Việt Nam giữa cuộc xung đột Mỹ-Hoa

Ngô Nhân Dụng

Trong nước Mỹ có hai phái, một bên là những người tin rằng không thể nào xẩy ra chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc; bên kia nghĩ ngược lại.

Tiêu biểu cho phe thứ nhất là Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh Tòa Bạch Ốc dưới thời Tổng Thống Carter. Năm 2005, trong một cuộc tranh luận về vấn đề này, Brzezinski chủ trì rằng chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc không thể nào xẩy ra. Lý do chính là khả năng quân sự của Trung Quốc còn rất yếu: 40 năm sau khi chế được bom nguyên tử, Trung Quốc mới chỉ có 24 hỏa tiễn đạn đạo để phóng đi, so với hơn ngàn hỏa tiễn của Mỹ, chưa kể các phi đạn phóng đi từ tầu ngầm có khả năng phóng vài ngàn bom, và vài ngàn bom khác sẵn sàng được B52, B-1, B-2 đem đi ném. Vũ khí nguyên tử chính là một yếu tố khiến các cường quốc không đánh nhau, vì chiến tranh sẽ khiến hai bên đều bị hủy diệt. Cũng như trong thời chiến tranh lạnh Nga với Mỹ không thể đánh nhau được.

Nhưng lý luận chính của ông Brzezinski là Trung Quốc không thể gây chiến vì chẳng có lợi gì nếu chiến tranh xẩy ra. Chiến tranh bùng nổ, dù chỉ trong phạm vi giới hạn, thì tất cả dòng tiếp liệu cho kinh tế Trung Quốc sẽ bị cắt. Bốn phần năm nhu cầu năng lượng của nước Tầu tùy thuộc con đường thủy đi qua eo biển Malacca nằm giữa Singapore và Indonesia. Eo biển này đang do hải quân Mỹ kiểm soát với sự thỏa thuận của các quốc gia trong vùng. Khi lâm chiến với Mỹ, cả nền kinh tế Trung Quốc sẽ bị ngưng trệ.

Người đối đáp với ông Brzezinski là Giáo Sư John Mearsheimer thuộc Ðại Học Chicago, tiêu biểu cho khuynh hướng thứ hai, nghĩ là chiến tranh Mỹ Hoa có thể xẩy ra. Mearsheimer nhấn mạnh kinh nghiệm lịch sử, các quốc gia có thể gây chiến hoàn toàn vì lý do chính trị, trái ngược với quyền lợi kinh tế của họ. Năm 1913, Anh Quốc là thị trường lớn nhất cho hàng xuất cảng của Ðức. Ngoại thương chiếm vai trò quan trọng trong kinh tế các nước này, chiếm 52% tổng sản lượng nội địa của Anh, 38% của Ðức và 54% của Pháp; ngoại thương giữa ba nước này đã tăng 65% trong 10 năm. Nhưng sau vụ ám sát Archduke Franz Ferdinand, súng đã nổ và kéo dài 4 năm.

Lý luận chính của Mearsheimer là: Các cường quốc đều tìm cách trở thành bá chủ. Nếu không có khả năng bá chủ thế giới thì nước nào cũng muốn làm bá chủ một vùng, biến thành “sân sau” hay “ao nhà” của họ. Tình tự dân tộc là động cơ chính trị mạnh nhất khiến cho các chính phủ khi gây chiến, dù họ theo chế độ dân chủ hay độc tài. Mearsheimer cho rằng trong vòng 25 năm nữa, Trung Quốc sẽ phải chiếm lại Ðài Loan. Mà muốn đạt mục tiêu đó thì trước hết họ phải làm chủ cả miền Tây Thái Bình Dương.

Trong thế kỷ 19, Tổng Thống Monroe nước Mỹ đã dùng lý luận tương tự để đẩy các cường quốc Âu Châu ra khỏi Châu Mỹ La Tinh. Thời 1930 Nhật Bản đã lý luận giống như vậy khi muốn đuổi các thế lực Âu Mỹ ra khỏi Châu Á và Trung Hoa, để Nhật làm bá chủ. Khi các người lãnh đạo Trung Quốc thấy họ cần động viên lòng ái quốc của dân chúng để tránh những vụ phản đối vì kinh tế đi xuống và bất công xã hội thì họ sẽ đưa ra “chủ thuyết Monroe” của chính họ. Do đó, Trung Quốc nhất thiết sẽ tìm cách đẩy Mỹ ra khỏi “ao nhà” của họ ở vùng Á Ðông. Ðiều này không có nghĩa là họ muốn gây một cuộc Ðại Chiến Thứ Ba. Nhưng muốn làm chủ cái “ao nhà” của họ, họ sẵn sàng chấp nhận một cuộc chiến cục bộ. Trong lúc đó, Mỹ cũng như Nhật Bản, Nam Hàn và các nước Ðông Nam Á như Việt Nam sẽ không thể chấp nhận cho Trung Quốc thực hiện ý định này. Cho nên, chiến tranh không tránh khỏi.

Zbigniew Brzezinski đã bác bỏ ý kiến trên. Ông hỏi nếu nước Mỹ rời bỏ vùng Á Ðông, hoặc bị đẩy ra khỏi vùng này, thì Nhật Bản có ngồi yên hay không? Nước Nhật sẽ tái vũ trang trước khi sự kiện đó xẩy ra. Nhật Bản dư sức chế tạo bom nguyên tử và hỏa tiễn phóng bom. Brzezinski chỉ nói đến nước Nhật, nhưng chúng ta biết còn các quốc gia khác nữa. Nam Hàn cũng dư sức chế bom hạt nhân, Ðài Loan cũng vậy. Các quốc gia này đang bị cả Trung Quốc lẫn Mỹ “hợp tác ngầm với nhau” ngăn cản họ không được làm bom nguyên tử. Các nước này chấp nhận vì họ đang được cái dù nguyên tử của Mỹ bảo vệ. Nhưng nếu đứng trước nguy cơ Trung Quốc đẩy Mỹ và cái dù của Mỹ ra khỏi vùng Á Ðông, chắc chắn các nước trên sẽ phải lo tự vệ. Họ sẽ hành động ngay trước khi mối lo đó thành sự thật, ít nhất hàng chục năm trước.

Các người lãnh đạo ở Bắc Kinh có muốn gây ra một cuộc chạy đua vũ trang tại các nước hàng xóm của họ hay không? Họ có muốn một nước Nhật Bản sôi sục lên vì dân chúng lo bị Mỹ bỏ rơi cho Trung Cộng thao túng hay không? Nhật báo Yomiuri Shimbun ở Tokyo mới nhắc mọi người biết rằng 90% năng lượng dùng trong nước Nhật và hơn 60% thực phẩm dân Nhật ăn hàng ngày tùy thuộc vào đường biển. Không thể để một nước nào làm chủ con đường thủy lộ vào nước Nhật. Nhật có đủ lý do chính đáng để tăng cường hải quân, giữ gìn mạch sống của dân mình. Muốn bảo vệ lực lượng hải quân đó, không lực cần được phát triển, số hỏa tiễn phải nhiều hơn, vân vân. Khi còn nước Mỹ “bảo hộ” về quốc phòng thì Nhật còn phải giữ nguyên bản hiến pháp “hòa bình,” không được phép tổ chức quân lực mà chỉ có lực lượng tự vệ thôi. Nhưng khi thấy “quốc gia lâm nguy” thì dân Nhật sẽ thay đổi hiến pháp! Vì mối lo xa đó, năm ngoái chính phủ Nhật Bản đã đề nghị những buổi họp về hợp tác chiến lược với Ấn Ðộ; và mới họp với Việt Nam trong Tháng Bẩy vừa qua, cùng lúc đó chính phủ Mỹ cũng bầy tỏ thái độ cứng rắn hơn đối với Bắc Kinh về an ninh vùng Biển Ðông.

Giáo Sư John J. Mearsheimer cũng đồng ý là Trung Quốc sẽ không tìm cách chiếm lại Ðài Loan trong mươi năm tới. Nhưng ông nghĩ rằng trong 25 năm thì tình thế sẽ thay đổi hoàn toàn. Trung Quốc sẽ tìm cách trở thành cường quốc ở Tây Thái Bình Dương trong khi Mỹ còn lo bảo vệ vị thế của mình ở châu Mỹ, vì khi đó các nước Brazil, Mexico, Argentina đều lớn mạnh hơn, trực tiếp cạnh tranh với Mỹ.

Sau khi nghe các lý luận của hai chiến lược gia nước Mỹ, chúng ta cũng không thể kết luận là cuối cùng có thể xẩy ra chiến tranh Mỹ-Hoa hay không, và nếu có thì bao giờ xẩy ra. Nhưng dù họ có đánh nhau hay không thì quyền lợi của nước Việt Nam sẽ không thay đổi.

Ðiều quan trọng nhất là Việt Nam phải bảo vệ được vùng hải phận giầu tài nguyên ở Biển Ðông nước ta, ít nhất sẽ bảo vệ những gì còn lại sau khi nhiều hòn đảo đã bị Trung Quốc chiếm đoạt. Muốn bảo vệ các đảo còn chưa bị chiếm, Việt Nam không những phải kết thân với các nước Ðông Nam Á để quốc tế hóa vấn đề này; mà còn phải biết lợi dụng sự kình chống giữa Trung Quốc với Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ ở Á Ðông. Khi nhìn thấy quyền lợi của hai phe đó chắc chắn sẽ xung khắc, Việt Nam không thể nào bỏ qua cơ hội không dùng mối xung đột đó làm đòn bẩy mà nước ta cần vận dụng, để bảo vệ quyền lợi của mình. Có thể nói đây là một chiến lược lâu dài của nước ta, kể từ khi người Tây phương sang Á Châu. Các vua quan triều Nguyễn đã bỏ lỡ cơ hội, không biết dùng mối xung đột giữa các cường quốc để bảo vệ chủ quyền của đất nước.

Cơ hội đó đã mất khi Pháp chiếm Việt Nam. Từ giữa thế kỷ 20 đến giờ, cơ hội lại xuất hiện nhiều lần nhưng đảng cộng sản Việt Nam đã bỏ qua; vì lý do ý thức hệ họ nhất mực kết nghĩa anh em với các nước cộng sản và chống Mỹ đến cùng. Tuy nhiên một cơ hội mới nay đang lộ rõ ít nhất trong vòng hai năm nay. Ðó là khi Trung Quốc tiến thêm những bước mới, hung hăng mạnh bạo hơn trong cuộc cạnh tranh nhằm lấn chân Mỹ ở phía Ðông Á Châu; và đã bị Mỹ phản ứng ngược lại.

Trong thế giới này, mỗi quốc gia vẫn tìm cách lấn chân quốc gia khác, đó không phải là chuyện lạ. Một nước nhỏ như nước ta phải nhìn thấy trước các vụ xung đột quốc tế và lợi dụng để bảo vệ quyền lợi của nước mình. Trước năm 2008 chính phủ Mỹ vẫn chính thức coi Trung Quốc là “đối tác cạnh tranh và hợp tác.” Chính phủ Bush đã nghiêng về phía hợp tác vì quá chú ý đến Trung Ðông và muốn lôi kéo Trung Quốc trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Nhưng chính quyền Obama đã thay đổi; bắt đầu nhấn mạnh đến việc cạnh tranh hơn là hợp tác, sau khi Bắc Kinh đã thay đổi chính sách, trở nên hung hăng hơn trước. Khi Trung Quốc thấy Mỹ lúng túng trong hai cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, lại thấy hệ thống tài chính Mỹ bị khủng hoảng, thì họ trở thành quá tự tin, đã nhân cơ hội mà lấn bước. Họ vẫn dè dặt lấn tới trong khu “ao nhà” của họ mà thôi, không dám có hành động khiêu khích ngoài vùng Á Ðông.

Hành động lấn tới của Bắc Kinh biểu hiện rõ nhất từ năm nay. Trước đây, Trung Quốc vẫn gọi Tây Tạng và Ðài Loan thuộc vào “quyền lợi cốt lõi” (hạch tâm quyền lợi) của họ. Ðầu năm nay, họ mở rộng thêm, gọi vùng Nam Hải (vùng lưỡi bò gồm Biển Ðông của nước ta và giữa các nước Ðông Nam Á) cũng là vùng quyền lợi cốt lõi. Chúng ta biết người Trung Hoa coi Tây Tạng và Ðài Loan là quyền lợi sinh tử, họ có thể huy động toàn dân quyết tâm bảo vệ hai vùng đó, đó là đất đai của nước Trung Hoa. Nay, chính phủ Bắc Kinh chính thức xếp hàng Biển Ðông của nước ta vào loại này. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh sẽ nuôi dưỡng và khích động tình tự dân chúng đối với các hòn đảo trong vùng này; không khác gì họ vẫn làm đối với Ðài Loan và Tây Tạng.

Cùng lúc đó, chính phủ Bắc Kinh cũng tấn công các nước Á và Phi Châu bằng tiền, nhất là các nước chính quyền tham nhũng dễ mua chuộc. Bắc Kinh dùng guồng máy “tư bản nhà nước” để xâm lăng kinh tế các nước này, tranh mua các tài nguyên. Trong khi đó các nước tư bản Tây phương vẫn tôn trọng cơ chế thị trường và hay đặt ra các điều kiện về tự do, nhân quyền khi giao thương. Trung Quốc đã bành trướng thế lực mà không cần gây chiến. Tướng Ma Xiaotian (Mã Hiểu Thiên), phó tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã nói đến một chiến lược “không đánh mà thắng ở Á Châu.” Bắc Kinh cũng cho phép giới truyền thông trong nước động viên tình tự dân tộc, đưa ra những tín hiệu gây hấn. Trong một bài báo của Ðại Tá Không Quân Ðới Từ, ông đã buộc tội Mỹ đang thực hiện “chiến dịch bao vây Trung Quốc hình lưỡi liềm” “bóp cổ Trung Quốc nhẹ nhàng.” Ông nêu lên dữ kiện là các công ty Mỹ đang điều khiển 21 ngành công nghiệp trong tổng số 28 ngành ở Trung Quốc. Một đại tá khác là Lưu Minh Phúc thuộc Ðại Học Quốc Phòng Quốc Gia, trong cuốn sách của ông về “Giấc mơ Trung Quốc,” phát hành vào Tháng Ba năm 2010, đã yêu cầu Trung Quốc “bỏ đi ảo tưởng và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đối đầu với Hoa Kỳ về việc thống trị toàn cầu trong thế kỷ 21.” Ðó chỉ là những luận điệu tuyên truyền quốc nội, nhưng có thể chuẩn bị cho các hành động gây hấn sau này.

Các hành động gây hấn mới của Bắc Kinh đối với vùng Ðông Nam Á đã gây nên một bước ngoặt quan trọng trong chính sách của Mỹ. Trước đây, Trung Quốc đã từng tranh chấp biên giới với Ấn Ðộ nhưng chưa bao giờ họ coi vùng giới tuyến đó là quyền lợi cốt lõi. Hiện nay, họ đang phát triển giao thương với các nước Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan and Uzbekistan qua Tổ chức Thượng Hải, mở lại “Con đường Tơ Lụa” xưa, nay được thay bằng Con đường Dầu Khí. Nhưng họ cũng chưa hề gọi vùng biên thùy đó là quyền lợi cốt lõi. Cho nên, nước Mỹ phải nhìn thấy ngay một mối đe dọa mới ở Á Châu, đối với quyền lợi của Mỹ và đồng minh. Những phản ứng của chính phủ Mỹ từ giữa năm 2010 đến nay cho thấy họ bắt đầu phản công lại. Bởi vì không biết lúc nào Bắc Kinh bắt đầu coi những vùng biển ngoài xa, xa hơn Nhật Bản và Phi Luật Tân cũng là “quyền lợi cốt lõi?”

Ðứng trước một cuộc đối đầu không thể tránh được giữa Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam cần phải làm sao cho cán cân ảnh hưởng của cả hai nước quân bình với nhau trong nền ngoại giao của nước mình. Một nước Việt Nam khôn ngoan sẽ không nghiêng về cường quốc nào hết trong mọi cuộc tranh chấp. Chỉ có như vậy mới bảo vệ quốc quyền lợi của tổ quốc.

Nhưng vì trong quá khứ chính quyền Việt Nam đã quá thân thiết với Bắc Kinh, cho nên muốn lập được quân bình thì bây giờ là lúc phải đặt thêm các mối quan hệ với Mỹ chặt chẽ hơn. Nước Việt Nam không nên tỏ ra muốn theo một nước nào để chống lại Trung Quốc. Nhưng phải lập một thế quân bình trong việc bang giao với các cường quốc, từ Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Ðộ, Mỹ, vân vân. Ðây là một lựa chọn không thể nào tránh được, nếu nước ta không muốn tiếp tục bị lệ thuộc mãi vào nước láng giềng phương Bắc.

Một điểm tương đồng trong chính sách ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam hiện nay là chủ trương “đa phương hóa” nếu không phải là quốc tế hóa các tranh chấp ở Biển Ðông. Chính phủ Mỹ đã chính thức đưa ra chủ trương này. Ðối với chính phủ Bắc Kinh thì họ chỉ muốn “chia để trị” các nước Ðông Nam Á bằng những cuộc thương thuyết song phương, họ mạnh mẽ gạt bỏ chủ trương đa phương hóa.

Chính quyền Việt Nam cần phải tỏ ra cương quyết hơn trong vấn đề này. Vì đối phó với một nước láng giếng đã có hai ngàn năm lịch sử lúc nào cũng muốn lấn chiếm và đồng hóa dân tộc mình, thì chỉ còn cách là phải kết bạn với những cường quốc khác. Kết giao không phải để theo ai nhưng để lập lại thế quân bình. Ðáng lẽ các chính quyền Việt Nam đều phải chọn giải pháp này từ hơn 60 năm trước.

Vào giữa thế kỷ 20 các cựu thuộc địa ở Á Châu mới giành được độc lập đều đứng trước hai lựa chọn chiến lược. Thứ nhất là phát triển đất nước theo mô thức kinh tế nào. Thứ hai là liên kết với những cường quốc nào trong một thế giới đầy tranh chấp. Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã chọn nhầm trong cả hai quyết định chiến lược đó. Họ chọn đường lối phát triển theo Liên Xô, sau phải xóa bỏ. Họ chọn liên kết với Nga và Trung Cộng, với kết quả bây giờ muốn đòi lại các đảo ở Hoàng Sa cũng há họng mắc quai.

Muốn xóa bỏ những lỗi lầm quá khứ, bây giờ là lúc phải làm lại từ đầu. Chính sách ngoại giao của nước ta không thể đặt trên nền tảng “huynh đệ” hay “đồng chí” mà phải hoàn toàn đặt trên quyền lợi quốc gia. Giống như trong việc thương mại, một quốc gia không thể coi nước nào khác là đồng chí hay là anh em. Mọi giao dịch chỉ lấy quyền lợi quốc gia làm tiêu chuẩn.

@NguoiViet

—————————————————————————————————————————————————-

Quan hệ quốc phòng Việt Nam-Trung Quốc đang phát triển tích cực

Đoàn đại biểu Bộ Quốc phòng Việt Nam do Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu đã có chuyến thăm và làm việc tại Trung Quốc về Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN Cộng (ADMM+). Ngày 25-8, tại Bắc Kinh, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã gặp gỡ báo chí Việt Nam và Trung Quốc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trao đổi thẳng thắn và cởi mở này.

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh tới chào Thượng tướng Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cho biết, Đoàn đại biểu Việt Nam đã có cuộc hội đàm với đồng chí Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc và tới chào đồng chí Thượng tướng Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc. Tại cuộc hội đàm và gặp gỡ này, những quan điểm của Trung Quốc nêu ra phù hợp với những quan điểm, những vấn đề mà các nước ASEAN đã đồng thuận. Các đồng chí Trung Quốc cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với Việt Nam với tư cách nước chủ nhà tổ chức thành công ADMM+.

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng đã nhắc lại lời mời đồng chí Lương Quang Liệt tham dự ADMM+ của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh. Đồng thời, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng chuyển thư của Bộ Quốc phòng Việt Nam mời Thượng tướng Lương Quang Liệt sang thăm chính thức Việt Nam. Thượng tướng Lương Quang Liệt đã vui vẻ nhận lời mời và bày tỏ sự ủng hộ về công tác chuẩn bị cho ADMM+ của Việt Nam cũng như bày tỏ mong muốn sang thăm Việt Nam. Thượng tướng Lương Quang Liệt cho biết, sau khi làm việc với các cơ quan hữu quan của Trung Quốc, đồng chí sẽ sớm có câu trả lời. “Chúng tôi cho rằng, sự có mặt của đồng chí Lương Quang Liệt tại Hội nghị ADMM+ sẽ có tác dụng rất tích cực cho thành công của Hội nghị cũng như tăng cường đoàn kết hữu nghị, tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tóm lại có thể nói rằng, chuyến thăm của chúng tôi diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng đã đạt được kết quả tốt đẹp”, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nhấn mạnh.

Sau khi thông báo kết quả của chuyến thăm, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã dành thời gian trả lời câu hỏi của các phóng viên:

Mạng Hoàn Cầu (Trung Quốc): Xin đồng chí đánh giá vai trò của Trung Quốc đối với các nước ASEAN? Có một số phân tích cho rằng hiện nay Mỹ đang tìm kiếm đồng minh quân sự của mình trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đồng chí có đồng ý với đánh giá đó không và Việt Nam có trở thành đồng minh quân sự của Mỹ hay không?

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Chúng tôi cho rằng, Trung Quốc có vai trò quan trọng đối với các nước ASEAN nói chung cũng như sự có mặt của Bộ Quốc phòng Trung Quốc có vai trò hết sức quan trọng trong diễn đàn ADMM+ nói riêng. Nói như thế trước hết vì Trung Quốc là một nước lớn, có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, là một nước đang phát triển mạnh mẽ và có vị trí địa lý nằm ngay gần với các nước ASEAN. Bên cạnh đó, lĩnh vực mà ADMM+ đang hướng tới là đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống. Đây là lĩnh vực mà Trung Quốc rất có kinh nghiệm, có trách nhiệm.

Về các phân tích cho rằng Mỹ đang tìm kiếm đồng minh quân sự tại khu vực này hay không, thì tôi cho rằng không nên vội vàng khi đánh giá về chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn. Về phần Việt Nam, chúng tôi sẽ không bao giờ trở thành đồng minh quân sự của Mỹ. Và không chỉ với Mỹ, Việt Nam sẽ không trở thành đồng minh quân sự của bất kỳ quốc gia nào. Chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước chúng tôi thể hiện nhất quán phương châm “ba không”: Không tham gia các liên minh quân sự, hoặc là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào; Không cho bất kỳ nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam; Không dựa vào nước này để chống nước kia.

Nhân dân Nhật báo (Trung Quốc): Trong thời gian gần đây có một số sự kiện đáng chú ý là ngày 17-8 diễn ra cuộc đối thoại quân sự Việt-Mỹ và trong tháng 7, Mỹ có rất nhiều hành động ngoại giao trong khu vực châu Á, Đông Nam Á. Cũng trong tháng 7 và tháng 8, Nhật Bản, Mỹ và Hàn Quốc đã thực hiện nhiều cuộc diễn tập quân sự. Ngoài ra, tàu quân sự Mỹ đã có hoạt động trên Biển Đông cách bờ biển Việt Nam 300 hải lý. Ngày 10-8, tàu quân sự của Mỹ đã thăm Việt Nam và có các hoạt động phi quân sự. Báo chí nước ngoài bình luận là chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện đang thay đổi. Mỹ đã có sự quay trở lại về quân sự vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Việt Nam đã điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Đồng chí có đồng ý với bình luận này không? Và nếu đồng ý thì sẽ nảy sinh ảnh hưởng quan hệ như thế nào đối với Việt Nam-Trung Quốc và Mỹ?

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Trước hết, tàu sân bay Mỹ USS George Washington vừa qua đi trên đường hàng hải quốc tế cách Đà Nẵng khoảng 200 hải lý, trong vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thành phố Đà Nẵng của Việt Nam đã cử đoàn ra thăm tàu. Sau đó, tàu USS John S. McCain đã vào thăm cảng Đà Nẵng. Đây là hoạt động hết sức bình thường diễn ra hằng năm trong quan hệ đối ngoại quốc phòng của Việt Nam và đã được chuẩn bị từ trước. Đây cũng là hoạt động mà Việt Nam không chỉ làm với tàu Mỹ mà Việt Nam cũng đã đón tàu của các nước khác, trong đó có Trung Quốc. Về phía Mỹ cũng đã tổ chức các hoạt động tương tự với nhiều nước trong khu vực, trong đó có cả Trung Quốc cũng như các nước ASEAN ven Biển Đông. Chúng tôi không muốn các bạn suy diễn và gắn vấn đề này với những động thái mới của Mỹ trong khu vực thời gian vừa qua, mà hãy coi đó là những hoạt động hết sức bình thường.

Không nên đặt Việt Nam – Mỹ – Trung Quốc trong mối quan hệ tay ba như vậy, mà cần tách bạch quan hệ Việt – Trung và quan hệ Việt – Mỹ. Có thể khẳng định rằng Việt Nam sẽ không có thay đổi gì trong những mối quan hệ này. Tuy nhiên, quan hệ Việt Nam với Trung Quốc khác nhiều so với quan hệ Việt Nam với Mỹ, cũng như quan hệ Việt Nam với các nước khác. Chúng tôi luôn coi Trung Quốc là một nước láng giềng, Trung Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa. Hai nước có quan hệ tốt đẹp nhất là từ khi hai Đảng Cộng sản ra đời. Lãnh đạo hai nước đã khẳng định phương châm 16 chữ trong quan hệ giữa hai nước. Mới đây, hai nước đã nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Việc Việt Nam và Trung Quốc tăng cường hợp tác quốc phòng cũng nằm trong khuôn khổ phát triển đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.

Đứng trước những đổi mới về tình hình gần đây, Việt Nam không thay đổi đường lối đối ngoại. Đó là đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, đặc biệt là các nước láng giềng và nước có cùng chế độ xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc.

Đài Phát thanh Bắc Kinh: Thưa đồng chí Thứ trưởng, năm nay kỷ niệm 60 năm hai nước Trung-Việt có quan hệ ngoại giao, đồng thời cũng là Năm hữu nghị Trung-Việt, đặc biệt là những ngày tới đây Việt Nam sẽ tổ chức kỷ niệm 65 năm Ngày Quốc khánh. Có thể nói rằng đây là năm rất tốt đẹp. Cũng trong năm nay, Bộ Quốc phòng Việt Nam có nhiều chuyến thăm Trung Quốc của lãnh đạo cấp cao. Phải chăng đây là những chuyến thăm rất có ý nghĩa, ý nghĩa trong ý nghĩa và trong những chuyến thăm ấy có nhiều nội dung liên quan đến hợp tác của hai nước. Xin hỏi rằng những nội dung hợp tác giữa hai nước phải chăng đã được thực hiện, từ nay về sau sẽ có những dự án hợp tác cụ thể nào khác nữa về lĩnh vực Quốc phòng giữa hai nước?

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Tôi thực sự vui mừng khi được gặp ở đây một người Trung Quốc hiểu biết về Việt Nam, và có cái nhìn thiện cảm đầy tình anh em đối với chúng tôi như vậy. Năm nay Việt Nam có rất nhiều sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng, chúng ta có thể kể thêm Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội và các ngày lễ lớn khác. Trong bối cảnh như vậy, thì cũng là dịp Việt Nam-Trung Quốc kỷ niệm 60 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Về mặt quốc phòng, tính từ đầu năm đến nay Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã sang thăm Trung Quốc. Tôi hai lần sang thăm Trung Quốc. Từ đầu năm đến nay đồng chí Thượng tướng Mã Hiểu Thiên cũng đã gặp chúng tôi hai lần tại Diễn đàn Shangrila và Đà Nẵng. Ngoài ra còn nhiều đoàn khác của Trung Quốc và Việt Nam sang thăm nhau, điều đó phản ánh sự đa dạng, phong phú trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước.

Từ nay đến cuối năm, Việt Nam và Trung Quốc sẽ gặp nhau ở ADMM+. Sau đó, Đối thoại chiến lược Quốc phòng cấp Thứ trưởng lần đầu tiên giữa tôi và đồng chí Mã Hiểu Thiên tại Hà Nội vào quý IV. Chúng tôi coi trọng cuộc đối thoại này và ngay từ bây giờ, chúng tôi và các đồng chí Trung Quốc đang tích cực chuẩn bị cho cuộc đối thoại.

Đặc biệt, nếu đồng chí Thượng tướng Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc thu xếp được thời gian sang dự ADMM+ đồng thời kết hợp thăm chính thức Việt Nam thì đây sẽ là sự kiện lớn trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước, mang dấu ấn tốt đẹp trong Năm hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc cũng như năm chúng ta có ADMM+ lần đầu tiên.

– Đồng chí có đánh giá gì về quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Trung Quốc? Hiện nay có rất nhiều mối quan tâm về Biển Đông, xin đồng chí đánh giá về vấn đề này?

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Tôi cho rằng quan hệ quốc phòng Việt Nam – Trung Quốc đang có bước phát triển tích cực. Nó nằm trong bối cảnh chung quan hệ giữa hai đảng, hai Nhà nước và hai dân tộc. Ngoài ra, quan hệ quốc phòng còn có ý nghĩa đặc biệt trong xây dựng lòng tin giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Về vấn đề Biển Đông, đây là vấn đề lớn đã được bàn ở nhiều diễn đàn khác. Tôi chỉ muốn nói rằng những quan điểm chính thức có tính nguyên tắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam trước sau như một không thay đổi, đó là giải quyết vấn đề Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Đài Tiếng nói Việt Nam (thường trú tại Bắc Kinh): Xung quanh mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong thời gian gần đây, một số báo chí nước ngoài, trong đó có báo chí Trung Quốc đã bình luận rằng Việt Nam đang muốn dựa vào Mỹ, lôi kéo Mỹ để kiềm chế và cân bằng với Trung Quốc, xin Thứ trưởng cho nhận xét về vấn đề này?

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Câu hỏi của anh có hai khía cạnh, trước hết là Việt Nam có muốn dựa vào Mỹ và lôi kéo Mỹ hay không? Tôi khẳng định, Việt Nam không dựa và không lôi kéo Mỹ vào bất kỳ mục đích gì, đặc biệt là các mục đích về an ninh. Ý thứ hai là kiềm chế Trung Quốc? Việt Nam không bao giờ có ý định kiềm chế Trung Quốc ở bất kỳ lĩnh vực nào, ở thời điểm nào. Việt Nam vui mừng khi thấy Trung Quốc phát triển.

Sau khi tôi tham dự Đối thoại Quốc phòng Việt – Mỹ, báo chí cũng có câu hỏi gần giống như thế. Tức là, Trung Quốc phát triển mạnh như vậy, phát triển quốc phòng mạnh như vậy thì Việt Nam suy nghĩ gì? Tôi đã trả lời: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có quan hệ đại cục rất tốt đẹp, cho nên trước sự phát triển của Trung Quốc, trong đó có phát triển quốc phòng, Việt Nam ủng hộ và vui mừng. Sự ủng hộ ấy xuất phát từ mong muốn và niềm tin rằng, Trung Quốc sẽ không sử dụng sức mạnh của mình để làm phương hại tới chủ quyền và lợi ích của các nước khác và cũng không sử dụng sức mạnh ấy làm phương hại tới hòa bình và ổn định của khu vực và trên thế giới.

Ví dụ, sức mạnh quốc phòng Trung Quốc mà tham gia tích cực vào ADMM+ trong cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ thảm họa thì quả thật là điều tốt cho cả Trung Quốc lẫn khu vực.

Tôi mong muốn báo chí thông tin trung thực, khách quan nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc, trong đó có quan hệ quốc phòng. Quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước nói chung và quan hệ quốc phòng nói riêng hiện nay có rất nhiều chuyện, nhiều vấn đề tích cực, nhiều tấm gương sáng. Về quan hệ quốc phòng, chúng tôi sẵn sàng chia sẻ thông tin với các bạn để chúng ta có được một cái nhìn đúng đắn, có thiện cảm và tin cậy lẫn nhau.

Trần Linh (ghi)
@Quândoinhandan

—————————————————————————————————————————————————-