinh tế – xã hội mang tính đặc thù của những nước kém phát triển.
2. Dân số khổng lồ, vượt quá khả năng đáp ứng của hoàn cảnh thiên nhiên. Dân số cho phép tối đa ở Trung Quốc chỉ có thể là 700 đến 800 triệu người. Thế mà trong thực tế, ai cũng biết, dân số nước này đã lên trên 1.3 tỉ, đã vậy, dù đã tìm đủ mọi cách để hạn chế, nó vẫn đang tiếp tục tăng trưởng. Thêm vào đó, 94% dân cư Trung Quốc đang sinh sống trên 46% lãnh thổ.
3. Giữa thành phố và nông thôn, giữa các vùng miền, có sự phân hoá cao nhất thế giới. Giữa thành phố và nông thôn, sự khác biệt cao tới mức, các thống kê về kinh tế – xã hội của nông thôn và thành phố phải lập riêng rẽ, y như là thống kê ở những nước khác nhau. Sự chênh lệch giữa các vùng miền còn lớn hơn nữa. Tổng thu nhập của các tỉnh duyên hải miền đông – nam Quảng Đông cao hơn 90 lần so với tổng thu nhập của khu tự trị Tây Tạng phía tây – nam nước này. Nếu xem các vùng miền của Trung Quốc như những nước khác nhau, thì Quảng Đông về quy mô kinh tế được xếp vào loại 30 nước hàng đầu, vượt cả những nước ví như Argentina. Trong khi đó, Tây Tạng đứng vào hàng 130 – 140 thuộc nhóm Nigiêria, Malawi, Tadjikistan. Gộp tất cả sự tương phản ấy lại với nhau, tức là đem so sánh mức sống trung bình của các thị dân Bắc kinh, Thượng Hải, Thâm Quyến với mức sống trung bình của người nông dân ở Quý Châu hay Tây Tạng, thì vấn đề không còn là chuyện số lần hơn kém, mà là chuyện trật tự của các kích cỡ. Sự thật là ở nước này, có một số xã hội hoàn toàn khác nhau, từ xã hội nông nghiệp cổ truyền đến xã hội hậu công nghiệp. Đó là những xã hội không chỉ hoàn toàn khác nhau về mức sống, mà còn hoàn toàn khác nhau về tâm tính. Hơn nữa, sự chênh lệch có xu hướng ngày càng gia tăng, chứ không giảm bớt.
4. Tốc độ lão hoá của dân cư và sự chênh lệch về giới ở các nhóm thuộc tốp người trẻ tuổi cao nhất thế giới. Dân số ở những tốp dân cư ở độ tuổi trung niên tăng nhanh gấp đôi so với toàn bộ dân cư nói chung. Về cơ bản, đây là điều đang lặp lại khuynh hướng mang tính đặc thù của các nước phương Tây, nhưng ở phương Tây, quá trình lão hoá của dân cư chậm hơn rất nhiều và nó chỉ bắt đầu khi tổng thu nhập tính theo đầu người đạt từ 5 đến 10 nghìn đô la (ở Trung Quốc hiện nay vẫn còn dưới 2 nghìn đô la). Đồng thời, ở Trung Quốc, gia đình chính thức phải gánh trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng người già. Chỉ có 1/6 người già sống bằng nguồn lương hưu trí, người già ở nông thôn hoàn toàn không có trợ cấp xã hội. Tức là người ta không trả lương hưu cho nông dân, mặc dù thu nhập của họ thấp hơn nhiều lần so với thu nhập của thị dân. Theo truyền thống, cho đến nay, việc phụng dưỡng cha mẹ vẫn là trách nhiệm của người con trai nối dõi tông đường và được ăn thừa tự. Thế mà sinh đẻ lại bị hạn chế để giảm bớt gia tăng dân số, nên mới nảy sinh sự chênh lệch về giới. Tương quan giữa trẻ trai và trẻ gái sơ sinh ở Trung Quốc đang cố giữ trong tỉ lệ 102-107:100, tối đa là 117:100, nhưng ở các tỉnh lẻ, tỉ lệ này là 130:100, còn ở nông thôn, có nơi lên tới 150:100. Chỉ mấy năm nữa, thế hệ bước vào tuổi hôn nhân sẽ có 20 triệu nam thanh niên bị “thiếu” cô dâu. Rõ ràng, đây là hiện tượng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại, bởi vậy, sẽ rất khó tiên đoán hậu quả xã hội của nó và việc tìm ra con đường để giải quyết vấn đề cũng sẽ hết sức phức tạp. Tiếp tục duy trì các xu hướng phát triển hiện nay (thực ra, xu hướng phát triển này ngày càng trở nên trầm trọng, chứ không thể duy trì), đến một lúc nào đó sẽ xuất hiện tình trạng: cô dâu trở thành hàng hoá. Nếu tính thêm những thay đổi trong quan niệm của lớp nữ thị dân có giáo dục, xem lập nghiệp có ý nghĩa quan trọng hơn hôn nhân, sẵn sàng gác việc lấy chồng tới giới hạn cuối cùng có thể được, thì đàn ông thành phố sẽ muốn kết hôn với phụ nữ nông thôn, còn đa số đàn ông nông thôn sẽ không có cơ may lấy được một người vợ. Trong trường hợp này, xung đột giữa thành phố và nông thôn, giữa những vùng phát triển và vùng lạc hậu sẽ trở thành mâu thuẫn mang tính đối kháng. Một cuộc nội chiến giành giật cô dâu – “đó là thứ còn dữ dội hơn cả “Faust” của Goethe”.
5. Sức ỳ hệ thống rất cao, do tình trạng bảo thủ xã hội cực kì phức tạp, lại ở quy mô rộng lớn và mức độ trầm trọng. Giới cầm quyền Trung Quốc từ lâu đã nhìn thấy và hiểu ra, nó phải chấp nhận quan niệm lệch lạc “tăng trưởng tương đương với phát triển”. Nó cũng có dự định sửa chữa hoàn cảnh, nhưng chẳng thu được kết quả nào cả. Tăng trưởng kinh tế dựa trên mô hình sử dụng lao động quảng canhtiếp tục phá mọi kỉ lục, hoàn thành vượt mức tất cả các kế hoạch sản xuất. Nhưng đồng thời, “các kế hoạch” tiêu sài tài nguyên và phá huỷ môi trường cũng thi nhau phá mọi kỉ lục. Thay vì hạn chế một cách có kế hoạch, khối lượng điện năng được sử dụng vẫn không ngừng tăng lên. Khối lượng các loại phế thải độc hại vẫn tăng, chứ không giảm. Mọi dự báo về mức độ sử dụng xăng dầu hàng năm của Trung Quốc đều sụp đổ, thực tế hoá ra còn tồi tệ hơn các phương án dự báo về những khả năng tồi tệ nhất.
6, Sự hiện diện của những mâu thuấn phát triển không thể xoá bỏ trong khuôn khổ của mô hình kinh tế đang vận hành ở Trung Quốc. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ nói sau.
7. Thiếu một mô hình lựa chọn phù hợp cho phép xoá bỏ các mâu thuấn và nền tảng phương pháp luận tạo ra mô hình ấy. rõ ràng, hoàn toàn không có khả năng tạo ra một mô hình lựa chọn như thế.
8. Quy mô của hệ thống vấn đề nảy sinh từ phạm vi dân cư và kinh tế đã biến những vấn đề của Trung Quốc thành những vấn đề của toàn bộ thế giới.
Vô khối những thứ “cao nhất thế giới” kể ra ở trên mới chỉ là chuyện tỉ lệ phần trăm. Nhưng ở đây, còn phải nhớ cả những đại lượng tuyệt đối. Đặc biệt là về con số 1,3 tỉ dân, về hơn 200 triệu chủ thể chủ thể đang hoạt động kinh doanh. Từ những quy mô này, sự chênh lệch trong tỉ lệ phần trăm rất dễ biến thành những con số khổng lồ khi chuyển chúng sang các đại lượng tuyệt đối: 200-300 triệu thất nghiệp, 150 di dân nội địa v.v…, và v.v…
Bây giờ xin nói về những mâu thuẫn cơ bản.
Vì sao chuyện này thường bị lờ đi? Quả tình, người ta đã viết rất nhiều về những mâu thuẫn riêng lẻ, cục bộ, nhưng lại không xem xét các mâu thuẫn ấy trong tổng thể của chúng.
1. Mâu thuẫn giữa nhu cầu duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao dựa vào các khu vực thuê mướn lao động nhằm mục đích đảm bảo việc làm cho dân cư ngày càng phát triển và nhu cầu giảm bớt nhịp độ tăng trưởng, chuyển từ nền sản xuất chú trọng số lượng sang nền sản xuất chú trọng chất lượng, có cân nhắc tới đặc điểm tài nguyên – sinh thái.
2. Mâu thuấn giữa đòi hỏi và nhu cầu ngày càng cao của dân cư với nguồn tài nguyên, chẳng riêng gì của Trung Quốc, mà ngay của cả hành tinh cũng không đủ khả năng đáp ứng các đòi hỏi và nhu cầu ấy.
3. Mâu thuấn giữa nhu cầu tiếp tục thực hiện chính sách “Mỗi gia đình – một con” với nhu cầu giảm bớt các hạn chế nhân khẩu theo những cân nhắc về đặc điểm xã hội.
4. Mâu thuẫn giữa chính sách dựa vào dân số như một nguồn tài nguyên kinh tế và năng lực cạnh tranh cơ bản với tình trạng dân số quá đông như một vấn đề nghiêm trọng của đất nước.
Trong quá trình cải cách mở cửa, Trung Quốc đã sử dụng khối dân cư khổng lồ, vừa cần cù, lại vừa dễ tính, chẳng quen đòi hỏi gì, như một thứ tài nguyên cơ bản. Nhân loại cũng hả hê đồng tình với điều đó để biến Trung Quốc thành một “xưởng lắp ráp toàn thế giới”. Sự dồi dào của nguồn nhân công vô tận và, ứng với điều đó, tình trạng cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động đã cho phép duy trì mức chi phí thấp, nhờ thế, sản phẩm của Trung Quốc có giá cả rất rẻ. Tuy nhiên, tình trạng thất nghiệp chỉ có lợi khi dừng lại ở một giới hạn nào đó, vượt quá giới hạn ấy, nó sẽ trở thành mối đe doạ thực tế với sự ổn định xã hội. Vậy mà quân số lao động vẫn không ngừng tăng lên, đòi hỏi phải được “sử dụng”. Cách tốt nhất để sử dụng nguồn lao động này là tiếp tục tăng cường sản xuất hàng hoá thông dụng, huống chi chính khu vực sản xuất này đã thu về cho đất nước một nguồn ngoại tệ khổng lồ. Nhưng, dĩ nhiên, nó cũng đòi hỏi phải có một số lượng nhiên liệu khổng lồ mà bản thân Trung Quốc không thể có đủ, dẫn tới việc huỷ hoại ngày càng dữ dội môi trường thiên nhiên mà chắc chắn sẽ tạo ra một thảm hoạ sinh thái vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại. Những nhân tố này đã bắt đầu “ngốn” vào chính sự tăng trưởng kinh tế như là hậu quả của nó. Việc cải biến một nền sản xuất thiên về số lượng, dựa vào lao động phổ thông thành một nền sản xuất chú trọng tới chất lượng, dựa vào lao động khoa học, trước hết, đòi hỏi phải đầu tư một nguồn kinh phí khổng lồ (nhất là để nâng cao trình độ giáo dục còn rất thấp của dân cư), sau nữa, sẽ dẫn tới nạn thất nghiệp tăng lên một cách gay gắt và điều này chắn chắn sẽ tạo ra nguy cơ nghiêm trọng thực sự đe doạ sự ổn định xã hội.
Đúng là cả xã hội Trung Quốc nói chung đang thực sự quan tâm tới việc tìm kiếm một lối thoát ra khỏi tình huống được hình thành ở nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa hiện nay. Nhưng, đồng thời, đại diện của tuyệt đại đa số các nhóm xã hội đều muốn duy trì mô hình cải cách hiện nay. Dĩ nhiên, điều này liên quan trực tiếp tới các nhóm xã hội được hưởng lợi từ những cuộc cải cách (tầng lớp quan liêu, các nhà kinh doanh, công nhân có tay nghề cao, các nhà môi giới v.v…). Nhưng các nhóm xã hội còn lại, tức là những nhóm không được hưởng lợi từ cải cách, thì không hề quan tâm tới sự thay đổi mô hình, bởi vì nó chỉ làm tăng thêm số lượng những người nông dân mất ruộng đất và đội quan thất nghiệp khiến cho địa vị của họ trở nên tồi tệ hơn.
Cho nên, xung đột giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài có ý nghĩa quan trọng với tuyệt đại bộ phận các thành viên của xã hội Trung Quốc. Thực tế, con người bao giờ cũng giải quyết xung đột ấy vì lợi ích trước mắt. Tức là xuất phát từ việc duy trì mô hình phát triển hiện nay.
Mà chính phương Tây cũng muốn duy trì mô hình ấy. Phương Tây sẽ còn tụng niệm rất nhiều, rất hay cho chính bản thân mình về sự tuyệt diệu của xã hội thông tin hậu công nghiệp. Đồng thời, không hiểu vì sao, có một sự thật bị xem nhẹ, ấy là cư dân của thiên đường mặt đất này cũng phải ăn, mà phải ăn nhiều,ằn ngon; phải xỏ giày dép, mặc quần áo, áo quần giày dép phải đẹp, phải rẻ, phải đi trên những chiếc xe hơi tuyệt hảo và phải dùng những chiếc máy tính thật tinh xảo để làm việc (nếu klhông thế, sao gọi là xã hội thông tin?). Có điều, tất cả những thứ này vẫn cần phải cso một ai đó làm bằng tay, mà lại muốn sao cho thật rẻ.
Đây rồi, chính người Trung Quốc đang làm. Họ làm bằng tay, rất nhiều và rất rẻ.
Chẳng ai muốn động óc suy nghĩ về hậu quả của sự mầu nhiệm ấy.
Nhân loại cố tình nhắm mắt, không muốn nhìn xem sự tăng trưởng tiếp theo của trung Quốc sẽ đẫn tới đâu – ngay cả khi quan điểm “tăng cường bình ổn” đang được giới giới cầm quyền Trung Quốc tuyên truyền hiện nay là sự thật, chứ không phải tuyên truyền.
Phương Tây sẽ còn sụt sùi rất lâu về việc “phát triển bên vững” và xoá bỏ bất bình đẳng trong mức sống giữa các quốc gia phát triển và các nước đang phát triển. Nhưng tất cả đều hiểu rất rõ, rằng đại đa số các nước đang phát triển sẽ không bao giờ đuổi kịp trình độ của các quốc gia phát triển. Bởi vì, nếu đưa “cá” cho các nước ấy, tầng lớp tham nhũng “ưu tú” ngày càng phình to sẽ chén sạch, rồi sau đó lại xin thêm “cá”. Nhưng nếu đưa “cần câu” cho các nước đang phát triển, họ dễ dàng bẻ ngay cái “cần câu” ấy.
Trung Quốc thuộc về số ngoại lệ rất ít ỏi. “Cá” nó không cự tuyệt, mà “cần câu” nó sử dụng cũng rất tài, nếu có ý đồ tước đoạt “cá” và “cần câu” (hoặc có ý không đưa), nó sẽ dùng sức mạnh để cướp giật cho mình.
Cư dân Nigeria dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng sẽ không sống như cư dân Thuỵ Điển. Trên lí thuyết, cư dân trung Quốc có thể có tham vọng vượt lên cao hơn mức sống ấy. Không ai có khả năng và có quyền cấm họ làm như thế.
Chỉ có điều phải nhớ, tài nguyên của cả hành tinh không đủ để đảm bảo cho mỗi người dân Trung Quốc có mức sống như vậy. Họ không đủ ăn, không đủ xăng dầu và bao nhiêu thứ vật dụng không kém cần thiết khác. Thế thì sẽ chẳng còn gì để dành phần cho người khác. Tức là chúng ta chỉ còn mỗi việc là phải tin, rằng Trung Quốc (đất nước có dân cư đông nhất thế giới, có quân đội hùng mạnh và sự ngạo mạn ngút trời) sẽ mãi mãi kiên trì gia công hàng hoá thông dụng cho những người ngoại quốc giàu có bằng cái giá của sự nghèo túng của riêng mình.
Có lẽ, phải gọi niềm tin ấy là chủ nghĩa phê phán thì chính xác hơn.
Với những gì đã trình ở trên, chúng ta hoàn toàn không thể hiểu, Trung Quốc sẽ làm thế nào để tránh, không bành trướng ra bên ngoài bằng tất cả các hình thức của nó (kinh tế, chính trị, nhân khẩu, quân sự). Nó hoàn toàn không có sức sống trong các ranh giới hiện nay của mình. Hoặc là nó phải lớn lên gấp bội, hoặc là nó buộc phải nhỏ hơn rất nhiều. Bởi thế, vấn đề không phải là sự xâm lược của Trung Quốc, mà là với nó, bành trướng là kế sách duy nhất để sống sót.
Đó không phải là con ngoáo ộp, mà là hiện thực khách quan đang cắt cứa vào giác quan của ta.
Quả thật, vẫn còn ít người cảm nhận được hiện thực ấy. Nhưng chẳng bao lâu nữa, nó sẽ tới.
Lã Nguyên dịch
Nguồn: Báo “АПН” (Агенство политических новостей)
@ VanhoaNgheAn
————————————————————————————————————————————————————————————————–
“Thư để lại” của một kẻ bị tử hình ở Trung Quốc
Tác giả: Dương Danh Dy(Giới thiệu)
Văn Cường nguyên Giám đốc Sở Tư pháp, nguyên Phó Giám đốc Sở Công an thành phố Trùng Khánh do phạm tội tham ô(nhận hối lộ hơn 12 triệu NDT, không thuyết minh được số tài sản trị giá hơn 10 triệu NDT..) hủ hóa, bao che cho bọn mafia.. đã bị toà án thành phố này tuyên án tử hình ngày 7/7/2010. Trước khi chết hắn đã để lại bức thư, xin lược dịch giới thiệu.
Văn Cường khi đương chức
“Ta sống không nổi mấy ngày nữa đâu. Ta không ngờ lại bị phán tử hình, nhưng đã đến bước đó thì kháng cáo lên trên cũng chẳng có kết quả gì. Ta đây, cả cuộc đời làm công an, đã xử rất nhiều vụ án lớn, đã giết rất nhiều người, trước đây đã từng lo rằng sẽ có một ngày sẽ chết trong tay người nhà một số kẻ bị mình xử tử hình, không ngờ cuối cùng lại bị chết trong tay người của mình…Thế nhưng, ta đã nghĩ ra, những sự việc mà ta tham dự và biết được quá nhiều, nếu ta không chết sẽ có rất nhiều kẻ ăn không ngon ngủ không yên. Không giết ta, hậu hoạn lớn vô cùng, ta chết sẽ có lợi cho bọn chúng…Vì vậy có mấy câu muốn nói rõ trước khi đi xa.
Nói ta tham ô bao nhiêu tiền, chơi bao nhiêu con gái. Ta không phủ nhận điều đó.Nhưng điều ta muốn nói là, điều đó đáng trách ta nhưng cũng không đáng trách ta, tất nhiên trách nhiệm của ta là lớn hơn. Bất kể là ai nếu đặt vào vị trí của ta đều sẽ tham ô nhiều như vậy, chơi gái nhiều như vậy, thậm chí còn nhiều hơn. Có một số nữ học sinh, ta không chơi thì người khác cũng sẽ chơi. Nói Văn Cường ta đây cưỡng hiếp, ta mà lại phải cưỡng hiếp à?…Ai chẳng biết cán bộ hiện nay nếu không tham ô, không háo sắc thì ai dám tin, dám trọng dụng anh? Dù anh làm việc có tốt đi nữa cũng chẳng có ích gì! Loại cán bộ giống như ta, trong cả nước nếu không nói là mấy triệu thì chí ít cũng phải tới mấy chục vạn người. Chỉ bêu xấu rồi giết một mình Văn Cường, thì giải quyết được cái gì?
Điều ta muốn nói nữa là, con đường ta đi từ một anh cảnh sát nhỏ bé tại huyện Ba rồi lên tới chức Phó Giám đốc Sở Công an một thành phố trực thuộc trung ương, không phải là chỉ bằng con đường tham ô…Đối với ta trước tiên là công việc sau mới đến tham ô..Ai cho ta cái quyền muốn làm gì thì làm ở Trùng Khánh? Nhiều người biết rõ một số việc ta đã làm nhưng lại giả bộ là không biết? Đã không muốn để ta sống thì ta sẽ nói hết mọi điều ra: ta tham không chỉ có số tiền đến thế! Vậy số còn lại đi đâu? Tất nhiên là đến nhà người ta, có việc ta nhờ người làm, có một số việc tự ta làm. Nhờ người khác làm không có tiền có được không?. Những người lấy tiền của ta cũng như những người đưa tiền cho ta hiện nay đang hướng dẫn quần chúng tham quan những trưng bầy chứng tích tham ô của ta. Ta không phủ nhận tính chân thực của các chứng tích đó, nhưng nếu các người tới nhà những kẻ đó xem xét sẽ thấy chút quà bẩn thỉu mà ta nhận thật đáng thương.
Văn Cường ta cũng là người có học… Trước đây ở Trung Quốc, đã có rất nhiều người vỗ tay khen ngợi việc chặt đầu bọn tham nhũng.Thế nhưng sau những cái vỗ tay khoái chí đó mọi việc vẫn như cũ.Mấy trăm năm qua Trung Quốc có thay đổi không? Ta thấy chẳng thay đổi gì cả. Giết ta chẳng qua là bịt được mồm một mình ta, nhưng liệu có bịt được nguồn gốc hủ bại không? Hôm qua trên đường phố Trùng Khánh có rất nhiều người đốt pháo. Ta không biết ba năm sau liệu bọn họ lại có phải đốt pháo nữa hay không? Sợ rằng đến lúc đó những người đã bán đứng ta sẽ lại ca ngợi ta và dân chúng không rõ chân tướng lúc này sẽ thấy Văn Cường cũng có chỗ tốt đấy chứ. Khi ta làm Phó Giám đốc công an Trùng Khánh tỷ lệ phạm tội có cao nhưng so với mấy thành phố lớn khác, Trùng Khánh tốt hơn nhiều…
…Biến ta thành người như thế này là do chính xã hội, chính chế độ này. Ta nói như vậy không phải là muốn đẩy hết trách nhiệm cho người khác. Nếu như năm đó ta không rời huyện Ba, yên tâm làm một anh cảnh sát bình thường ở đó thì hôm nay ta không phải như thế này.Tham công danh lợi lộc là sai lầm lớn nhất đời ta. Sau khi ta chết con cháu không lấy họ Văn nữa mà đổi thành họ khác, và con cháu các đời từ nay trở đi đừng theo nghiệp chính quyền, đừng làm quan, hãy xa lánh công danh lợi lộc.
Bình thường, bình yên mới là phúc.”
————————————————————————————————————————————————————————————————–
Ngàn năm Thăng Long – Cơm bụi ca
Xa nhau cực nhớ cực thèm
Ai về Hà Nội gửi em đôi nhời
Cô đầu thời các cụ chơi
Ta đây cơm bụi bia hơi tà tà
Lò mò Cấm Chỉ Bắc qua
Mà coi trai gái vặt quà như điên
Tiết canh Hàng Bút Hàng Phèn
Bún xuôi Tô Tịch phở lên Hàng Đồng
Cháo lòng Chợ Đuổi Hàng Bông
Nhật Tân Âm Phủ mênh mông thịt cầy
Bánh tôm hơ hớ Hồ Tây
Cơm đầu ghế bát ngát ngay vỉa hè.
Cực kỳ gốc sấu bóng me
Cực ngon cực nhẹ cực nhòe em ơi
Đừng chê anh khoái bụi đời
Bụi dân sinh ấy bụi người đấy em
Xin nghe anh nói cực nghiêm
Linh hồn cát bụi ở miền trong veo
Rủ nhau cơm bụi giá bèo
Yêu nhau theo mốt nhà nghèo vô tư!
Nguyễn Duy
@ LucBat
————————————————————————————————————————————————————————-
CẬP NHẬT TIN 29-9-2010

Chế độ Bắc Triều Tiên khởi động việc chuyển giao quyền lực. Hôm nay, 28/09, tại Bình Nhưỡng, Đại hội bất thường của đảng Lao Động Triều Tiên khai mạc. Đây là kỳ họp quan trọng nhất của đảng này kể từ 30 năm nay, nhằm chọn người kế nhiệm « Lãnh tụ vĩ đại », Kim Jong Il.
Vài giờ trước khi khai mạc đại hội, ông Kim Jong Il đã phong cho con trai và em gái quân hàm đại tướng bốn sao. Đây là bước dọn đường cho người con trai của ông, Kim Jong Un, lên kế vị, thay cha.
Thông tín viên của RFI tại Séoul, Frédéric Ojardias phân tích :
“Kim Jong Un, 27 tuổi, người được chỉ định lên kế vị dòng họ Kim đang « trị vì » Bắc Triều Tiên, vừa được phong quân hàm đại tướng bốn sao. Đây là một bước mới trong tiến trình nối nghiệp được khởi động từ hai năm trước, khi cha ông, « lãnh tụ vĩ đại » Kim Jong Il bị tai biến mạch máu não.
Đồng thời, lãnh đạo tối cao Bắc Triều Tiên cũng phong quân hàm tướng cho cô em gái, vốn được xem là người có ảnh hưởng lớn đến ông. Chồng bà là Jang Song Taek, nhân vật số hai của chế độ.
Bên cạnh đó, ông Kim Jong Il cũng bố trí những quân cờ, nhằm chuẩn bị cho con trai ông lên kế vị. Ông đã thăng chức cho những người trung thành, sẽ đóng vai trò như quan nhiếp chính cho Kim Jong Un.
Đó là vì Kim Jong Un còn rất trẻ, hiểu biết rất ít về các thành phần trong guồng máy của đảng. Nhà lãnh tụ tương lai Bắc Triều Tiên dứt khoát cần có sự hỗ trợ, nếu được các bậc lão thành của chế độ chấp nhận và nhất là các tướng lãnh đầy quyền lực của quân đội.
Thế nhưng, thời gian đang rất gấp rút, ông Kim Jong Il đang bệnh nặng. Tại Séoul, một số người tin rằng cuộc đời chính trị của ông không kéo dài quá hai hay ba năm nữa. Như vậy, việc phong chức này sẽ tạo điều kiện cho một sự chuyển giao triều đại vốn khá tế nhị.
Còn tại Hàn Quốc, bộ Tài chính nước này hôm nay thông báo sẽ tăng chi phí quốc phòng năm 2011, nhằm củng cố việc bảo đảm an ninh và mua các loại vũ khí mới.
Như vậy, trong năm tới, chi phí quốc phòng của Hàn Quốc sẽ là 31.200 tỉ won, tương đương 20, 27 tỉ euro, tăng 5,8% so với năm 2010, chiếm tỉ lệ 10% tổng ngân sách quốc gia.
Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cho rằng việc tăng ngân sách phản ánh nhu cầu củng cố năng lực của quân đội nước này. Sau vụ chìm tàu Cheonan hồi tháng ba, làm 46 thủy thủ tử nạn, các chuyên gia quân sự đã nhận định là quân đội Hàn Quốc dễ bị tổn thương khi bị tấn công bằng tàu ngầm hay vũ khí phi qui ước.” ( RFI )
————————————————————————————————————————————————————————–

Tranh cãi với Trung Quốc không tốt cho kinh tế Nhật Bản
Bộ trưởng kinh tế Nhật Bản kêu gọi cải thiện nhanh chóng quan hệ với Trung Quốc, vì một lệnh mới của Trung Quốc, trên thực tế coi như cấm xuất khẩu sang Nhật những loại khoáng sản chuyên biệt, có thể gây tai hại nghiêm trọng cho nền kinh tế Nhật Bản.
Trung Quốc phủ nhận việc cấm xuất khẩu sang Nhật Bản loại đất hiếm rất cần thiết để Nhật chế tạo những sản phẩm công nghệ cao. Tuy nhiên những nhà buôn cho các hãng tin biết là kể từ tuần trước những chuyến hàng chở khoáng sản đã bị đình chỉ và chính phủ Nhật nói đang yêu cầu Bắc Kinh làm sáng tỏ vấn đề này.
Trong một cuộc họp báo hôm thứ Ba, Bộ trưởng Kinh tế Nhật Banri Kaieda nói đến lệnh ngăn cấm trên thực tế do Trung Quốc ban hành. Ông nói điều này có thể có ảnh hưởng “rất lớn” lên nền kinh tế Nhật Bản và liên hệ kinh tế cần phải được lập lại “càng sớm càng tốt.”
Trung Quốc sản xuất hơn 90% nhu cầu của thế giới về đất hiếm. Chất này được dùng trong các sản phẩm như ổ đĩa máy vi tính và xe chạy nửa điện nửa xăng.
Hôm thứ Ba, Nhật Bản loan báo Thủ tướng Naoto Kan có thể tìm cách gặp Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo để thảo luận về vấn đề này trong hội nghị thượng đỉnh Á-Âu tại Brussels vào tuần tới. (VOA )
————————————————————————————————————————————————————————–

Số người giàu ở vùng châu Á-Thái Bình Dương tăng mạnh
Con số triệu phú ở vùng châu Á-Thái Bình Dương tăng một cách đáng kể, lên đến 3 triệu người vào năm ngoái và lần đầu tiên ngang bằng với con số người giàu có tại châu Âu.
Trong một phúc trình mới nhất, công ty tài chính Merrill Lynch và công ty tư vấn Capgemini cho biết con số cá nhân giàu có tại vùng châu Á-Thái Bình Dương tăng hơn 25% vào năm ngoái. Bản phúc trình định nghĩa những người giàu là những người có ít nhất 1 triệu đô la có thể đầu tư được.
Phúc trình cho biết thêm Nhật Bản có số người giàu nhiều nhất trong vùng, chiếm hơn một nửa tổng số, theo sau là Trung Quốc và Australia.
Hong Kong có số tăng trưởng về người triệu phú cao nhất vào năm ngoái, tăng hơn 104%.
Tuy nhiên bản phúc trình tiên đoán Trung Quốc và Ấn Độ sẽ đứng đầu mức tăng trưởng trong khu vực và khu vực này “có nhiều phần chắc sẽ khắc phục” nền kinh tế thế giới trong năm 2010 và 2011.
Ông Bertrand Lavayssiere, một nhà phân tích của Capgemini nói vùng châu Á-Thái Bình Dương chứng tỏ là vùng có khả năng phục hồi mạnh nhất trong khung cảnh kinh tế thế giới đi xuống. ( VOA )
————————————————————————————————————————————————————————–
Một Việt kiều cứu giúp hàng trăm trẻ em đường phố
Trong không gian ấm áp của một nhà hàng cạnh Văn Miếu, Hà Nội, các nhân viên mặc đồng phục thoăn thoắt dọn bàn, bày món. Những gương mặt tươi tắn của các em từng lấm lem bụi đất khi còn là trẻ lang thang đường phố.
Nhà hàng này là một phần của dự án xã hội mang tên KOTO (Giúp đỡ lẫn nhau) của một người Australia gốc Việt, anh Jimmy Phạm.
Jimmy có bố là người Hàn Quốc, mẹ là người Việt Nam. Mẹ anh quê ở Hưng Yên, vào miền nam sinh sống năm 1954. Tại đây, bà quen với bố anh – phiên dịch viên cho một công ty Mỹ. Jimmy sinh ra ở Sài Gòn và rời Việt Nam năm 2 tuổi.
![]() |
Jimmy Pham và các học viên của KOTO. |
Jimmy không bao giờ nghĩ rằng chuyến đi về Việt Nam năm 1996 lại trở thành một bước ngoặt trong cuộc đời anh. “Đó là một chuyến đi rất tình cờ về Sài Gòn năm 1996, mình gặp bốn em nhỏ ở công viên quận 1, dẫn các em đi ăn phở và nghe các em tâm sự. Kể từ đó, ý tưởng nảy sinh. Mình biết bản thân phải làm một cái gì đó để những số phận này có cuộc sống tốt hơn”.
Bốn tháng sau chuyến đi, Jimmy quay lại Việt Nam và tiếp tục hành nghề hướng dẫn du lịch và đi tour các nước Đông Nam Á. Anh kể lại thời gian đầu sang Campuchia, lên Sapa, vào Nha Trang, rồi miền tây, đến đâu gặp các trẻ em lang thang cơ nhỡ là anh cho chúng tiền.
“Sau 4 năm, một số em thân thiết nhất tâm sự với mình rằng cách đó không hiệu quả lắm và chúng cần hơn thế. Khi giúp đỡ, cái bạn cần cho là cái cần câu, chứ không phải con cá”.
Năm 1999, Jimmy ra Hà Nội và mở một tiệm bán bưu ảnh, sandwich, sinh tố cho khách nước ngoài. Diện tích cửa hàng chỉ vỏn vẹn 20 m2.
Nhưng Jimmy không muốn những đứa trẻ của mình chỉ dừng lại ở việc biết pha sinh tố. Năm 2000, anh vay mượn gia đình 70.000 đôla Australia. Cùng với sự giúp đỡ của một đầu bếp Australia, nhà hàng KOTO ra đời. Đó là khoảng thời gian khó khăn với Jimmy. Giấy phép chưa có, tiền không có, đang cưu mang 20 đứa trẻ, rắc rối về thuế, không có nguồn lực, không có khái niệm gì về chương trình đào tạo.
“Khó khăn đầu tiên là mình chưa hiểu biết về Việt Nam và bất đồng ngôn ngữ. Đây là một lĩnh vực mới mẻ và gây nghi ngờ cả từ phía trẻ, phía khách, phía chính phủ. Một ông nước ngoài về đây làm việc với trẻ con, liệu có mục đích gì? Rồi vấn đề tài chính, vấn đề thủ tục vì mình là doanh nghiệp xã hội, vừa kinh doanh vừa đào tạo. Vì lạ lẫm nên rất thử thách”.
Sau 10 năm, Jimmy đã vượt qua được những khó khăn ban đầu. Anh nói là nhờ “ông trời” ủng hộ. KOTO giờ đây ngoài nhà hàng ở Văn Miếu còn có một trung tâm đào tạo nghề phục vụ cũng ở Hà Nội, mở năm 2004. Đầu năm nay, Jimmy bắt đầu triển khai cơ sở mới ở Sài Gòn và đã chiêu sinh được hai khóa.
Chương trình đào tạo của KOTO được chứng nhận quốc tế của học viện Box Hill (Australia). 100% học viên KOTO tốt nghiệp đều có việc ngay. Hiện tại KOTO có học viên làm ở các khách sạn lớn như: Sheraton, Sofitel Metropole (Dubai), Sofitel (Australia), Sheraton, Sofitel, Hilton, Intercontinental, Horizon (Hà Nội), Nam Hai resort (Hội An), Halong Luxury Cruises (Hạ Long), Sailing Club (Nha Trang)… |
KOTO hiện có 100 học viên chia làm 4 khóa. Mỗi năm tuyển sinh hai lần, mỗi lần 25 em. Đối tượng tuyển sinh của KOTO là các em từ 16-22 tuổi, là trẻ em đường phố hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (như từ viện mồ côi, nhà giáo dưỡng, có bố mẹ đi tù…), nói như Jimmy là những đối tượng “xã hội coi là phức tạp”.
Các em sẽ phải trải qua các vòng sát hạch về toán, chính tả, kiểm tra nhân thân, phỏng vấn, và thử thách trong vòng một tháng để xem độ hòa nhập vào môi trường mới. Theo Jimmy, đây là những bước rất quan trọng để tìm ra những em thích hợp, vì theo anh, không phải em nào trong hoàn cảnh khó khăn cũng muốn được thay đổi.
“Để vào KOTO, các em phải cố gắng hết sức và hơn hết phải có niềm tin vào việc thay đổi cuộc đời”, Jimmy nói.
Ở KOTO các em sẽ được học tiếng Anh, chuyên ngành nhà hàng khách sạn và kỹ năng sống. Riêng kỹ năng sống, Jimmy tự hào khẳng định đây là một thành công của KOTO.
Kỹ năng sống gồm 36 hội thảo nhỏ về những chủ đề như cách thức kiềm chế tức giận, stress, học về giới tính, quản lý chi tiêu… Các em phải tham gia các công tác xã hội như thăm người già, tình nguyện tại bệnh viện, thuyết trình về môi trường. Mỗi thứ tư, các em được chơi thể thao ngoài trời. Một năm hai lần các em có những chuyến đi chơi xa như Mai Châu, Hạ Long…
“Các em ra ngoài giữ được việc là nhờ kỹ năng sống. KOTO không chỉ dạy các em nghề mà còn đem đến cho các em một đời sống. Nếu chỉ dạy các em nghề mà không dạy một cái gì khác thì sau này ra ngoài vấp ngã, suy sụp, các em không đứng dậy được vì các em không có hệ thống, không có niềm tin, kiến thức cho việc đứng dậy”.
Các học viên KOTO sống trong 4 ngôi nhà thuê ở khu hồ Tây, mỗi nhà có một mẹ nuôi. Các em sẽ sống ở đây trong 18 tháng, 6 tháng cuối của khóa học sẽ sống tự lập ở ngoài.
Jimmy kể một kỷ niệm anh nhớ của một em Roravy người dân tộc K’ho ở Lâm Đồng. Hai tháng đầu đến KOTO ở Sài Gòn có bàn học, có TV, có máy tính, quá lạ đến mức em này không dám ngủ trên giường. Vào dịp sinh nhật em, 4 người bạn trong phòng góp tiền tặng em một cái bánh bằng lòng bàn tay. Sáng đó ngủ dậy, em thấy cái bánh rồi nhìn quanh, các bạn đang giả vờ ngủ, em ngồi khóc, rồi cả ngày đi đâu cũng khư khư cái bánh, không dám ăn cũng không dám bỏ vào túi.
“Những đứa trẻ đó chưa một lần trong đời được biết đến sinh nhật”, Jimmy kể.
Điều mà Jimmy muốn mang đến cho các em là một gia đình. Những học viên đã tốt nghiệp cũng được KOTO tạo điều kiện học lên hoặc kiếm việc làm, mối liên hệ vẫn duy trì bền chắc sau khi các em đã ra ngoài đi làm và tự lập. “Vì chúng tôi là người một nhà”, Jimmy nói.

“Ở tuổi 24 tôi tìm được việc mà tôi yêu thích và suốt 14 năm qua tôi không có cảm giác mình đang đi làm. Không có nhiều người được thế. Tôi đã xây dựng được một gia đình, đó là máu thịt, là thế giới của tôi. Mỗi ngày tôi thức dậy với một mục đích, con đường và sau bao nhiêu năm tôi vẫn không thấy mình bị lạc hướng. Đó là một hạnh phúc tuyệt vời lắm”, Jimmy nói.
“Ngược lại, công việc cũng cho tôi những nỗi buồn, như nhìn thấy một đứa trẻ bị mẹ chửi, hoặc trẻ phải nhìn bố đánh mẹ, bố mẹ đi tù, nghe một đứa trẻ chia sẻ mặc cảm khi đi học mà không có bố mẹ, sự thiếu thốn của một đứa trẻ, tâm lý của chúng. Nếu là con người, làm cái này, không buồn với đứa em đó, sẽ không làm tốt được”.
Jimmy cho biết kế hoạch sắp tới của anh là hoàn thiện hội đồng quản trị, khớp hoạt động của hai cơ sở ở Hà Nội, Sài Gòn, xây trường cho KOTO để không phải thuê nhà nữa và có thể sẽ mở chi nhánh ở Campuchia.
“Tôi biết mình đang làm việc tốt, và việc của tôi thì không bao giờ hết, tôi biết còn rất nhiều thứ đang chờ phía trước mà có thể còn lớn hơn thế này nữa”.
Tự nhận mình là người “phi lý và tham vọng”, hai từ mà xã hội coi là tiêu cực thì với anh là tích cực. Jimmy cho rằng phải phi lý mới làm được việc này và phải tham vọng thì mới xác định được mục tiêu. “Và mục tiêu của tôi là vì xã hội, không phải thuần túy kinh doanh. Tôi hài lòng với sự lựa chọn của mình”.
Khi được hỏi điều gì đã mang những người nổi tiếng này đến với KOTO, Jimmy không cho rằng đó là do khả năng quảng bá của anh. “Chúng tôi không lấy từ thiện ra để thu hút mọi người. Như nhà hàng này, có tiếng là nhờ vào chất lượng phục vụ, chất lượng món ăn, cũng như học viên của chúng tôi có việc là nhờ vào khả năng”, Jimmy nói.Nói về vị trí của KOTO hiện nay, Jimmy cho biết có không dưới 100 bài báo nước ngoài viết về dự án của anh. Nhà hàng ở Văn Miếu đã tiếp đón rất nhiều các vị khách nổi tiếng như cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton, hoàng gia Đan Mạch, cựu đệ nhất phu nhân Mỹ Laura Bush, cựu phó thủ tướng Anh John Prescott.
“Và có thể là vì chúng tôi có một câu chuyện hấp dẫn”.
————————————————————————————————————————————————————————-
Ghen và bệnh ghen
“Có yêu mới ghen”, “ghen là một trong những cung bậc của tình yêu”, “Tình yêu không ghen tuông chẳng khác gì canh không muối”… đó là một trong những lí giải của rất nhiều người về sự ghen tuông. Nhưng, các nhà tâm lí và các bác sĩ lại không nghĩ thế.
Không giống như sự ghen tỵ, ghen tuông luôn liên quan tới cảm giác sợ mất mát và luôn có 3 người. Khi ghen, trong cơ thể sẽ xảy ra các phản ứng cả về tâm lí và hành động với các biểu hiện đau đớn về tinh thần, tức giận, buồn bã, ghen tị, sợ hãi, lo lắng về hình ảnh của mình, tự xót thương mình, cảm thấy bị bẽ mặt (tâm lí), run rẩy, toát mồ hôi, tự trấn an mình, có những hành động hung hăng, thậm chí bạo lực (hành động).
Dưới con mắt của y học thì ghen tuông mù quáng là dạng bệnh tâm thần, nó giống hệt với bệnh tự kỉ: không sợ đau đớn, không quan tâm đến người khác, không bị bất cứ điều gì tác động làm thay đổi suy nghĩ và hành vi, luôn lặp đi lặp lại một số hành động khiến cho người xung quanh mệt mỏi và căng thẳng. Ở những người mắc chứng ghen tuông bệnh hoạn, khoảng hạn giữa trạng thái bình thường và bùng nổ giận dữ rất hẹp, hẹp tới mức chỉ cần một vài dấu hiệu lờ mờ là cơn giận ngay lập tức có mặt, bất chấp lí trí mạnh đến đâu. Khi cơn giận đến, cơ thể tiết ra một chất hoá học làm nhịp tim đập nhanh, mạch máu căng lên, đầu óc rối bời. Lúc đó chỉ muốn phá phách hoặc tự sát để làm dịu cơn giận.
|
Bệnh ghen ảnh hưởng trực tiếp đến trí não, nó làm giảm trí thông minh, thiếu logic, đánh mất sự tự tin, tiêu tan độ hấp dẫn. Ghen cũng giống như một thứ nghiện. Những người ghen sau cơn giận đều biết mình sai trái, đều xấu hổ với hình ảnh xấu xí của mình, đều ân hận vì đã làm tổn thương những người xung quanh, thế nhưng khi “cơn nghiện” đến họ lại không làm chủ được bản thân. Nhiều người còn rơi vào tình trạng tự tăng liều ghen, cảm thấy “phê” cái cảm giác hành hạ và lăng nhục người khác.
Ghen có khả năng thắt chặt sợi dây tình cảm, nó làm cho tình yêu mạnh mẽ và nồng nhiệt hơn. Với “liều lượng” vừa phải và trong tầm kiểm soát được, ghen có thể là một sức mạnh tích cực trong mối quan hệ luyến ái. Theo các nhà tâm lí, thì ghen là một tình cảm bình thường của con người, cũng như nỗi sợ hãi vậy. Khi gặp nguy hiểm ta thấy sợ là dĩ nhiên, nhưng sẽ là không bình thường nếu để nỗi sợ choán hết tâm trí. Nếu để ghen tuông ám ảnh mọi lúc, mọi nơi, nhìn vào đâu cũng thấy “tình địch” thì sẽ biến cuộc sống thành địa ngục. Rất nhiều người vì ghen tuông thái quá đã tự huỷ hoại bản thân, hoặc huỷ hoại tình địch, thậm chí hủy hoại cả bạn tình của mình, kết cục cái mà họ nhận được chính là bất hạnh.
Theo các chuyên gia tâm lí, ghen là một dạng bản năng của con người, là một trạng thái tình cảm bí ẩn ngay cả với chính người trong cuộc. Ngay từ khi biết nhận thức con người đã biết ghen. Nếu những cơn ghen tị, ghen tuông từ khi còn là một đứa trẻ không được giải toả, sẽ khắc sâu vào tâm trí và dần dần hình thành nên tính cách: những người “hướng ngoại” thì biểu hiện sự giận giữ, ghen tuông ầm ĩ; còn người “hướng nội” thì biểu hiện sự ghen tuông của mình bằng sự xa lánh, lạnh lùng, khinh bỉ, căm thù đối tượng. Dù là “hướng ngoại” hay “hướng nội” thì đều rất nguy hại cho sức khỏe cả thể chất và tinh thần.
Ghen tuông là bản năng của con người nên không có cách gì loại bỏ được nó. Con người chúng ta không thể không ghen, nhưng hoàn toàn có thể chế ngự được những trạng thái cảm xúc khiến chính mình và người thương yêu của mình phải đau đớn. Bạn có thể kiểm soát “cung bậc tình yêu” của mình bằng cách: khi bắt đầu cảm thấy sự xuất hiện của cơn ghen, hãy hít thở thật sâu và tự nhắc nhở mình rằng người yêu bạn vẫn rất yêu bạn, luôn tận tâm và tôn trọng bạn.
Tôn trọng và tự tin vào chính mình sẽ giúp bạn tránh được những suy nghĩ và hành động gây tổn thương cho mình và người khác.
Nếu sự ghen tuông của bạn bắt nguồn từ những tổn thương về tinh thần trong thời thơ ấu, hãy đi gặp bác sĩ tâm lí để được trợ giúp.
Đừng ngần ngại tiếp xúc với “đối thủ” của mình nếu như hình ảnh của anh (chị) ấy luôn ám ảnh mình. Hành động này sẽ giúp chúng ta tránh được tình trạng bị ảo giác hành hạ.
Trong cuộc sống lứa đôi cần đặt ra một số quy tắc ngay từ đầu, những quy tắc chung mà cả hai đều có thể chấp nhận. Bằng cách này các bạn sẽ biết tự điều chỉnh khi có những cử chỉ hay cách cư xử không thích hợp.
Tham khảo ý kiến của người thứ ba sẽ giúp bạn đánh giá, nhìn nhận khách quan và hiểu được những hành động của mình. Lúc này, bạn bè và người thân là nguồn tham khảo ý kiến quý báu.
BS. Hồ Anh Kiên
@ Suckhoe va doisong
————————————————————————————————————————————————————————-
“Công thổ quốc gia” hay sự “sáng tạo” kì quặc về sở hữu?
Nguyễn Quang A
Sở hữu toàn dân: Sự “sáng tạo chết người”
Quyền sở hữu tài sản là một quyền căn bản trong các quyền con người. Quyền sở hữu và hệ thống thông tin về quyền sở hữu là vấn đề cốt lõi của mọi xã hội.
Có quyền sở hữu rạch ròi và có một hệ thống thông tin minh bạch về quyền sở hữu chính là bí ẩn của sự thành công của tất cả các nước đã phát triển và sự thiếu vắng một hệ thống như vậy là nguyên nhân chính của sự thất bại trong phát triển kinh tế-xã hội của tất cả phần còn lại nhiều nước trên thế giới. Đấy là thông điệp chính của cuốn sách nổi tiếng của học giả Peru, Hernando de Soto, cuốn “Sự bí ẩn của tư bản” được xuất bản năm 2000.
![]() |
“Sự bí ẩn của tư bản” |
Tôi đã dịch cuốn sách ra tiếng Việt và bản dịch đã được gửi cho các nhà hoạch định chính sách với hy vọng giúp các nhà hoạch định chính sách và các đại biểu quốc hội có thông tin tham khảo trong quá trình thảo luận sửa đổi Luật đất đai. Đáng tiếc thông điệp của cuốn sách đã không có tác động gì đến Luật đất đai (sửa đổi) được thông qua năm 2003.
Năm 2006, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã xuất bản cuốn sách đó với cái tên “Sự bí ẩn của vốn” và tiêu đề phụ “Vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác”, nhưng chỉ là “sách tham khảo nội bộ” không được phát hành rộng rãi qua hệ thống phát hành sách.
Quyền sở hữu có các tác dụng chủ yếu để: (1) xác định tiềm năng kinh tế của tài sản; (2) tích hợp thông tin tản mác (về các tài sản) vào một hệ thống; (3) khiến dân chúng có trách nhiện; (4) làm cho các tài sản có thể chuyển đổi; (5) kết nối dân chúng và (6) bảo vệ các giao dịch.
Chính việc xóa bỏ hệ thống quyền sở hữu (tư nhân) là một nguyên nhân chính của sự thất bại của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đạt được một số thành tích về phát triển kinh tế trong hơn 20 năm đổi mới chủ yếu là do đã phần nào khôi phục lại quyền sở hữu tư nhân và khôi phục lại hệ thống quyền sở hữu.Đáng tiếc, chúng ta chưa thật triệt để trong vấn đề này và vẫn còn bị vương vấn bởi những giáo điều đã tỏ ra hoàn toàn vô dụng.
Quyền sở hữu toàn dân là một khái niệm kỳ quặc trong số những vương vấn như vậy. Đó là một sự “sáng tạo” chết người của những người được dân ủy thác. Không có cái gọi là sở hữu toàn dân. Đó chỉ là một từ được “sáng tạo” ra để duy trì “quyền sở hữu thực” của một nhóm cá nhân. Xét thực tế đó cũng chẳng khác gì quyền của vua chúa xưa kia, nhưng chí ít vua còn công khai tuyên bố rằng là của ông ta và có quyền ban, phát cho các cận thần.
Rất đáng tiếc, chúng ta đã sao chép hay cũng góp phần “sáng tạo” ra những cái như thế và đã thực hành về cơ bản cũng chẳng khác mấy các vua ngày xưa (ngày nay còn có quá nhiều vua dưới một vua “tập thể”).
Không giải quyết rạch ròi vấn đề này khó có thể có sự phát triển lâu bền.
Chính thế, nên dễ hiểu là dư luận rất quan tâm đến vấn đề này khi Ts. Phạm Duy Nghĩa thay mặt một nhóm nghiên cứu đặt vấn đề bỏ khái niệm sở hữu toàn dân và thay bằng các khái niệm khác (như sở hữu quốc gia, sở hữu của chính quyền địa phương, sở hữu của một cộng đồng nào đó [của một họ, một làng chẳng hạn]), bên cạnh sở hữu tư nhân. Tôi đồng tình với cách đặt vấn đề của Ts. Phạm Duy Nghĩa.
Không phải mọi đất đai đều là “công thổ quốc gia”
Hãy chỉ xem về vấn đề sở hữu đất. Không thể coi tất cả đất trên lãnh thổ Việt Nam đều là “công thổ quốc gia” được. Nguyên từ “công thổ quốc gia” cũng chỉ rõ đất ấy thuộc sở hữu quốc gia. Phải rạch ròi, đất nào là công thổ quốc gia và các mảnh đất ấy (với đường biên, mô tả đặc điểm rõ ràng) phải được đăng ký (nói nôm na phải có sổ đỏ) với cơ quan quản lý. Đất của địa phương cũng vậy. Đó là đất công.
Đất của một cộng đồng hẹp được xác định rõ ràng (như của một dòng họ, của nhà chùa, của nhà thờ, v.v.) là thuộc phạm vi sở hữu tư hệt như sở hữu của một công ty hay của một cá nhân.
Đất đai chiếm trên nửa tổng tài sản của xã hội, nên vấn đề sở hữu đất phải được giải quyết thấu đáo và nhu cầu thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai (của các cá nhân, các pháp nhân ngoài nhà nước) bên cạnh việc phân định rạch ròi đất công (thuộc quốc gia hay thuộc chính quyền địa phương) và, đi liền với nó, việc sửa đổi luật đất đai và các luật liên quan là nhu cầu cấp bách không thể né tránh.
Đối với các tài sản khác (nhà máy, doanh nghiệp vân vân) cũng vậy.
Nói cách khác, sở hữu công (thuộc cấp quốc gia hay cấp địa phương) và sở hữu tư phải được công nhận và phải được quản lý trong một hệ thống thống nhất và chỉ có người chủ sở hữu đích thực (dù là nhà nước trung ương, địa phương hay các tổ chức kinh tế xã hội tôn giáo hoặc các cá nhân) mới được quyền định đoạt. Không thể coi là “sở hữu toàn dân” và tùy tiện quyết định.
Chính sự không rạch ròi này là nguyên nhân của trên 98% của các vụ khiếu kiện trong thời gian vừa qua.
Đã đến lúc phải giải quyết tận gốc vấn đề sở hữu, nếu không tình hình khiếu kiện còn tiếp diễn và nhiều hơn có thể dẫn đến bất ổn xã hội trầm trọng và cản trở sự phát triển của đất nước.
@ Thong Luan
————————————————————————————————————————————————————————————————
Hồ Chí Minh tại Đại hội Đảng 1951 – “Đó là chủ nghĩa của ba ông kia kìa”
Tác giả: Vũ Tường
Lời dẫn: Tư liệu hiếm dưới đây có lẽ chưa bao giờ được công bố. Đó là một bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ hai tại Việt Bắc vào tháng 3 năm 1951, do một phóng viên của tờ Học tập liên khu 4 ghi lại nguyên văn.[1] Tại Đại hội này, Đảng Lao động Việt Nam ra công khai sau 6 năm nấp dưới tên gọi “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác”. Bài diễn văn thú vị này cho ta thấy Chủ tịch là một nhà cách mạng, một chính trị gia, và một nhà tuyên truyền lão luyện. Một nhà cách mạng có niềm tin ngây thơ nhưng sâu sắc rằng lý thuyết cách mạng của các “ông thầy” của mình có quyền lực vạn năng. Một chính trị gia qua thủ đoạn tâng bốc các “ông anh” (trong khán giả chắc chắn có sứ thần của các “ông anh” gửi đến. “Ông anh” Stalin lờ tịt các bức điện khẩn xin giúp đỡ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1945. Mãi đến tháng 1 năm 1950 Chủ tịch phải lặn lội giữa mùa đông băng giá bí mật đến Mạc Tư Khoa và qua sự bảo lãnh của “ông anh” Mao Trạch Đông và có lẽ cả “ông anh” Thorez, thì “ông anh” Stalin mới tiếp đón và công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[2] Nhưng ở Đại hội, Chủ tịch vẫn phải khen nức nở chứ không có một lời oán hận). Và cuối cùng, Chủ tịch cho thấy mình là một nhà tuyên truyền lão luyện qua kỹ thuật động viên quần chúng song vẫn khéo léo biến tất cả công lao xương máu của quần chúng thành công lao của chủ thuyết của mình, và qua đó, công lao của mình và đảng mình (vì mình và đảng mình nhập khẩu chủ thuyết ấy từ Âu châu). Phản ứng của quần chúng ở cuối bài nói (hô to “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”) cho thấy kỹ thuật dẫn dắt người nghe của Chủ tịch đã thành công.
Vũ Tường, Đại học Oregon
—–
HỌC TẬP — Nội san Đảng Bộ Liên Khu Bốn (Chỉ lưu hành Trong Nội Bộ)
Số 35, Năm thứ tư, Tháng 4 – 1951, trang 1-8
LỜI HỒ CHỦ-TỊCH TRONG ĐẠI HỘI TOÀN ĐẢNG
(Sau khi đồng chí Võ-nguyên-Giáp báo cáo xong vấn đề quân sự, Hồ-Chủ-tịch lên diễn đàn, giữa những tràng pháo tay). Hồ-Chủ-tịch nói.
Vừa nghe báo cáo của đồng chí Giáp, các đồng chí thấy – và trước khi nghe cũng đã thấy – Quân đội ta từ chỗ yếu tiến đến chỗ mạnh, từ chỗ nhỏ tiến đến chỗ to, từ không thắng tiến đến thắng, từ thắng ít đến thắng nhiều, rồi từ thắng nhiều tiến đến thắng lợi hoàn toàn (Đại hội vỗ tay).
Đó là vì đâu? Là vì trong chính trị, cũng như trong mọi mặt công tác khác, Đảng ta có một chủ nghĩa cách mạng nhất, sáng suốt nhất, đó là chủ nghĩa của ba ông kia kìa:
(Hồ-Chủ-tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung 3 vị lãnh tụ: Marx, Engels, Lénine)
(Đại hội vỗ tay vang dậy)
Đó là nhờ chúng ta, toàn giai cấp lao động thế giới, toàn quân đội nhân dân thế giới có một ông Tổng tổng tư lệnh là ông kia kìa.
(Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí: STALINE)
(Đại hội vỗ tay dậy vang và cùng đứng dậy hô lớn)
(Đồng chí Staline muôn năm!)
Chắc ít người biết mà có lẽ cũng không ai ngờ. Ông ở cách xa đây mấy muôn dặm, mà ông theo rõi cuộc kháng chiến của ta, của Triều-tiên, của Mã-lai và cuộc đấu tranh của các nước Đông-nam Á. Ông cảm động khi nghe kể lại những cử chỉ chiến đấu anh dũng của một chiến sĩ Thổ khi giết giặc lập công như thế nào. Vì vậy có thể nói tuy ông ở xa nhưng tinh thần của ông và hiểu biết của ông ở với chúng ta. (Đại hội vỗ tay dài)
Chúng ta lại nhờ có ông anh này:
(Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí: MAO-TRẠCH-ĐÔNG) –
(Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn Đồng chí Mao-Trạch-Đông muôn năm!)
Ông Mao ở cách đây mấy nghìn dặm. Còn ông Staline thì xa những muôn dặm… Ông theo rõi từng bước cuộc chiến đấu cách mạng của chúng ta. Như lúc quân đội và nhân dân ta giải phóng biên giới, như lúc chúng ta mở chiến dịch Trung-du có thể đêm ông không ngủ mà chờ tin tức…
(Đại hội có tiếng tấm tắc)
… Có ông thầy, ông anh như thế nên quân đội ta, quân đội Việt-Mên-Lào, từ chỗ nhỏ đến chỗ lớn, từ chỗ yếu đến chỗ mạnh, từ không thắng đến thắng hoàn toàn.
Cũng vì chủ nghĩa quốc tế, cũng chủ nghĩa Marx – Engels – Lenine – Staline, mà đến ông anh kia
… (Hồ-Chủ-tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí Thorez và nói tiếp… là ông THOREZ …) (Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn: Đồng chí Thorez muôn năm! Muôn năm!)
… Ông lãnh đạo đảng Pháp, đảng đàn anh … vì do được đảng Pháp lãnh đạo, nhân dân lao động ở Pháp kiên quyết bảo vệ hòa bình thế giới, tranh đấu chống chiến tranh thuộc địa, ủng hộ cuộc kháng chiến của chúng ta, chống lại chiến tranh thực dân. Như hôm nọ, tôi đã nói về đồng chí Henri M…,[3] một sĩ quan trong hải quân của thực dân, mà đi phát truyền đơn ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt nam, khuyên thanh niên Pháp và bộ đội Pháp từ chối, phản đối không qua đánh Việt nam. Lại có những công nhân như Raymone Dieu, khi thực dân Pháp chở khí giới từ một ga xe lửa đến bến tàu để rồi đưa qua Việt nam. Cô Raymone nằm ngang ra giữa đường sắt để ngăn chuyến xe ấy. Và do cử chỉ cao xa này mà toàn dân xứ ấy kéo ra chặn cả đoàn xe lại.
(Đại hội vỗ tay hoan hô nhiệt liệt và hô lớn: Hoan hô tinh thần của Henri M… và Raymone Dieu!)
Đó là nhờ nhân dân lao động Pháp đã thấm nhuần tinh thần Marx – Engels –Lénine – Staline. Chẳng những nhân dân lao động Pháp có rất đông những người như thế, mà vừa rồi đây lại có tin hàng trăm người lãnh đạo công giáo – khai hội nghị chống chiến tranh thực dân ở Việt nam và ủng hộ cuộc kháng chiến của dân tộc Việt nam.
(Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn: Đảng cộng sản Pháp muôn năm! Muôn năm!)
Có thể nói cái tinh thần, cái chủ nghĩa của đồng chí Staline đã thấm nhuần vào dân công giáo và đấu tranh giành một phần nào “lời nói” của ông Pope.
(Đại hội vỗ tay, ngồi)
Vừa đây có một giám mục đứng ra kêu gọi con chiên đấu tranh cho hòa bình. Thì ra, tinh thần của đồng chí Staline đã đi vào địa bàn của giáo hoàng.
Đây là ở phương tây. Còn ở phương Đông thì như thế nào? Do chỗ đảng Trung Quốc đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine nên đã áp dụng chủ nghĩa Marx – Lénine thích hợp với hoàn cảnh Trung Quốc. Do chỗ đảng ta đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine, thấm nhuần tinh thần ấy lực lượng ấy, mà làm thấm nhuần đến cả quân đội ta, thấm nhuần đến nhân dân ta.
Nếu không thấm nhuần như thế, thì sao lại có bộ đội nhịn đói hơn 4 ngày, vẫn cứ bám lấy giặc mà đánh và đánh thắng giặc!
(Đại hội vỗ tay dài)
Thì sao có những cử chỉ oanh liệt như ở một trận đánh nọ có chiến sĩ bị thương ở tay nói với người bên cạnh “Cậu chặt tay cho mình cái” vì thấy cánh tay gãy vướng, chặt đi cho dễ đánh, thế rồi lại cứ xung phong? Nếu không thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine thì làm sao có được những cử chỉ oanh liệt như thế?
(Đại hội vỗ tay)
Nếu không có chủ nghĩa Marx – Lénine kinh qua đảng ta thấm nhuần đến nhân dân, thì sao có những chị em phụ nữ Mán, Thổ, Mèo ban ngày thì mưa ướt, đường trơn vẫn hăng hái đi tải đồ cho bộ đội, tối đến đường trơn, ở giữa rừng không có chỗ ngủ, phải dựa lưng vào nhau mà ngồi qua đêm, để sáng sớm lại vui vẻ đi vận tải đồ cho bộ đội?
Nếu không có tinh thần Marx – Lénine thấm nhuần qua Đảng ta đến dân ta, thì sao có những cử chỉ cảm động như thế? Đó là những vô danh anh hùng. Dân tộc ta là dân tộc anh hùng.
(Đại hội vỗ tay vang dậy)
Chẳng những đồng bào ở ngoài, mà ngay đồng bào trong vùng tạm bị chiếm cũng hết sức ủng hộ ta. Tôi vừa nhận được bức thư của một bà ở ngoại thành, một bà hơn năm mươi tuổi, đây tôi đọc để dẫn chứng – (Còn nhiều bức thư khác nữa, nhưng bức thư này vừa tiếp được, tiện đây đưa ra đọc) – Bà có một đứa con chín tuổi, bà nói sự độc ác của bọn giặc Pháp, sự cực khổ của đồng bào trong vùng tạm bị chiếm. Bà viết: “Tôi già sống trong hoàn rất cực khổ, thế nhưng mà tôi luôn luôn mong mỏi, tin tưởng bộ đội ta sẽ tổng phản công để đuổi lũ giặc Tây hung ác, đưa dân chúng đến cảnh tượng hòa bình.”
Có một cháu bé 16 tuổi cũng viết thư như thế, kể nỗi khổ cực: “Cháu luôn luôn nhớ Bác, luôn luôn nhớ chính phủ. Dầu cực khổ mấy, lúc nào cháu cũng cố gắng học tập, nghe theo như lời Bác dạy, một lòng trung thành với chính phủ. Cháu cố gắng học tập, để xứng đáng là một đứa cháu của Bác và sau này trở thành người dân xứng đáng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”
(Đại hội vỗ tay dài)
Thế là do chủ nghĩa Marx – Lénine đã thấm nhuần qua đảng ta, qua dân ta, nên chúng ta nhất định sẽ thắng lợi.
(Đại hội vỗ tay rất lâu)
Bây giờ tôi qua điểm khác. Nói đến quân đội ta, quân đội anh dũng Việt-Mên-Lào, chúng ta phải nhớ đến đoạn đầu, những người đầu. Trước hết nhớ đến những chiến sĩ Nam bộ lấy gậy tầm vông đập vào đầu thực dân Pháp.
(Đại hội vỗ tay lớn)
Đây tôi cũng sung sướng giới thiệu với các đồng chí một du kích viên đầu tiên, khi mới tổ chức đội du kích đầu tiên, chỉ có 12 người: 10 nam 2 nữ. Trong những đồng chí ấy thì đây có Lê quảng Ba (Hồ Chủ tịch nhìn quanh đại hội, và hỏi Lê quảng Ba đâu? Đứng lên nào)
(Đồng chí Lê quảng Ba đứng dậy. Cả đại hội hướng về phía đồng chí ấy, vỗ tay hoan hô vang dậy)
Và tôi giới thiệu một tư lệnh viên đầu tiên trong thời kỳ du kích Bắc sơn – Chắc các cô, các chú cũng đã biết cả – là chú này … (Hồ Chủ tịch ngoảnh về phía chủ tịch đoàn và chỉ đồng chí Chu văn Tấn hiện đang làm chủ tịch buổi họp) – chú Chu văn Tấn! (Đồng chí Tấn đứng dậy. Đại hội vỗ tay hoan hô vang dậy).
Từ 12 người ấy mà tiến lên, rồi dần dần thành đội tuyên truyền xung phong, rồi đổi ra là Nam tiến, đổi là Giải phóng quân, đổi ra là Vệ quốc đoàn. Người tổng chỉ huy đầu tiên đội Nam tiến là
… (Hồ Chủ tịch chỉ đồng chí Võ nguyên Giáp ngồi ở hàng ghế đầu và nói mạnh rằng: Võ nguyên Giáp đây này! (Đồng chí Giáp đứng dậy. Đại hội vỗ tay hoan hô vang dậy.) Còn những chiến sĩ gậy tầm vông nam bộ ở đây có nhiều!
Từ chú du kích viên, rồi đến chú tư lệnh, rồi đến chú Tổng chỉ huy đầu tiên, đều là con của Đảng cả.
(Đại hội vỗ tay rất mạnh, rất dài.)
Hồi bấy giờ từ 12 đội viên du kích đầu tiên mà bây giờ ta có – có thể nói, Một triệu hai, tính cả dân quân, bộ đội địa phương, bộ đội chính quy. Từ 12 “vawis” (?)[4] (Đại hội cười) bây giờ sinh nở ra một triệu hai trăm ngàn vắt … (Hồ chủ tịch vừa nói vừa gõ tay lên bàn).
(Đại hội vỗ tay vang dậy.) (Giữa những tràng vỗ tay tiếng nói của Hồ Chủ tịch nổi bật lên …)
Đấy chính là nhờ chủ nghĩa Marx – Lénine.
(Đại hội càng vỗ tay nhiệt liệt.)
Bây giờ tôi qua điểm thứ ba.
Đảng ta, – Nhiêm vụ Đảng ta cũng như nhiệm vụ các đảng đàn anh ta, Đảng Bolchévik, Đảng cộng sản Trung hoa, trong lúc chiến đấu bằng chính trị đã đều chiến đấu bằng quân sự. Như trước kia, trong đại chiến thứ hai – không nói đến thời kỳ cách mạng ở Xô-liên, cũng kháng chiến, kiến quốc như mới đây ở Trung quốc, là đánh Tưởng mà Tưởng do Mỹ giật mũi — , là kháng chiến chống đế quốc Mỹ, mà cũng là vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Các Đảng đàn anh ta đề ra kháng chiến đệ nhất, thắng lợi đệ nhất. Ta cũng đề ra kháng chiến đệ nhất, thắng lợi đệ nhất, vì kháng chiến thắng lợi thì các việc khác giải quyết mới dễ dàng. Thế nên, chúng ta nói, kháng chiến trên hết, thắng lợi trước hết.
Muốn kháng chiến trên hết, thắng lợi trước hết, chúng ta phải học kinh nghiệm của các Đảng anh em ta. Như chú Hai vừa kể, có lần bên Xô-liên, đảng Bolchévik động viên đến 1/5 số đảng viên, nhưng chú nói còn ít đấy chứ có chỗ động viên đến 50% lúc chiến đấu gay go. Đảng Cộng sản Trung hoa cũng động viên hầu hết các đảng viên vào bộ đội, lúc lên đường vạn lý trường chinh. Đảng ta có bảy, tám mươi vạn. Rồi đây trung ương mới sẽ có chỉ thị về việc này, – Ít ra cũng phải động viên một vạn Đảng viên. Không kể số đảng viên hiện đã ở trong quân đội trực tiếp vào công việc kháng chiến.
(Đại hội vỗ tay, hoan hô nhiều lắm)
Với chủ nghĩa như thế, với Ông thày, Ông anh như thế, với lòng trung thành và kiên quyết của nhân dân ta, của Đảng ta, nhất định chúng ta thắng lợi.
(Hồ Chủ-tịch bước xuống diễn đàn. Đại hội đứng dậy vỗ tay vang dậy và hô lớn nhiều lần: Hồ Chí Minh Muôn năm! Muôn năm!)
@ talawas
[1] Chúng tôi cũng đánh máy đúng theo nguyên bản, kể cả những chữ in đậm và chữ cái.
[2] Xem Ilya Gaiduk, Confronting Vietnam: Soviet Policy toward the Indochina Conflict, 1954-1963 (Washington, DC: Woodrow Wilson Center, 2003).
[3] Bản chụp tên bị nhòe.
[4] Bản chụp mờ, không nhận ra chữ gì.
————————————————————————————————————————————————————————————————–