Mỹ xây dựng một phiên bản của NATO ở châu Á?

Nguồn: Li Hongmei, Nhân dân Nhật báo

Lê Quốc Tuấn, X-Cafe chuyển ngữ

Ngay khi có vẻ các cuộc tranh cãi lặt vặt lâu dài giữa Bắc Kinh và Washington về các vấn đề như sự mất cân bằng về thương mại, xác định giá trị tiền tệ của Trung Quốc và việc xử phạt Iran, Bắc Triều Tiên có thể đang phai nhạt đi, một loạt các xung đột mới đã phát sinh ngay lập tức sau đó với những căng thẳng hình thành và dâng cao trong những tuần gần đây về các sự kiện trong vùng biển Hoàng Hải và biển Nam Trung Hoa cùng những dấu hiệu cho thấy rằng Mỹ đang cố gắng can thiệp và chi phối các vấn đề có liên quan đến Trung Quốc.

Điều chọc giận Trung Quốc hơn nữa chính là, ngoài hành vi ngoại giao gây hấn của Hillary Clinton tại Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội, nơi bà đã ngang nhiên khẳng định Mỹ có “quyền lợi quốc gia” trong vùng biển Nam Trung Hoa, hôm thứ Sáu, Lầu Năm Góc cho biết chiếc USS Washington sẽ di chuyển đến Hoàng Hà cho các cuộc tập trận hải quân và không quân hỗn hợp giữa Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên. Đối với sự kiện này, công chúng Trung Quốc phản ứng giận dữ, cáo buộc Washington về sự leo thang căng thẳng vô ích trong khu vực, dù chính quyền vẫn còn đang thực hiện đường lối của mình giữa những đấu khẩu ngoại giao giữa hai cường quốc.

Tuy nhiên, chính quyền Obama đang thử nghiệm một chiến lược ngoại giao mới ngấm ngầm hơn nhưng rất nguy hiểm trong khu vực, nơi từ lâu họ từng thủ diễn sức mạnh bá quyền, để kềm hãm một quyền lực lớn mới nổi lên – Chuyển từ sự đối đầu sang sự đối đầu với một Trung Quốc đang vươn dậy. Điều này sẽ đem lại những thất bại có tính số phận. Có lẽ, trong một lịch sử không dài lắm của nước Mỹ, bài học cay đắng duy nhất về bộ máy chiến tranh siêu đẳng được giảng dạy bởi Trung Quốc – vốn chưa bao giờ ban thưởng cho Mỹ một cơ hội duy nhất nào để tuyên bố được một chiến thắng hoàn toàn trong bất cứ cơ hội nào.

Quyết định đưa một hàng không mẫu hạm đến tham dự các cuộc tập trận của Mỹ được coi là đặc biệt khiêu khích, và một số người Trung Quốc ngờ rằng Washington đang muốn gửi một “thông điệp mạnh mẽ” về sức mạnh của Mỹ đến Trung Quốc cũng như Bắc Triều Tiên. Và việc đưa chiếc tàu sân bay Mỹ đến với người cựu thù của mình đang dẫn đến những suy đoán hoang tưởng về việc có thể Hoa Kỳ đang cúi mình xuống để xây dựng một phiên bản châu Á của NATO.

Thực vậy, sự hiện hữu thực sự của NATO có thể không hình thành được, nhưng về tâm lý, Mỹ đang tán tỉnh và o ép các nước láng giềng của Trung Quốc tham gia vào đội nhóm của mình. Có thể hiểu được rằng một số nước Đông Nam Á không thể hoàn toàn giải giáp trước hình ảnh nổi lên của một người hàng xóm khổng lồ, và cũng hợp lý cho việc họ tìm nơi trú ẩn từ một người đồng minh hùng mạnh, trong bối cảnh mà tính ưu việt của Mỹ trong khu vực không chỉ được nhìn từ mật độ các căn cứ quân sự rải rác của mình mà bằng những gắn bó của quan hệ kinh tế với các nước này.

Tuy nhiên, chắc chắn Mỹ không vĩ đại như thế – Là kẻ ăn bám hoặc lệ thuộc nặng nề vào sức mạnh siêu quyền lực sẽ giáng một đòn đòn tai hại không thể tránh khỏi vào quyền lợi quốc gia của các nước châu Á có liên can. Mặt khác, Trung Quốc và các láng giềng châu Á của mình, dẫu đôi khi có những mẫu thuẫn đối chọi nhau nhưng vẫn có các quyền lợi tương ứng chồng chéo lên nhau và do đó sẽ phải đồng cam cộng khổ với nhau. Và về địa lý chính trị, các nước láng giềng của Trung Quốc sẽ không kham nổi các hậu quả phụ của việc đối đầu với Trung Quốc.

Quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã trở nên rõ ràng gay gắt trong những ngày gần đây và Hoa Kỳ lo lắng tìm kiếm những người đại diện của mình trong khu vực bằng cách kích động sự bất mãn của họ với Trung Quốc và lôi kéo họ về phía Mỹ.

Giống như một kẻ bất hạnh đáng khinh ưa gây sự, những hành động nhỏ nhen và đáng thương hại này đang được thực hiện bởi cái gọi là siêu quyền lực sẽ không thể giúp chúng gặt hái được các hoa quả mà chúng mong muốn – nhằm hình thành một đối trọng có hiệu quả với Trung Quốc ở châu Á. Những gì Trung Quốc cần làm là chỉ cần tăng thêm niềm tin trong việc xử lý các va chạm với những nước láng giềng và thông qua điều này này, để nâng cao uy tín chính trị và uy quyền của mình trong khu vực.

Và để chứng minh cho điều này, Trung Quốc sẽ mang lại một sự hợp tác hơn là đối đầu.

@X-Cafe

————————————————————————————————————————————————–

5 ngộ nhận sai lầm về phái mạnh

Phụ nữ hay sớm đưa ra kết luận cho một người đàn ông và họ nghĩ chẳng khó gì để ‘trói buộc’ cuộc đời chàng. Tiếc rằng, không phải nhận định nào của các nàng cũng đúng. Dưới đây là 5 nhận xét vội vàng khiến chị em có cái nhìn sai lệch về đấng mày râu.

Chàng hiểu rõ bản thân muốn gì

Đàn ông cũng chỉ là một người bình thường. Các chàng cũng có lúc “sáng nắng, chiều mưa, trưa trở trời”. Nếu bạn nhận định rằng người ấy của mình luôn biết rõ những gì chàng muốn, điều này hoàn toàn sai lầm. Vì vậy, đừng nên vội đưa ra những lời trách móc, giận hờn khi chàng vẫn đang do dự. Bạn nên cho chàng thời gian suy nghĩ thật kỹ để đưa ra quyết định chính xác.

Phái mạnh thích sự chân thật và cởi mở

Trung thực trong tình yêu là một điều rất cần thiết. Tuy nhiên, chẳng anh chàng nào còn hứng thú với một cô gái chuyện gì cũng “bô bô” kể ra, chẳng còn gì thú vị bởi mọi cái đều được nàng phơi bày.

Hãy để chàng từ từ khám phá ra những cái hay trong tính cách của bạn, đồng thời, cũng nên tạo ra một chút khó khăn khi chàng bắt đầu hành trình chinh phục trái tim bạn. Bên cạnh đó, bạn đừng dại dột kể lể hết những mối tình hay đau khổ từng trải qua, mọi chuyện giờ đã là quá khứ, không cần thiết nhắc lại.

Đàn ông yêu chủ yếu vì sex

Nếu gặp phải một anh chàng như vậy, bạn nên chấm dứt càng sớm càng tốt. Dù “tình yêu của đàn ông thường gắn với tình dục” nhưng đó chỉ là bản năng của một con người. Ngoài chuyện ấy, một anh chàng có tình yêu thật sự sẽ quan tâm tới mọi chuyện xung quanh người yêu của mình như công việc, gia đình, bạn bè… Vậy, hãy dựa vào hành động của chàng để phán xét mọi chuyện, đừng để suy nghĩ đó làm ảnh hưởng tới tình yêu của hai bạn.

Món ăn ngon sẽ níu giữ chân chàng mãi

Câu nói “tình yêu của đàn ông đi qua dạ dày” chỉ đúng một phần nào đó và tùy vào từng trường hợp. Không phủ nhận rằng khi trở về nhà có một bữa ăn ngon sẽ khiến ông xã của bạn thấy rất vui vẻ và ấm áp sau một ngày làm việc mệt mỏi. Tuy nhiên, ngoài điều đó ra, chàng còn cần rất cần sự quan tâm và chia sẻ của người bạn đời. Bên cạnh những món ăn ngon, bạn nên thường xuyên dành “lời có cánh” và biết lắng nghe những tâm sự của chàng.

Bề ngoài của phụ nữ được đánh giá cao

Đúng vậy, đàn ông luôn bị hấp dẫn trước một người phụ nữ đẹp và quyến rũ. Nhưng sắc đẹp không phải là điều duy nhất để quyết định sự lâu bền của một mối quan hệ. Đừng mất tự tin nếu bạn không nóng bỏng bằng những cô gái khác, điều đó dễ khiến bạn có những hành động ngớ ngẩn trước mặt chàng. Tự tin là một yếu tố rất quan trọng trong tình yêu cũng như trong chuyện ấy.

@ DatViet

——————————————————————————————————————————————————————

CẬP NHẬT TIN TỨC 16-8-2010

Việt Nam và Mỹ đàm phán quốc phòng lần đầu tiên ở cấp thứ trưởng
Thủy thủ Mỹ trên chiến hạm USS John S. McCain hướng dẫn kỹ thuật cứu nạn cho Hải quân Việt Nam. Ảnh chụp ngày 11/08/2010

Thủy thủ Mỹ trên chiến hạm USS John S. McCain hướng dẫn kỹ thuật cứu nạn cho Hải quân Việt Nam. Ảnh chụp ngày 11/08/2010

U.S. Navy / Brock A. Taylor

Vào ngày mai, 17/08/2010, một cuộc họp ở cấp thứ trưởng bộ Quốc phòng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ mở ra tại Hà Nội trong khuôn khổ mang tên Đối thoại Chính sách Quốc phòng. Theo đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam, ông Robert Scher, phó trợ lý bộ trưởng Quốc phòng phụ trách Nam Á và Đông Nam Á sẽ dẫn đầu phái đoàn Mỹ. Về phía Việt Nam, người chủ trì sẽ là trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng bộ Quốc phòng.

Giới quan sát ghi nhận rằng đây là lần đầu tiên mà hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ mở đối thoại quốc phòng ở cấp thứ trưởng, chỉ vài ngày sau khi hải quân hai nước cũng lần đầu tiên tham gia một cuộc thao diễn hỗn hợp. Trả lời phỏng vấn báo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam vào hôm qua, tướng Nguyễn Chí Vịnh xác định rằng cuộc « Đối thoại chính sách Quốc phòng » Mỹ-Việt cấp thứ trưởng lần đầu tiên này nằm trong thỏa thuận đã được bộ trưởng Quốc phòng hai bên thông qua từ năm ngoái.

Về nội dung cuộc đàm phán, thứ trưởng quốc phòng Việt Nam cho biết : « Tại cuộc đối thoại lần này, hai bên sẽ nêu các vấn đề liên quan đến chính sách quốc phòng, quan hệ quốc phòng song phương và bàn các biện pháp để tăng cường quan hệ quốc phòng hai nước trên cơ sở cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau … Hai bên có thể tham khảo lập trường của nhau về các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm. »

Cũng trong bài phỏng vấn kể trên, tướng Nguyễn Chí Vịnh đã bác bỏ các nhận định được giới truyền thông đưa ra trong thời gian gần đây, là cuộc thao diễn hải quân hỗn hợp Mỹ-Việt vào tuần trước thể hiện xu hướng mới của Việt Nam, muốn liên kết nhiều với Mỹ. Theo ông Vịnh, gọi các hoạt động hải quân chung giữa Mỹ và Việt Nam là cuộc ”diễn tập chung” là ‘’không chính xác’’, trong lãnh vực quốc phòng, Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với nhiều nước, trong đó có cả Trung Quốc, Ấn Độ, và Nga.

Xin nhắc lại là Việt Nam và Hoa Kỳ khai mở Đối thoại Quốc phòng cấp cao vào lúc Hoa Kỳ đã công khai tuyên bố ý định can dự nhiều hơn vào hồ sơ Biển Đông, nơi mà 80% diện tích đã bị Trung Quốc coi là thuộc chủ quyền của họ, bất chấp tranh chấp với Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, và tranh chấp với bốn quốc gia khác trên quần đảo Trường Sa. Bắc Kinh đã sẵn sàng dùng võ lực ép buộc các nước khác, nhất là Việt Nam, tôn trọng đòi hỏi của Trung Quốc.

Tại Hội nghị Ngoại trưởng của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Hà Nội hồi tháng bảy, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã đề xuất một cơ chế đa phương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, được 12 nước trong vùng ủng hộ. Tuy nhiên, sáng kiến của Mỹ đã bị Trung Quốc đả kích, vì Bắc Kinh chủ trương giải quyết song phương với từng nước. Theo giới phân tích, đây là một thủ thuật nhằm chia rẽ khối ASEAN và đẩy các nước đối thoại với Trung Quốc vào thế yếu.

——————————————————————————————————————————————————————-

Gần một trăm nghìn quân Mỹ và Hàn Quốc bắt đầu tập trận trong 10 ngày

Trên boong hàng không mẫu hạm USS George Washington trong đợt tập trận Mỹ-Hàn cuối tháng 07/2010

Trên boong hàng không mẫu hạm USS George Washington trong đợt tập trận Mỹ-Hàn cuối tháng 07/2010

Bắt đầu từ ngày hôm nay, 16/08/2010, Mỹ và Hàn Quốc bắt đầu tiến hành cuộc tập trận chung trên lãnh thổ Hàn Quốc. Đây là cuộc diễn tập quân sự định kỳ hàng năm của hai nước, nhưng năm nay cuộc tập trận này được tiến hành với quy mô đặc biệt rộng lớn.

Theo phát ngôn viên bộ Quốc phòng Hàn Quốc, khoảng 56.000 binh sĩ nước này được huy động vào cuộc diễn tập quân sự. Về phía Mỹ, lực lượng tham gia gồm khoảng 30.000 quân nhân tại chỗ, và một số lượng không xác định lính Mỹ tại Hoa Kỳ cũng sẽ cùng tập trận thông qua máy tính. Các bài diễn tập quân sự kéo dài 10 ngày.

Gần 5 tháng sau kể từ khi tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc bị thủy lôi của Bắc Triều Tiên bắn chìm, đây là cuộc biểu dương sức mạnh lớn đầu tiên của Seoul và đồng minh trước Bắc Triều Tiên. Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-Bak gọi đây là « cuộc diễn tập vì hòa bình và để răn đe ». Bình Nhưỡng đã phản ứng trước cuộc thao diễn quân sự Mỹ-Hàn bằng những lời đe dọa dữ dội nhất. Từ Seoul, thông tín viên Frédéric Ojardias tóm lược tình hình :

“Cuộc đọ sức vẫn tiếp tục. Sáng nay, trên 50 nghìn binh sĩ Hàn Quốc cùng với 30 nghìn lính Mỹ đã cùng tham gia vào cuộc tập trận chung. Số lính Mỹ tham gia lần này nhiều hơn gấp ba lần so với các cuộc tập trận chung giữa hai nước trong những năm trước đây. Hàng năm, các cuộc tập trận như vậy vẫn nhằm mục đích tăng cường phối hợp hành động giữa quân đội hai nước nhằm chống đỡ lại mọi cuộc tấn công được gọi là « phi đối xứng », theo kiểu giống như tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc bị đánh chìm trên biển Hoàng Hải gần đây. Bên cạnh các cuộc tập trận, sẽ còn có các bài diễn tập chống khủng bố được dự trù để chuẩn bị bảo vệ hội nghị thượng đỉnh G20 diễn ra vào tháng 11 tại Seoul.

Tất nhiên là Bắc Triều Tiên đã phản ứng dữ dội trước cuộc tập trận mà họ coi là hành động « chuẩn bị cho một cuộc xâm lược ». Bình Nhưỡng đe dọa người bà con phương nam rằng sẽ có biện pháp « trừng phạt nghiêm khắc nhất chưa từng được áp dụng với bất kỳ ai trên thế giới ».

Phản ứng đáp trả của Bắc Triều Tiên không chỉ bằng võ mồm. Thứ hai tuần qua, Bình Nhưỡng đã cho bắn pháo trên biển Hoàng Hải, họ vẫn còn bắt giữ một tàu cá cùng toàn bộ thủy thủ đoàn của Hàn Quốc từ tuần trước. Tình hình đang rất căng thẳng, hai miền Triều Tiên chưa hề ký với nhau hiệp định hòa bình nào, và vì thế mà hai bên vẫn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến tranh”.

RFI )

—————————————————————————————————————————————————————

Mỹ dùng vũ khí hạt nhân nếu Trung Quốc tấn công tàu sân bay?

“Nếu Trung Quốc dùng tên lửa Dong Feng 21 đánh tàu sân bay Mỹ, Mỹ sẽ phản công bằng vũ khí hạt nhân”, tờ Wen Wei Po dẫn lời một đô đốc Mỹ giấu tên cho biết.

Thông tin trên xuất hiện trong bối cảnh Mỹ chuẩn bị đưa tàu sân bay USS George Washington tới tập trận với Hàn Quốc ở Hoàng Hải trong sự phản đối của Trung Quốc.

Mỹ chuẩn bị đưa tàu sân bay USS George Washington tới gần Trung Quốc

Hiện chưa quan chức nào xác nhận thông tin trên nhưng Chosun Ilbo đưa tin, Trung Quốc chuẩn bị thử nghiệm tên lửa đạn đạo diệt tàu chiến Dong Feng 21D, loại vũ khí được miêu tả là “sinh ra để diệt tàu sân bay của Mỹ”.

Internet China National Radio thì đăng tải thông tin, Tổ hợp công nghiệp hàng không vũ trụ Trung Quốc sẽ sớm thử “một loại vũ khí nằm trong một dự án quân sự quan trọng của quốc gia”.

Dù hãng tin này không nói chính xác đây là dự án gì nhưng họ phát đi một bức ảnh của một tên lửa đạn đạo tầm trung Dong Feng 21C, “anh em” với Dong Feng 21D, một lọa tên lửa có mục tiêu là diệt hàng không mẫu hạm của Mỹ.

Tên lửa Trung Quốc ngày càng mạnh.

Hiện Trung Quốc chưa xác nhận nhưng cũng chẳng bác bỏ thông tin từ phương Tây rằng, Bắc Kinh hoàn tất việc phát triển tên lửa Dong Feng 21D và thử nghiệm nó từ nay tới cuối năm.

Chosun Ilbo đưa tin, việc đưa tin về loại vũ khí mới có thể là động thái nhằm đáp trả việc Mỹ triển khai hàng không mẫu hạm USS George Washington tới biển Đông và Hoàng Hải, gần Trung Quốc.

Dong Feng 21 là loại tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn hiện đại tầm trung có thể phóng bằng xe phóng của Trung Quốc. DF-21 có tầm phóng 1.800 km (DF-21A) và có khả năng mang theo một đầu đạn hạt nhân nặng 600kg.

DF-21 trên xe phóng

Sau khi bắn thử thành công vào tháng 5/1985, khoảng 100 tên lửa DF-21/JL1 được sản xuất. Theo sách trắng công bố tháng 7/2002 của Nhật Bản thì Trung Quốc có khoảng 70 tên lửa có khả năng bay tới Nhật Bản, trong đó phần nhiều là DF-21.

DF-21 xuất hiện thay thế hoàn toàn loại DF-3 cũ kỹ trang bị trong quân đội của Trung Quốc. DF-21 thể hiện rõ sự ưu việt so với DF-3 ở khả năng phóng cực nhanh (thời gian chuẩn bị từ 10 – 15 phút) và độ chính xác rất cao (độ lệch từ 3 đến 400m).

Mô hình xe phóng tên lửa DF-21.

Tên lửa DF-21 cũng là tên lửa đạn đạo đầu tiên được Trung Quốc cải tiến để trang bị cho lực lượng tàu ngầm chiến lược của nước này với tên JL-1 (Cự Lãng 1).

Trong khi đó, Dong Feng 21D là tên lửa tầm trung có tầm bắn 1.300-1.800 km và có thể mang 6 đầu đạn nặng tổng cộng 450 kg. Nó được coi là “kẻ hủy diệt tàu sân bay” do có khả năng đánh chìm ngay lập tức hàng không mẫu hạm, sau khi vượt qua “lưới phòng vệ” của tàu và khi lọt vào tàu, nó phát nổ từ bên trong.

Huy Hoàng (tổng hợp)
@ Báo DatViet
——————————————————————————————————————————————————————————————

Sản xuất thịt nhân tạo để nuôi sống dân số toàn cầu gia tăng

Chăn nuôi gia súc chiếm đến 30% đất đai không bị băng giá bao phủ trên địa cầu
Chăn nuôi gia súc chiếm đến 30% đất đai không bị băng giá bao phủ trên địa cầu

Một cuộc nghiên cứu mới để xem làm cách gì để nuôi sống dân số toàn cầu đang tăng mạnh nói rằng trong những năm sắp tới thịt nhân tạo sẽ thay thế cho việc tiêu thụ thịt gia súc. Một khoa học gia người Anh đã cho công bố kết quả cuộc nghiên cứu của ông hôm thứ Hai nói rằng mối quan hệ lâu bền từ 12 ngàn năm nay giữa con người và gia súc đang nhanh chóng thay đổi, nhưng tại các quốc gia đang phát triển, gia súc vẫn còn là một phần quan yếu của đời sống.

Giáo sư Philip Thorton dạy tại đại học Edinburgh, tác giả cuộc nghiên cứu, nói rằng nhu cầu về gia súc sẽ tăng gần gấp đôi trong khu vực dưới sa mạc Sahara tại Phi châu và nam Á tính cho đến năm 2050.
Nguyên do là vì dân số tăng nhanh, lợi tức cũng tăng, và các thành phố phát triển mạnh.
Ông cho biết dân cư tại các quốc gia đang phát triển sống bằng nghề chăn nuôi gia súc có thể được lợi vì nhu cầu về thịt gia tăng. Nhưng đồng thời ông cho biết công nghiệp hóa việc chăn nuôi gia súc cũng có thể gây khó khăn cho giới nghèo.
Ông nói: “Một trong những mối nguy là những người chăn nuôi gia súc này sẽ bị gạt ra ngoài lề và nếu như họ không thể tham gia vào thị trường thì rõ ràng là họ sẽ không ở trong tư thế có lợi từ sự kiện nhu cầu gia tăng.”
Trong khoảng thời gian giữa những năm 1980 và 2002, tổng số lượng thịt do các quốc gia đang phát triển sản xuất đã tăng từ 45 đến 134 triệu tấn. Trong khi đó thì tại các quốc gia đã phát triển, mức sản xuất và tiêu thụ đã ngang bằng với nhau.
Đây không phải là khác biệt duy nhất. Theo giáo sư Thorton, mục súc đóng một vai trò quan trọng trong nhiều quốc gia đang phát triển mà không đâu bằng. Ông cho biết: “Nó không chỉ là phương tiện sản xuất hay kiếm sống của những người chăn nuôi mục súc, nhưng còn có nhiều khía cạnh văn hóa, xã hội liên quan đến việc chăn nuôi gia súc nữa.”
Ông cho biết tại nhiều nơi ở châu Phi, đặc biệt, các liên hệ xã hội một phần được đánh giá qua số mục súc sở hữu. Lấy thí dụ, mức độ quan trọng trong xã hội của con người được đo bằng con số mục súc sở hữu, hay người ta có thể cho đi con bò, con dê làm quà ra mắt để làm quen.
Thế nhưng sẽ có nhiều điều chưa lường trước được khi mà việc sản xuất và tiêu thụ thịt gia súc thay đổi. Nhưng ông nói thêm là bắt buộc sẽ phải thay đổi. Theo dự trù đến năm 2050 sẽ có 9 tỉ người sống trên thế giới và cần được nuôi ăn, bất kể là đất và nước trên thế giới chỉ có hạn. Một trong những chọn lựa có thể có để đối phó với nạn thiếu hụt lương thực, theo giáo sư Thornton, có thể là thịt nhân tạo.
Ông giải thích: “Hiện giờ đang có rất nhiều công trình khảo cứu về ý tưởng sản xuất thịt nhân tạo. Nói cách khác, tức là thịt được chế tạo từ phòng thí nghiệm hay xưởng máy, thực sự hoàn toàn không liên quan đến động vật sống.”
Điều này, theo ông, sẽ có những ý nghĩa rất lớn đối với gia súc trong thế giới đã phát triển lẫn đang phát triển.
Khí hậu biến đổi cũng có thể có hệ quả quan trọng. Những công nghệ mới có thể được cần đến để đối phó với hệ quả mà khí hậu biến đổi gây nên cho việc chăn nuôi gia súc. Điều đáng nói hơn nữa là sản xuất thịt theo lối dây chuyền đã gây nên gần 20% khí thải nhà kính do con người tạo nên, và những áp lực đòi ngăn chặn khí thải gây hiệu ứng nhà kính chỉ có tăng lên mà thôi.
Chăn nuôi gia súc chiếm đến 30% đất đai không bị băng giá bao phủ trên địa cầu và trị giá ít nhất chừng 1400 tỉ đô la. Sản phẩm chế biến từ thịt gia súc cũng chiếm một phần quan trọng trong lượng lương thực tiêu thụ của con người, nó chiếm chừng 17% mức calorie tiêu thụ trên toàn cầu.
Phúc trình của giáo sư Thornton là một phần trong một loạt gồm 21 công trình nghiên cứu được Hiệp Hội Hoàng Gia Anh Quốc xuất bản. ( VOA )

——————————————————————————————————————————————————————-


Tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô

Tác giả: Theo Nhân dân điện tử – Thời nay

Tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô trước hết là xuất phát từ chức tước. Có người cho rằng, chức tước càng cao thì đặc quyền càng nhiều, nếu muốn làm quan hoặc thăng chức thì phải lấy lòng, hối lộ các lãnh đạo liên quan. Chức tước vì thế mà có giá.

LTS: Những bài học lịch sử về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô luôn thu hút sự quan tâm của công luận. Tờ Nhân Dân điện tử vừa đăng hồ sơ có tựa đề: Tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin đăng tải lại để cùng suy ngẫm.

Vào một ngày mùa thu năm 1988, đột nhiên có hàng trăm, hàng nghìn người tụ tập bên ngoài của một cửa hàng ở Thủ đô Moscow. Nguyên nhân gì đã khiến cho cửa hàng không phải là lớn này trở thành tâm điểm của báo chí và dư luận đến vậy?

Đây là một cửa hàng đặc biệt, chuyên phục vụ một số khách hàng đặc biệt, và hôm đó là ngày cuối cùng trước khi cửa hàng tuyên bố bị đóng cửa. Người dân Liên Xô gọi các khách hàng đặc biệt của cửa hàng đặc biệt này là những người thuộc tầng lớp đặc quyền. Tầng lớp đặc quyền này từng bước hình thành dưới thời Brezhnev và tiếp tục phát triển dưới thời Gorbachev; và đó là một chất xúc tác gây nên sự tan rã từ bên trong Đảng CS Liên Xô, là cũng một trong các nhân tố quan trọng thúc đẩy biến cố Liên Xô.

Sau Cách mạng Tháng Mười, chiến tranh và nạn đói đe dọa nghiêm trọng đối với chính quyền Xô Viết còn non trẻ. “Rồi sẽ có bánh mì và sẽ có tất cả”, câu nói đầy ấn tượng của Vasili trong bộ phim Lenin trong Tháng Mười đã trở thành câu nói thịnh hành một thời ở Liên Xô. Ngày nay, người ta khó có thể tin rằng những người làm việc gần gũi với Lenin từng nhường nhịn, chia sẻ cho nhau chỉ một mẩu bánh mì, nhưng đây là sự thật của lịch sử.

Nhà làm phim đã dựa vào một câu chuyện có thật hồi ấy để dựng nên tình tiết này trong phim. Năm 1918, chính quyền Xô Viết gặp phải một cuộc khủng hoảng lương thực. Tại một cuộc họp của UBND, Churuva lúc đó đang là Ủy viên nhân dân phụ trách vấn đề lương thực, bất ngờ bị ngất xỉu. Người ta phải khẩn cấp điều bác sĩ đến khám. Khám xong, bác sĩ kết luận, Churuva bị ngất xỉu do đói!

Là quan chức cao nhất phụ trách vấn đề lương thực của chính quyền Xô Viết, Churuva nắm trong tay quyền điều động hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu tấn lương thực, nhưng lại không giữ cho riêng mình số thực phẩm đủ để no bụng. Ngay sau đó, Lenin kiến nghị xây dựng nhà ăn điều dưỡng để bảo đảm cho những đồng chí đang ngày đêm lo lắng cho nhân dân được no. Điều này hoàn toàn đúng và không có gì phải bàn cãi.

Brezhnev trong một kỳ nghỉ tại Krym (Crưm), Liên Xô (trước đây năm 1973).

Nhà ăn điều dưỡng do Lenin khởi xướng năm ấy dần dần mở rộng thành cửa hàng cấp đặc biệt, rồi dần dần quy mô và số lượng của nó đã có sự thay đổi căn bản. Sau nửa thế kỷ, chỉ có những cán bộ đặc biệt cao cấp của Liên Xô mới có thể ra vào tòa nhà không hề có biển hiệu này. Đây là cửa hàng cung cấp đặc biệt lớn nhất Moscow.

Vào dịp cuối tuần, những chiếc xe hơi lũ lượt kéo đỗ trước của tòa nhà, chật kín cả dãy phố. Ở đây có đủ các loại hàng hóa xa xỉ của nước ngoài, như rượu Brandy của Pháp, Whisky của Scotland, thuốc lá thơm Mỹ, Chocolate Thụy Sĩ, coffee của Italia, giầy da của Áo, len dạ Anh, máy thu thanh Đức, máy ghi âm Nhật Bản,… có cả các mặt hàng khan hiếm ở Liên Xô. Báo chí đã nói công khai rằng, đối với những nhân vật thuộc tầng lớp trên thì chủ nghĩa Cộng sản đã được xây xong từ lâu! Chỉ riêng Moscow đã có hơn 100 cửa hàng như vậy.

Tầng lớp đặc quyền trong điện Kremlin có quy tắc riêng của mình, chức vụ càng cao đặc quyền càng lớn thì sự chênh lệch về đãi ngộ vật chất mà họ được hưởng so với dân thường càng lớn. Đương nhiên những người được hưởng đặc quyền này chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đội ngũ cán bộ Đảng CS Liên Xô. Thế nhưng thứ đặc quyền này phải chăng là căn nguyên đầu tiên của sự bất mãn xã hội mà tầng lớp này đã gây ra?

Thời kỳ Liên Xô vừa bắt đầu xây dựng CNXH, mọi người phấn đấu gian khổ hướng tới một cuộc sống mới. Khi đang phải phấn đấu vất vả để thực hiện lý tưởng chung, xã hội không chấp nhận những hàng vi dành chiếm độc quyền, mưu lợi cá nhân. Vào lúc nhà nước, dân tộc đứng trước nguy cơ tồn vong, nếu nói cán bộ lãnh đạo Đảng CS Liên Xô có đặc quyền gì đó thì đó chính là xung phong ra trận, xả thân chiến đấu, tắm máu sa trường, lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược trong tiếng réo hờn căm của Kachiusa.

Thời Stalin, yêu cầu của Đảng với cán bộ nhìn chung rất nghiêm khắc. Khi đó Liên Xô cũng đang phải đương đầu với môi trường chiến tranh tàn khốc và cả sóng to gió lớn của cuộc đấu tranh chính trị. Từng đoàn cán bộ, đảng viên đi ra tiền tuyến. Sự thay đổi cán bộ lãnh đạo diễn ra thường xuyên, tầng lớp đặc quyền không có cơ hội hình thành.

Nikita Khrushchev – Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, giai đoạn 1953 – 1964

Sau khi lên nắm quyền, Khrushchev đã thực hiện chính sách “cán bộ đặc biệt” theo quy định tại Điều 25 – Điều lệ Đảng CS được Đại hội 22 của Đảng CS Liên Xô thông qua. Cán bộ đảng viên cần thay đổi thường xuyên. Tại các buổi bầu cử diễn ra tại tổ chức đảng cơ sở hàng năm đều có hàng loạt bí thư bị thay thế sau khi kết thúc nhiệm kỳ. Tỷ lệ thay đổi cán bộ lãnh đạo lên tới 60%. Bởi vậy, trong thời kỳ này Liên Xô vẫn chưa hình thành tầng lớp người thật sự được hưởng đặc quyền trong Đảng. Tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô chỉ từng bước hình thành sau khi Brezhnev nắm quyền, nhất là vào giai đoạn cuối thời Brezhnev.

Tháng 4-1966, Đảng CS Liên Xô tổ chức Đại hội 23. Đây là Đại hội Đảng đầu tiên diễn ra sau khi Brezhnev nắm quyền điều hành công tác của BCH TƯ. Đại hội đã sửa đổi Điều 25 trong Điều lệ Đảng. Brezhnev đặc biệt tâm đắc câu nói của Khrushchev, người một thời gian dài phụ trách công tác ý thức hệ trong Đảng rằng: “Sự ổn định của đội ngũ cán bộ là sự bảo đảm cho thành công”.

Brezhnev theo đuổi sự ổn định của đội ngũ cán bộ một cách phiến diện sau đó phát triển thành chế độ chức vụ. Thực chất là chế độ chức vụ suốt đời, áp dụng với cán bộ lãnh đạo. Các cán bộ cao cấp của Liên Xô như Brezhnev, Khrushchev đều qua đời khi còn đương chức. Chính sách cán bộ của Brezhnev đã khiến cho các thành viên trong tầng lớp lãnh đạo của Đảng CS Liên Xô gần như không có biến động trong suốt một thời gian dài. Tại Đại hội 23 của Đảng CS Liên Xô, số ủy viên tái đắc cử và liên nhiệm đạt tỷ lệ 79,4%.

Tại Đại hội 25, không tính số ủy viên T.Ư đã qua đời thì tỷ lệ Ủy viên T.Ư liên nhiệm cao tới 90%.

Trong hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng cấp tỉnh từ năm 1978 đến năm 1981, chỉ có năm trong số 156 vị trí bí thư tỉnh ủy có sự thay đổi về nhân sự. Đến mùa xuân năm 1978, độ tuổi bình quân của 58 vị phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và bộ trưởng là 70. Thực tế này đã tạo ra một đội ngũ lãnh đạo già nua, đương chức suốt đời. Hậu quả của chế độ cán bộ này là vừa khiến cho tầng lớp lãnh đạo thiếu đi sức sống vừa dễ hình thành một lực lượng hạt nhân trong tầng lớp đặc quyền.

Xét về khách quan, chế độ cán bộ lãnh đạo suốt đời làm cho đội ngũ, tầng lớp đặc quyền không ngừng mở rộng, kéo theo sự không ngừng tăng lên cơ quan hành chính được lập ra để bố trí ngày càng nhiều cán bộ lãnh đạo. Cuối những năm 70 của thế kỷ trước, số cơ quan cấp ban, bộ trực thuộc T.Ư Đảng CS Liên Xô lên tới 20. Trong đó, đại bộ phận trùng lặp với các cơ quan của chính phủ. Thậm chí tên gọi của những ban, bộ này cũng giống hệt nhau. Như Ban Nông nghiệp, Ban Công nghiệp quốc phòng, Ban Công nghiệp nặng và năng lượng, Ban Chế tạo cơ khí, Ban Văn hóa…

Dưới thời Brezhnev, Đảng CS Liên Xô đã tạo đất cho tầng lớp đặc quyền sinh sôi, nảy nở. Nhiều cán bộ cấp cao không khỏi sửng sốt trước chế độ đãi ngộ đặc biệt mà họ được hưởng ngay sau khi được đề bạt.

Ligachev kể lại trong hồi kí rằng: Năm 1983, khi được bổ nhiệm làm Trưởng ban Tổ chức T.Ư Đảng CS Liên Xô, ngay ngày hôm sau ông đã được cấp một chiếc xe ô-tô cao cấp. Khi ông yêu cầu thay cho mình một chiếc xe đẳng cấp thấp hơn một chút, không ngờ ông bị Chánh văn phòng T.Ư Đảng phê bình lại rằng: đồng chí làm như thế là một sự đòi hỏi đặc biệt, làm mất phong độ của cơ quan. Nếu không ở trong cuộc, người ta không thể tưởng tượng được những hưởng thụ do đặc quyền mang lại.

Dưới thời Brezhnev, con cái tầng lớp đặc quyền chỉ cần dựa vào địa vị đặc quyền của bố mẹ là có thể dễ dàng được vào học tại những trường đại học tốt nhất. Sau khi tốt nghiệp lại được nhận vào các ban, ngành ưu việt nhất, đồng thời nhanh chóng được nắm giữ những cương vị quyền lực quan trọng. Thậm chí, đặc quyền còn có thể trở thành “lá bùa hộ mệnh” để cán bộ lãnh đạo mặc sức tham nhũng mà không bị cản trở. Rubanov, con rể của Brezhnev, đã dựa vào quyền thế của bố vợ, quan lộ phất như “diều gặp gió”.

Chỉ trong vòng 10 năm, ông ta đã từ một sĩ quan cấp thấp trở thành thượng tướng, sau đó được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội vụ. Trong thời gian này, ông ta đã tham ô, nhận hối lộ 650 nghìn rúp, gây ra vụ án “phò mã” chấn động cả nước. Còn Yuri, con trai Brezhnev thì được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Liên Xô khi còn rất trẻ.

Tháng 1-1982, tại sân bay Moscow, một công dân Liên Xô chuẩn bị lên máy bay ra nước ngoài du lịch, nhân viên hải quan đã tìm thấy một lượng lớn kim cương cất giấu trong chiếc túi bí mật trên người. Kết quả điều tra cho thấy, đây là sưu tập cá nhân của nữ huấn luyện viên dạy sư tử ở Rạp xiếc Trung ương. Sau đó không lâu, chuyên gia mỹ thuật và giám đốc của rạp xiếc bị bắt giữ. Người ta còn tìm thấy số kim cương trị giá khoảng 1 triệu USD và nhiều đồ vật quý giá khác tại nhà riêng của chuyên gia mỹ thuật và khoảng 500 nghìn bảng Anh cùng nhiều đồ trang sức, tác phẩm hội họa đắt tiền tại nhà riêng của giám đốc.

Đáng nói là, những thứ này đều thuộc sở hữu của Galina – con gái Brezhnev. Câu chuyện chưa dừng lại ở đó, vụ buôn lậu đồ trang sức, kim cương còn liên quan Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Yuri. Vụ việc này lẽ ra thuộc thẩm quyền của Bộ Nội vụ xử lý, nhưng sau đó lại được chuyển sang cho Ủy ban An ninh quốc gia (KGB). Trong khi Phó Chủ tịch thứ nhất của KGB là Svigun, người trực tiếp chỉ đạo vụ án này lại là anh em cọc chèo với Brezhnev. Kết quả là, câu chuyện kết thúc ở đó. Con trai Brezhnev là Yuri và con gái của ông ta là Galina vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.

Trong 17 năm giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Selokhov đã lợi dụng chức quyền, biến của công thành của tư. Ông ta không chỉ chiếm khu biệt thự cấp nhà nước lớn nhất của Bộ Nội vụ và nhà khách Bộ Nội vụ làm của riêng mà còn chiếm một tòa chung cư rất lớn ở số 24, phố Hensen. Một lượng lớn tài sản cá nhân của Selokhov và người nhà ông ta được cất giữ trong khu biệt thự cấp nhà nước và tòa chung cư này. Tại một khu biệt thự, chỉ tính thảm trải nhà đã xếp tới bảy tầng, dưới gầm giường nhét đầy những bức tranh sơn dầu của các danh họa Nga.

Từ trái qua phải: Yury Churbanov, Galina Brezhnev and Nikolai Shchelokov

Dưới thời Brezhnev, tình trạng tham nhũng tại Moscow và các nước cộng hòa thuộc Liên bang ngày càng nghiêm trọng. Năm 1980, nhân viên điều tra tình cờ mua một lô cá trích đóng hộp, sau khi mở nắp mới phát hiện bên trong đựng toàn trứng cá Cavian cực đắt. Cá trích sao lại biến thành trứng cá Cavian được?

Sau một thời gian vất vả điều tra, vụ việc đã được làm sáng tỏ. Thì ra một số quan chức Bộ Ngư nghiệp Liên Xô đã bí mật giao dịch với một công ty để họ đóng trứng cá Cavian sản xuất tại Sochi và Astrakhan vào trong những hộp dán nhãn cá trích rồi vận chuyển ra nước ngoài. Công ty phương Tây mua với giá cá trích, sau đó bán chuyển tay. Những người tham gia từ phía Liên Xô sẽ được hưởng lợi nhuận hậu hĩnh từ khoản doanh lợi kếch xù được gửi vào tài khoản ngân hàng Thuỵ Sĩ. Hành vi buôn lậu này diễn ra trong suốt 10 năm. Kết quả điều tra cho thấy, vụ án này làm Liên Xô tổn thất hàng triệu USD, hơn 300 người dính líu vụ án.

Trong đó, có những quan chức cấp cao như Thứ trưởng Ngư nghiệp, Phó Cục trưởng Sản xuất, Tiêu thụ, Quản lý ngư nghiệp cùng các cán bộ, nhân viên Bộ Ngoại thương, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Hạm đội Thái Bình Dương, rồi nhân viên cửa hàng tại Moscow và các thành phố khác. Người chịu trách nhiệm phân phối loại sản phẩm đóng hộp này là thị trưởng thành phố Sochi – Volokov, Bí thư thứ nhất Khu ủy Krasnodar trực tiếp quản hạt Sochi là Maidunov. Ông ta là người thân tín của Brezhnev. Khi được lệnh tham gia điều tra vụ án, ông ta đã ra sức bao che cho Volokov. Sau khi báo Văn học đăng tin Volokov bị bắt, Maidunov rất lo lắng, nhiều lần đã lên Moscow cầu cứu Brezhnev.

Do mức độ nghiêm trọng của vụ án, Chủ tịch KGB là Andropov đích thân báo cáo vụ việc này với Brezhnev. Trước một loạt chứng cớ rõ ràng, Brezhnev hỏi: “Theo đồng chí nên giải quyết thế nào?”. Andropov đáp: Vụ này phải đưa Maidunov ra tòa. Brezhnev bảo: Làm thế không được. Bây giờ chúng ta không có người đáng tin cậy ở Krasondur, liệu có thể tạm thời thuyên chuyển Maidunov đến nơi khác được không? Sau đó Maidunov mặc dù bị cách chức nhưng lại được điều lên Moscow làm Thứ trưởng Bộ Lương thực Thực phẩm, được sống trong một căn hộ sang trọng tại Moscow. Câu chuyện đã kết thúc một cách “êm đẹp” như thế…

Tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô trước hết là xuất phát từ chức tước. Có người cho rằng, chức tước càng cao thì đặc quyền càng nhiều, nếu muốn làm quan hoặc thăng chức thì phải lấy lòng, hối lộ các lãnh đạo liên quan. Chức tước vì thế mà có giá. Tại một số nơi, ngay cả chức bí thư đảng ủy cũng có giá. Năm 1969, chức bí thư thứ nhất của một khu ủy Azerbaijan có giá 200 nghìn rúp, bí thư thứ hai có giá 100 nghìn rúp. Hiện tượng mua quan, bán tước cũng tồn tại ở các nước cộng hoà khác trong Liên bang với các hình thức, mức độ khác nhau.

Hội nghị toàn thể tháng 2 năm 1973, TƯ Đảng Gruzia từng chỉ rõ: Trước đây, công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc của Chủ nghĩa Lenin. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo không phải căn cứ vào năng lực công tác và phẩm chất đạo đức của họ, mà dựa vào thao túng đằng sau, dựa vào quan hệ quen thân gia đình, dựa trên nguyên tắc có trung thành với cá nhân cấp trên hay không.

Để bảo vệ những lợi ích hiện có, tầng lớp đặc quyền chống lại bất cứ sự cải cách nào ảnh hưởng đến đặc quyền của mình. Bởi vậy, không thể chủ động ngăn chặn tình trạng tham nhũng đang lan tràn trong toàn Đảng, toàn xã hội. Brezhnev lạnh lùng với từ “cải tổ” rằng: Cải cái gì, cứ làm tốt công việc là được rồi.

Cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và trợ lý của ông soạn thảo một báo cáo về cải tổ kinh tế gây nên sự bất mãn và tẩy chay của một bộ phận các tầng lớp đặc quyền quan liêu. Kết quả, trợ lý của ông bị cách chức.

Tầng lớp đặc quyền đã làm tổn hại nghiêm trọng thanh danh của CNXH, tạo ra hố ngăn cách lớn trong xã hội, làm hư hỏng xã hội. Khoảng cách giữa người dân bình thường và tầng lớp đặc quyền ngày càng lớn. Trong xã hội Liên Xô, người dân bình thường tự gọi mình là “chúng ta”, còn gọi những người đặc quyền là “bọn họ”. Thế nhưng, khi nói đến tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô, chúng ta phải nhấn mạnh mấy điểm sau đây:

– Thứ nhất: Tầng lớp đặc quyền chỉ là khái niệm đặc chỉ đối với một bộ phận cực nhỏ các phần tử thoái hoá, biến chất lạm dụng chức vụ mưu lợi riêng trong đội ngũ cán bộ Đảng CS Liên Xô khi đó. Việc phương Tây gọi 600 – 700 nghìn cán bộ, đảng viên Đảng CS Liên Xô khi đó là tầng lớp đặc quyền hoàn toàn là sự tuyên truyền rắp tâm nhằm phá hoại Đảng CS Liên Xô. Nhìn chung, đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng CS Liên Xô khi đó đều là những người liêm khiết, chí công, hăng hái cống hiến. Họ kiên định đi theo con đường XHCN.

– Thứ hai: Phải phân biệt sự chênh lệch hợp lý với đặc quyền trong lĩnh vực phân phối. Khi đó, mặc dù trong nội bộ Đảng CS Liên Xô và trong xã hội Liên Xô tồn tại tầng lớp đặc quyền và hiện tượng đặc quyền nghiêm trọng, nhưng đồng thời với nó là chủ nghĩa bình quân theo kiểu “ăn chung nồi” tồn tại nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối của Liên Xô.

– Thứ ba: Không chỉ chú ý đến hiện tượng độc quyền tồn tại trong lĩnh vực phân phối mà phải chú ý đến hơn biểu hiện của hiện tượng này trong lĩnh vực khác như: xây dựng chính sách, bổ nhiệm cán bộ, uốn cong luật pháp để mưu lợi riêng cho bản thân và tập đoàn nhỏ đồng thời né tránh sự giám sát của kỷ luật Đảng và quy định pháp luật. Điều này còn nghiêm trọng hơn vì nó phá hoại mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng, dẫn đến sự thay đổi tính chất của Đảng. Căn bệnh này càng bộc lộ rõ hơn dưới thời Gorbachev.

Tham quan một biệt thự, là nơi ở cũ của của Gorbachev trước khi ông ta lên nắm quyền, chúng ta thấy như sau: Qua cửa chính là một sảnh rộng. Tầng một có ban công bọc kính và phòng chiếu phim, chiếc bàn ăn dài 10m, phòng bếp giống như một xưởng chế biến thức ăn lớn, còn có một tủ lạnh ngầm dưới đất. Trên tầng hai, đi qua sảnh lớn là tới thẳng phòng tắm nắng, văn phòng, phòng ngủ. Mọi thứ bày biện và trang trí trong tòa biệt thự đều hết sức xa xỉ. Xét về một ý nghĩa nào đó thì cuộc sống cá nhân xa hoa tột đỉnh này còn xa mới bộc lộ được bản chất cuộc sống của tầng lớp đặc quyền. Cái gọi là “cải tổ” của Gorbachev sau khi lên nắm quyền đã trở thành chất xúc tác để tầng lớp đặc quyền chuyển biến thành giai cấp tư sản mới. Sự cải tổ rùm beng là cơ hội tuyệt vời để tầng lớp đặc quyền tha hồ mưu lợi cá nhân.

Dưới thời Gorbachev, tầng lớp đặc quyền đã không còn thỏa mãn với việc theo đuổi hưởng thụ cá nhân, mà còn mong muốn chiếm hữu lâu dài mọi đặc quyền hiện có. Thậm chí còn để lại cho con cháu đời sau. Đồng thời, tầng lớp đặc quyền còn phát hiện ra rằng CNXH, lòng tin vào CNCS thường trực nơi cửa miệng và ánh hào quang đảng viên Đảng CS mà họ mang trên mình đã không còn giá trị sử dụng. Họ thấy rằng, những đặc quyền mà họ vốn có phải được thay đổi hình hài và CNTB là chế độ thích hợp nhất để hợp pháp hóa những lợi ích hiện có của họ. Đặc biệt, trong lúc Đảng CS Liên Xô và đất nước đang đứng trước nguy cơ tồn vong. Giữ vững lợi ích đặc biệt của mình và hợp pháp hoá chúng, tầng lớp đặc quyền đã không ngần ngại lột bỏ mặt nạ, công khai thúc đẩy vứt bỏ CNXH đi theo con đường của CNTB, tư hữu hoá toàn diện.

Trong thời gian này, tầng lớp đặc quyền lợi dụng quyền lực đang nắm trong tay để ra sức vơ vét, làm giàu cho bản thân. Nhất là các vị quan kinh tế trực tiếp quản lý tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Họ lợi dụng sự hỗn loạn về thương mại hoá, thị trường hoá, kinh tế tự do hoá do Gorbachev tiến hành để làm một cuộc lật bài kinh tế, trực tiếp chiếm đoạt tài sản nhà nước thành tài sản riêng. Có kẻ thực hiện các cuộc giao dịch giữa quyền – tiền để có những ưu đãi và quota xuất khẩu nguyên liệu và vũ khí, bòn rút tài sản xã hội. Có kẻ thu siêu lợi trong các cuộc giao dịch chứng khoán, hàng hóa trả chậm rồi thành lập ngân hàng và các cơ quan tài chính khác. Một bộ phận thiểu số đó, sau này, trở thành những ông trùm tài chính mới.

Năm 1991, trong số hàng vạn triệu phú ở Moscow, đại bộ phận nguyên là những cán bộ làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền. Kết quả điều tra tiến hàng trong tháng 6 năm đó cho thấy, trong tầng lớp cán bộ cao cấp Liên Xô có tới 76,7 % số người cho rằng nên đi theo con đường tư bản. Chính những kẻ gọi là đảng viên Đảng CS này đã làm cách mạng bằng cách “cách đi cái mạng của Đảng CS Liên Xô”. Bọn họ không chỉ vơ vét cho đầy túi tham mà còn tiếp tục nắm giữ những cương vị cao, kiểm soát quyền lực của nhà nước.

Nước Nga sau khi Liên Xô sụp đổ, ngoại trừ một số ít nhân vật ngự trên đỉnh ngọn kim tự tháp quyền lực, còn lại một phần cán bộ biến thành những “quý nhân” của nước Nga. Họ chiếm 75% số quan chức bên cạnh tân tổng thống; 57,1% trong số lãnh tụ những chính đảng mới và 73,4 % trong số những quan chức của chính phủ mới.

Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ David Code có một câu nói có thể gọi là “đúng tim đen”: Đảng CS Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu trong tang lễ của chính mình. Trước khi Đảng CS Liên Xô sụp đổ không lâu đã có một cuộc điều tra dân ý về chủ đề: “Đảng CS Liên Xô đại diện cho ai?”. Kết quả là, số người cho rằng Đảng CS Liên Xô đại diện cho nhân dân Liên Xô chiếm 7%, đại diện cho công nhân chiếm 4%, đại diện cho toàn thể đảng viên chiếm 11%. Trong khi đó, có tới 85% số người được hỏi cho rằng: Đảng CS Liên Xô đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước.

Sự hình thành và phát triển của tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài. Trong giai đoạn này, những kẻ tham nhũng lộ liễu hay lén lút đều tham lam chiếm đoạt tài sản nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân. Trong khi đó, đối với tầng lớp đặc quyền, Đảng CS Liên Xô đã đi từ chỗ ít ngăn chặn đến không tấn công, rồi bao che, thậm chí dung túng, khiến cho khối u ác tính này phát triển và lây lan nhanh chóng trên chính cơ thể của mình.

Khi Đảng CS Liên Xô đã bị khối u ác tính làm cho thối rữa, biến chất thì bản thân nó bị nhân dân phỉ nhổ.

@ TuanVN

——————————————————————————————————————————————————————————————-

Thư ngỏ gửi Trần Mạnh Hảo

ĐỒNG MẾN GỬI CÁC CÂY VIẾT ĐỒNG TÂM, ĐỒNG TRÍ, ĐỒNG TÀI NHƯNG KHÔNG ĐỒNG “GAN CÓC TÍA” NHƯ HẢO

Từ hôm Hảo đi đại hội (còng số) 8 về mà không bị còng tay tại chỗ, tớ cứ mong được đón tiếp Hảo để nghe Live mọi chuyện lí thú xảy ra tại cái đại hội mà hôm Hảo lên đường, tớ không biết để khuyên nhủ Hảo: “gửi bài tham luận đi khắp thế  giới thế là quá đủ rồi, việc quái gì phải đi ra Hà Nội nữa.!” Nhỡ ra…., do bản tham luận (mang nhiều tính chất chính trị hơn văn học) của Hảo sẽ đưa tới một hậu quả xấu nhất cho Hảo. Tớ vội gọi điện ra ngoài ấy để góp ý cho Hảo:

1) Chắc chắn là bản tham luận, do đã được phổ biến quá sớm, nhất là trên các trang mạng của các  “lực lượng thù địch” thì không đời nào họ cho đọc rồi. Hảo cũng đồng ý với tớ là chuyện này sẽ xảy ra nhưng… không sao.

2) Hết sức bình tĩnh, chớ để bị khiêu khích, bị kích động mà người ta có thể lấy cớ khác để lên án, xử tội Hảo trước khi bị bắt ra toà. Hảo cũng trả lời: “Ông anh cứ yên chí !”

Vậy mà lại xảy ra quá nhiều vấn đề tại chỗ. Nào Hảo bị … cắt micro, nào vạch trần tài văn-hoạ-nhạc kịch-báo” của trung tướng Hữu Ước đường đường trên ghế chủ tịch đoàn để đến nỗi ông ta xếp Hảo vào loại…. Lý Tống! Mặc dù Hảo chỉ “xịt hơi cay” bằng lời chứ không bằng một ống spray cụ thể như Lý Tống xịt vào mặt Mr. Đàm (bị “bom-bác-đê” thành lãnh tụ thanh niên cộng sản?!)

Sau đó, trở về Sài Gòn an toàn, không bị xảy ra tai nạn xe cộ hay uống phải chai nước giải khát nào đó mà lăn đùng ra chết tại chỗ (hay về nhà vài tháng mới chết), Hảo lại còn lên mạng tiếp tục viết những bài “Goodbye (Farewell thì đúng hơn)  Hội nhà văn bịp- bịt… mồm”. Lại thêm một bài chẳng ra thơ ra thẹo, chẳng ra kí ra kẹo, chẳng ra bình luận bình lẹo oánh thẳng vào ông trung tướng chủ tịch đoàn H .Ư, đồng thời trả lời phỏng vấn một loạt đài “thù địch”. Thế là, tớ bắt đầu hiểu ra vì sao về SG cả tuần rồi Hảo đã chẳng dám bước chân ra khỏi cửa. Tớ không tin là cả nhà Hảo đang “khóc lóc thảm thiết như ri”, “đang lo vãi đái” như Hảo đã viết và tung lên trên mạng. Nhưng tớ tin rằng đi ra khỏi nhà lúc này là không có lợi cho tính mạng của Hảo chút nào đâu. Thôi thì tớ đành mượn bức thư ngỏ này tâm sự đôi điều với Hảo và với những ai cũng nung nấu trong lòng nỗi uất ức vì vừa viết văn, vừa lo phải đi tù thậm chí đi tù không phải vì chuyện viết văn mà là chuyện “chống phá cách mạng”, “nói xấu lãnh đạo” (dù lãnh đạo nào đó thật cực cực xấu) thậm chí vì những tội  vu vơ như buôn lậu, trốn thuế , gây thương tích cho người khác v.v…v.v

Trước tiên, tớ phải nói với Hảo rằng: Cậu xứng danh là bậc đàn anh của tớ mặc dầu tớ hơn cậu 20 tuổi. Vì ở cái tuổi của cậu, tớ vẫn còn mang nặng nỗi “Sợ” của cụ Nguyễn truyền cho mỗi khi nghĩ đến những vụ án “nhân văn giai phẩm” “xét lại xét đi”, những vụ “đi tù không án” mút mùa chỉ vì một bài báo như Phùng Cung với “Con voi già của chúa Trịnh”  hay Tuân Nguyễn  với  một cuốn sổ tay ghi chép (những gì đến giờ vẫn không ai biết), bị ăn cắp. Tớ lại thương cho các ông Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại,… bị mang đủ tội danh đáng lên máy chém của Toà án và đáng buồn nôn hơn là của ngay các “cây bút cơ hội”, bước lên xác người để tiến lên “đài vinh quang” mà ngày nay nhờ Internet, lớp trẻ và  hậu thế ngàn đời sẽ còn đọc được qua kho lưu trữ của cả ngàn trang web khắp thế giới mà rùng mình, buồn nôn cho một thời “Chân, Thiện, Mỹ” bị ám sát! .

Tớ cũng nghĩ lại: quá trình đấu tranh cho 4 chữ tự do sáng tác bao giờ cũng xuất phát từ Hội của các cậu, chứ còn mấy cái hội như Hội xướng ca (có loài) của tớ, hay các hội kệch sĩ, nhiếp sĩ, điện ảnh sĩ… thì chẳng bao giờ có được một tiếng nói phản biện bất cứ cái gì, bất cứ ai, bất cứ thời điểm nào! Ở Hội tớ cũng có vài anh tham gia nhân văn giai phẩm. Nhưng chẳng ai  “bị” gì như mấy  bố nhà văn, thậm chí sau này “cải tạo khéo” còn được giải thưởng Hồ Chí Minh,  giải thưởng nhà nước, còn được phong giáo nọ, sư kia. Trái lại, Hội các cậu luôn là cái Hội “đứng mũi chịu sào”, là một cái Hội “khó bảo nhất”. Từ bài “Hiện thực phải đạo” của  Hoàng Ngọc Hiến gây sốc, cho đến những bản tham luận đại hội VII của các cậu như “Nỗi niềm tác phẩm đỉnh cao” của Hoàng Quốc Hải hoặc “Về mối quan hệ giữa Tự Đức và Nguyễn Du” hay là “Vấn đề muôn thuở của tự do sáng tác” của Trần Mạnh Hảo tại đại hội lần thứ 7 cho đến các bài viết hoặc tham luận không được đọc mà chỉ công bố trên mạng gần đây của hàng loạt các nhà văn trẻ (với tớ), quả thực các cậu không phải chỉ hơn tớ một cái đầu mà hơn tớ cũng như khối anh văn nghệ sĩ khác ở cả trái tim và… buồng gan nữa. Đặc biệt cái Hội nhà văn, nếu tớ không nhầm, trong số 922 hội viên có tới hơn 600 đảng viên thì quả là chuyện của đất nước này xưa nay hiếm. Té ra càng phức tạp càng cần có nhiều đảng viên hay sao?

Tớ thật ngạc nhiên khi các “website và blog có uy tín” của các nhà văn hàng ngày tung ra mọi điều mà hơn 700 tờ báo lề phải chưa bao giờ được phép nói, hoặc mới cầm bản thảo trong tay đã run như cầy sấy!. Gần đây, tớ đặc biệt chú ý tới bài viết  của Lê Hoài Nguyên tức Thái Kế Toại, đại tá công an phụ trách A25 với đầu đề rất sốc: “Nhân Văn- Giai Phẩm, một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học không thành”, trong đó ông đề cao cái bọn bị coi là  “Phản đảng, phản tổ quốc” và phủ nhận mọi thứ  “vu oan giá hoạ” cho những người này khi họ chỉ đòi hỏi có một điều: được tự do tư tưởng, tự do sáng tác. Tớ cũng rất thích thú với những bài bình luận, những “ngâm khúc” của  Phạm Viết Đào, Nguyễn Xuân Diện, Trương Duy Nhất… và đặc biệt phục lăn những mẩu “hồi kí vụn” của Nguyễn Quang Lập. Chỉ với vài trang kể chuyện “Bà bán nước cửa Viện văn học”, Lập đã kể lai một cách mỉa mai, sâu độc quá trình hình thành cái Viện mà “chỉ có bà bán nước và một viện sỹ  là chưa được làm tiến sĩ”! Riêng chuyện “Xóm gái hoang”, Lập đã  miêu tả một cách hấp dẫn và “ê-rô-tích” cái hiện thực đau buồn của một thời mà số phận con người ở nông thôn đều nằm ở trong tay những kẻ ngu dốt, nhân danh nãnh đạo, nhân danh Đảng, đã giết người dân quê cả về thể xác lẫn tinh thần như thế nào. Lập đã bóc trần cái nghề của chúng tớ: Làm… nhạc sĩ! Qua nhân vật “nhạc sĩ Tinh Tuý”, Lập đã vạch trần cái “nghề dễ làm nhất và dễ nổi danh nhất trong nghề văn nghệ”! Đó là làm… nhạc sỹ! Nó phản ảnh thực trạng của rất, rất nhiều nhạc sĩ mà “một nốt nhạc bẻ làm đôi” không biết! cũng như văn sĩ mù chữ  “nói cho người khác chấp bút”, nhạc sỹ nước ta khối anh, chị đố ghi nổi một bài chính tả âm nhạc kể cả bài của mình ề a ra. Tớ bảo đảm là có thật 105 phần trăm! Nói sai chết liền!

Tớ cũng rất cảm phục tất cả những trang web, blog đã công bố “hộ” những bài viết, những tuyên bố của các nhà văn, nhà báo không có điều kiện (thiếu hiểu biết về computer hoặc hiểu biết quá nhiều về computer nên bị… tịch thu, bị niêm phong) như các trang Web Trần Nhương, blog Nguyễn Trọng Tạo đã không sợ “dính líu” mà đưa lên mạng những bài viết đầy dũng cảm như bài của Bùi Minh Quốc tuyên bố về “Hậu Đại Hôi Nhà Văn 8″  đằng đằng nghĩa khí… đặc biệt là Tuyên bố ly khai và thành lập những “tổ chức nhà văn mới” không lệ thuộc vào tiền của Đảng-Nhà Nước, được cả nhiều nhà văn – đảng viên ký tên hưởng ứng….
Điều tớ càng ngạc nhiên là chính nhờ các trang web, blog này mà các ý kiến của Trần Mạnh Hảo, Bùi Minh Quốc, Hà Sỹ Phu…. được cả thế giới biết sớm nghĩa là họ làm tổng biên tâp những tờ báo, những Nhà Xuất Bản tư nhân không cần lề phải, lề trái gì, cứ thênh thang giữa đường mà đi! “Cóc sợ chi mô”. (văn phong N.Q.Lập).

Tóm lại, so với thời u60, u70 của tớ thì Hảo cùng các bạn đã làm được nhiều, quá nhiều cho một nền văn nghệ đích thực! Không đến nỗi sau này, con cháu đọc bất cứ cái gì của các cậu  cũng phải thốt lên 2 tiếng “Nhạt!” “Hèn!” hoặc “Nói láo!”


Tuy nhiên, là một người đã trên nửa thế kỉ mang tiếng là “Kĩ sư tâm hồn”, nhưng cuối đời kiểm điểm lại, tớ thấy đúng như Nguyễn Khải nói “chỉ còn lại là một mớ táp nham chẳng có một xu giá trị nghệ thuật” nay thời thế cho phép, muốn làm một “cái gì đó” thì sức tàn, lực kiệt. Chỉ trông chờ vào bọn cậu hãy nghe dại tớ: Hãy dán trước bàn làm việc của mình khẩu hiệu: “Chỉ có sự thật mới cứu rỗi được văn chương” Ở dưới dán thêm một khẩu hiệu nữa ” Đảng chấp nhận mọi tìm tòi, mọi khuynh hướng” “Trích lời tuyên bố của ông Trương Tấn Sang, uỷ viên bộ chính trị,  bí thư thường trực ban bí thư phát biểu tại đại hội nhà văn lần VIII”  rồi… ngồi xuống hoặc dùng chữ của Lê Đạt ,”phục xuống mà sáng tác!” . Hãy viết đi! Hãy nuốt mọi uất ức mà làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài…  thoải mái sáng tạo, tìm tòi. Thực tế đang ngồn ngộn trước mắt đang xốn xang trong lòng ….Chẳng phải đi đâu xa. Quá khứ, lịch sử đang có bao lỗ hổng, lỗ đen cần phải có những tác phẩm như  kiểu “Thời của thánh thần”, “Dòng sông mía” làm sống lại, lấp đầy lại như nó đã có… Nhất là từ nay, với sự khuyến khích công khai của ông T.T.S (lạy trời ông được như một nửa Gorbachev), chắc chắn  các ngòi bút như Hảo, như Bùi Minh Quốc, như Nguyễn Duy  và nhiều người khác sẽ được cởi trói lần thứ hai, miễn là ông Sang chẳng giống ông Linh, “Nói hay nhưng để…phủi tay về vườn”!

Hãy làm một Tạ Văn Sỹ, người “thi sĩ -xe ôm”, hàng ngày vẫn có thể làm những bài thơ đầy cảm xúc mà vẫn chạy xe ôm nuôi bốn đứa con và một vợ không vì sợ đói mà bẻ cong ngòi bút. (xem blog Nguyễn Trọng Tạo)

Thôi! STOP cái miệng và và START cái tay, cái đầu và con tim! Viết và viết thật mạnh, thật sắc, thật…THẬT!. Ai cũng nghĩ và viết được như Hảo kêu gào, van xin, lẽ nào  tác phẩm “xứng với tầm thời đại” sẽ  chẳng ùn ùn xuất hiện và giải Nobel về văn chương lẽ nào lại không tới với các cậu. Hơn thế nữa, các cậu sẽ làm gương cho “các bậc đàn anh còn xót lại trong rừng dối” hãy mau mau sám hối, ít nhất là kể lại đời mình đã phải viết theo ý người khác như thế nào, đã phạm tội, đã “mặt tôi nửa xanh nửa đỏ”, đã “dây rợ buộc mình”, đã “dối trá, lừa lọc, đã ác động”, “đã ú ớ” trước “người thương binh còn sống sót sau cái vụ 3000 chiến binh xuống núi còn lại dăm ba người. Người chiến binh toàn đọc những câu thơ hô xung phong, giờ đây,”ngực đầy huân chương, ngồi bán nước không nuôi nổi đàn con mình…” (trích Nguyễn đình Thi và Chế lan Viên). Được thế, dù chỉ là một bài thơ, một mẩu ký ức nhỏ… Văn Học Việt Nam  sẽ, chẳng phải mời hội nghị, hội thảo cũng khối nền văn học khắp thế giới tranh nhau xin dịch ra tiếng Mỹ, tiếng Pháp, tiếng Tây, và có khi cả đến tiếng Tầu nữa cũng nên!.

T-B  Chúc Hảo mạnh khoẻ, tỉnh táo, viết bạo, viết nhiều. Không cần đến thăm tớ như đã hứa. Tớ không giận đâu!

Blog Tô Hải

——————————————————————————————————————————————————————————————-

“Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông Nam Á” chỉ có lợi khi…

Ngọc Trân và Trân Văn, thông tín viên RFA

Kể từ khi Trung Quốc gia tăng những hoạt động nhằm xác lập chủ quyền tại khu vực biển Nam Trung Hoa – tên quốc tế cho vùng biển mà Việt Nam gọi là biển Đông, người ta bắt đầu bàn đến vấn đề “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông”.

Vì sao cần “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông”? Việt Nam phải làm gì để có thể đạt được lợi ích tốt nhất cho mình khi tham gia vào tiến trình này?

Đây sẽ là chủ đề chính của cuộc thảo luận giữa Trân Văn và Ngọc Trân với hai nhà nghiên cứu, một đang sống tại Việt Nam là ông Đinh Kim Phúc – chuyên nghiên cứu lịch sử Việt Nam, làm việc tại Khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM, và một đang cư trú tại Hoa Kỳ là ông Lê Xuân Khoa – từng là Viện phó Viện Đại học Sài Gòn, sau đó nghiên cứu và giảng dạy về quan hệ quốc tế tại Đại học Johns Hopkins.


Cơ hội đi kèm thách thức

Trân Văn: Thưa các ông, các tranh chấp về chủ quyền ở biển Đông càng ngày càng có vẻ nghiêm trọng cả về tính chất, lẫn mức độ tác động của chúng đến cục diện chính trị không chỉ riêng ở khu vực Đông Nam Á.

Có lẽ đây là lý do chính khiến càng ngày càng nhiều người đề cập đến ý tưởng “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông”.

Với những gì đã diễn ra trên thực tế, một số người cho rằng, “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông” sẽ vừa là thách thức, vừa là cơ hội của Việt Nam . Các ông có nghĩ như thế không?
Ông Đinh Kim Phúc: Theo tôi, bước đầu chúng ta nên thống nhất tên gọi biển Đông là biển Đông Nam Á.

Ở đây có hai vấn đề: Trước nhất, sự thách thức là bắt nguồn từ tham vọng truyền thống của Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á. Hiện nay vì luận cứ và luận chứng của họ yếu nên họ không muốn nói chuyện đa phương để giải quyết việc tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa nói riêng và khu vực biển Đông Nam Á nói chung. Trung Quốc chỉ muốn đàm phán song phương, với mục đích sử dụng lợi thế của một nước lớn, mặc cả và gây sức ép với từng nước nhỏ đang tranh chấp.

Mặc dù việc tranh chấp liên quan đến nhiều nước trong khu vực, nhưng các nước không hợp lại với nhau thành một khối để có tiếng nói chung trong vấn đề tranh chấp.

Còn cơ hội là Việt Nam, các nước Đông Nam Á và đa số cường quốc trên thế giới đều có chung một quyền lợi chiến lược ở khu vực này là an ninh khu vực và tự do hàng hải theo thông lệ quốc tế.

Mỹ đã lên tiếng ủng hộ quan điểm quốc tế hóa biển Đông của các nước đang tranh chấp, qua bài phát biểu của bà Clinton, Ngoại trưởng Mỹ tại Diễn đàn Khu vực ASEAN cuối tháng 7 vừa qua.

Ngọc Trân: Còn ông Lê Xuân Khoa, thưa ông, ông nghĩ thế nào về vấn đề mà chúng tôi vừa nêu?

Ông Lê Xuân Khoa: Trong cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, tôi muốn nói đến cơ hội cho Việt Nam trước khi nói đến thách thức.

Đây là cơ hội vô cùng thuận lợi cho Việt Nam vì tại diễn đàn ASEAN hồi tháng bảy vừa qua, Hoa Kỳ và các nước ASEAN đều phát biểu quan điểm chung là cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông cần phải được giải quyết một cách hòa bình trên căn bản đa phương và tôn trọng luật lệ quốc tế về lưu thông hàng hải.

Quan điểm chung này ngăn chặn chính sách “chia để trị” của Trung Quốc đối với các nước Đông Nam Á bằng những cuộc thảo luận song phương, vừa mua chuộc vừa đe dọa với từng nước, để rồi sau hết sẽ thống lĩnh toàn thể khu vực. “Quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông không những chỉ giúp cho Việt Nam thoát ra khỏi hiểm họa Trung Quốc mà còn giúp cho các nước ASEAN vì không nước nào muốn thấy Trung Quốc dùng Việt Nam làm bàn đạp để thực hiện tham vọng bành trướng chủ quyền trong khu vực. Vì vậy các nước ASEAN sẽ càng phải đoàn kết và hậu thuẫn mạnh mẽ cho Việt Nam.

Bây giờ nói đến thách thức thì đây là thách thức đối với chính quyền Việt Nam, vì cho đến rất gần đây chính quyền Việt Nam vẫn cho thấy sự thiên lệch, có thể nói là lệ thuộc, của họ đối với Trung Quốc nhằm bảo vệ quyền lực và quyền lợi của Đảng và chế độ.
Trước thái độ ngang ngược và lấn tới của Trung Quốc, những khẩu hiệu “bốn tốt” và “mười sáu chữ vàng” đã trở thành trò hề, và nguy cơ mất nước đã trở nên quá hiển nhiên, Đảng và Nhà Nước cần phải chọn giải pháp “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông, thay đổi chính sách lệ thuộc đối với Trung Quốc, thay đổi chính sách đối nội tức là từ bỏ chế độ độc tài toàn trị và thực hiện tiến trình dân chủ hóa. Liệu Đảng và Nhà nước có đủ quyết tâm và dũng cảm chấp nhận thách thức này và biến nó thành cơ hội để cứu nước và tự cứu mình hay không?
Tại sao nên thay đổi cách gọi biển Đông?

Trân Văn: Thưa ông Phúc, hình như ông không phải là người đầu tiên đề nghị thay đổi cách gọi biển Đông thành biển Đông Nam Á. Đề nghị thay đổi cách gọi biển Đông của học giới hình như là một phần của nỗ lực chung trong cuộc vận động “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông”. Ông có thể giải thích thêm vì sao cần thay đổi cách gọi biển Đông không?

Ông Đinh Kim Phúc: Tôi nghĩ, mặc dù tên gọi không phản ánh chủ quyền quốc gia theo những quy định của luật pháp quốc tế, nhưng tên gọi biển Nam Trung Hoa hiện đang được Trung Quốc sử dụng như một vũ khí để đánh lừa dư luận quốc tế.

Việc đề nghị đổi tên biển Nam Trung Hoa thành biển Đông Nam Á một mặt để đấu tranh chống lại cái gọi là “miền Đông Hải của Trung Quốc”, mặc khác nó cũng thể hiện ý chí hòa bình và hữu nghị giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Ông Lê Xuân Khoa: Tôi đồng ý với câu trả lời của ông Đinh Kim Phúc. Tôi muốn nhận xét thêm rằng việc đổi tên biển sẽ không được đặt thành vấn đề nếu Trung Quốc không lạm dụng tên Biển Nam Trung Hoa để đòi hỏi chủ quyền của họ.

Việc một quốc gia dùng tên nước của họ để đặt tên cho vùng biển kế cận chỉ là một cách thuận tiện để ấn định vị trí địa lý chứ không phải để xác nhận chủ quyền. Như vậy, Biển Nam Trung Hoa chỉ có nghĩa là vùng biển ở phía Nam của Trung Hoa, cũng như Biển Đông Việt Nam chỉ có nghĩa là vùng biển ở phía Đông của Việt Nam.

Từ xưa đến nay giữa hai nước không có vấn đề tranh chấp vì những tên gọi như vậy, cho đến gần đây khi Trung Quốc thấy có cơ hội bành trướng trong khu vực đã tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn thể vùng biển tiếp giáp tất cả các nước Đông Nam Á.
Việc Trung Quốc đòi chủ quyền trên Biển Nam Trung Hoa không thể được quốc tế chấp nhận, vì như vậy, Ấn Độ cũng có thể đòi hỏi chủ quyền của nước họ trên toàn thể Ấn Độ Dương, hay ít ra cũng trên hai vùng biển tiếp giáp với bờ biển phía Đông và phía Tây của Ấn Độ, gây tranh chấp với một số các quốc gia Đông Nam Á và một số các quốc gia Trung Đông và Phi châu.

Bởi thế, để vô hiệu hóa đòi hỏi phi lý của Trung Quốc, cần chính danh hóa vùng biển phía Nam của Trung Quốc và phía Đông của Việt Nam bằng tên đúng của nó là Biển Đông Nam Á. Giới học giả Việt Nam và ngoại quốc đã đưa ra đề nghị đổi tên Biển Nam Trung Hoa thành Biển Đông Nam Á từ mấy chục năm nay rồi.

Trong tranh chấp về chủ quyền ở biển Đông Nam Á, khi Trung Quốc hơn hẳn cả về thế lẫn lực, lúc “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông Nam Á” trở thành một cơ hội để Việt Nam có thể tận dụng, nhằm bảo vệ hữu hiệu chủ quyền của mình ở vùng biển phía Đông, Việt Nam cần làm những gì để có thể đạt được lợi ích tốt nhất cho mình nếu tranh chấp được quốc tế hóa? Đó sẽ là nội dung được chúng tôi nêu ra để thảo luận với các ông Đinh Kim Phúc, Lê Xuân Khoa trong lần phát thanh tới, mời quý vị đón nghe.

Lần trước, trong cuộc trò chuyện giữa Trân Văn và Ngọc Trân với ông Đinh Kim Phúc – chuyên nghiên cứu lịch sử Việt Nam, làm việc tại Khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM và ông Lê Xuân Khoa – từng là Viện phó Viện Đại học Sài Gòn, sau đó nghiên cứu và giảng dạy về quan hệ quốc tế tại Đại học Johns Hopkins, qúy vị đã nghe ông Phúc và ông Khoa trình bày vì sao cần “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, cũng như nếu tham gia tiến trình này, Việt Nam có thể được gì và phải đối diện với những thách thức nào.

Lần này, Trân Văn và Ngọc Trân tiếp tục thảo luận với ông Đinh Kim Phúc và ông Lê Xuân Khoa về một vấn đề khác, đó là làm sao để có thể đạt được sự đồng thuận nơi người Việt, nhằm tạo ra sự hậu thuẫn, giúp Việt Nam đạt được lợi ích tốt nhất khi các tranh chấp ở biển Đông Nam Á được quốc tế hóa.

Cần đồng thuận nhưng làm gì để đạt đồng thuận?

Ngọc Trân: “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á” sẽ là một tiến trình liên quan đến nhiều bên. Trong tiến trình đó, chắc chắn là từng bên sẽ có những mục tiêu riêng phù hợp với lợi ích của riêng mình.

Điều này tạo ra mâu thuẫn có tính tất nhiên là làm sao có thể vừa đạt được lợi ích riêng, vừa tạo ra được sự ủng hộ của nhiều bên có liên quan.

Riêng với trường hợp Việt Nam, ngoài yếu tố chính quyền phải có chính sách đối ngoại khôn khéo, linh hoạt, thực tế còn cho thấy là khi đã xác định cần phải “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông”, không thể không quan tâm đến sự ủng hộ của người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam.

Tiếc là trong thời gian vừa qua, chính quyền Việt Nam chưa tạo được niềm tin, vốn là tiền đề của sự hậu thuẫn cho nỗ lực “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam. Nhiều người vẫn có cảm giác rằng, chính sách đối ngoại của chính quyền Việt Nam vẫn chỉ nhắm đến lợi ích riêng của đảng cầm quyền, chứ chưa xem lợi ích lâu dài của dân tộc là ưu tiên tối thượng.

Theo các ông, chính quyền Việt Nam cần làm gì để tạo ra được niềm tin và sự hậu thuẫn của mọi người Việt?

Trân Văn: Có lẽ ông Đinh Kim Phúc trả lời câu hỏi này trước sẽ hợp lý hơn. Thưa ông Phúc, ông thấy thế nào?

Đinh Kim Phúc: Tôi không nghĩ rằng chính sách đối ngoại của nhà nước Việt Nam chỉ là phục vụ cho đảng cầm quyền vì Việt Nam là một nước nhỏ và đang sống đan xen trong quyền lợi của các nước lớn nên bước đi phải thận trọng.

Để tạo niềm tin đối với người dân, theo tôi nhà nước Việt Nam cần phải đẩy nhanh hơn nữa việc “quốc tế hóa, dân tộc hóa, công khai hóa và phi nhạy cảm hóa” trong vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông Nam Á.

Không nên ngăn cản các học giả tự do tự do nghiên cứu. Không nên định hướng các nghiên cứu, vì như thế sẽ không cho ra kết quả chính xác, trung thực.

Nên tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các học giả, trí thức trong và ngoài nước nghiên cứu, đóng góp tiếng nói chung để bảo vệ chủ quyền đất nước. Việc thạc sĩ Hoàng Việt của Đại học Luật TP.HCM không được tạo điều kiện để tham gia hội thảo hè ở Đại học Temple vừa qua là điều nên không có.

Vì sao một đất nước hơn 80 triệu dân, mà các hội thảo quan trọng liên quan đến chủ quyền quốc gia như Hội thảo hè 2010 tại Đại họcTemple vừa qua, ngoài những người đại diện cho nhà nước, không có nhiều học giả trong nước tham gia? Phải chăng giới học giả, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã không còn quan tâm tới chủ quyền quốc gia? Nếu đúng như vậy thì thật là nguy hiểm cho dân tộc.

Ngọc Trân: Thưa ông Khoa, ông có muốn góp thêm ý kiến nào vào vấn đề này không ạ?

Ông Lê Xuân Khoa: Quốc tế hóa tranh chấp ở Biển Đông Nam Á sẽ không tạo ra mâu thuẫn giữa lợi ích riêng của mỗi nước và lợi ích chung của các nước liên quan, nếu tất cả các nước liên quan đều chấp nhận rằng quốc tế hóa vấn đề Biển Đông là giải pháp tối ưu và duy nhất có thể ngăn chặn được hiểm họa Trung Quốc. Ở đây, cần phân biệt chủ quyền ở Hoàng Sa là vấn đề riêng giữa Việt Nam và Trung Quốc, với chủ quyền ở Trường Sa là vấn đề liên quan đến một số quốc gia Đông Nam Á.

Vấn đề chủ quyền ở Trường Sa rất phức tạp, đòi hỏi những bằng chứng lịch sử vững chắc và được giải quyết trên cơ sở Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Tôi không chuyên nghiên cứu về mặt này nhưng đã được đọc những tài liệu cho thấy rằng chính sử Trung Quốc không có bằng cớ gì chứng minh được Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Chính sử Trung Quốc cho đến đời nhà Thanh cũng đều ghi cương vực của Trung Quốc chấm dứt ở Đảo Hải Nam. Ngoài ra, việc Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974 là một hành động vi phạm trắng trợn Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, vấn đề Trường Sa rắc rối hơn nhiều vì ngoài Trung Quốc và Đài Loan, mấy nước ASEAN như Mã Lai, Phi-líp-pin, Brunei, Nam Dương đều có liên quan, chưa kể đến những tuyên bố chủ quyền của Pháp và Anh trên một số đảo ở Trường Sa từ trên dưới 100 năm trước.

Lãnh đạo các nước ASEAN cần tạm ngưng tranh chấp với nhau và giao cho các chuyên gia tiếp tục nghiên cứu các để án giải quyết. Ưu tiên trước mắt là thống nhất lập trường phủ nhận đường lưỡi bò của Trung Quốc và đối thoại đa phương với Trung Quốc trên căn bản chung sống hòa bình, hợp tác và phát triển.

Về việc chính quyền cần phải làm gì để tạo được niềm tin và sự hậu thuẫn của người Việt cả ở trong lẫn ngoài nước cho những cuộc thương thuyết có lợi nhất cho Việt Nam, thì tôi đã nói đến khi trả lời câu hỏi về vấn đề thách thức và cơ hội cho chính quyền Việt Nam. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng đây là “thời cơ vàng” cho lãnh đạo Việt Nam xoay chuyển tình thế từ bất lợi sang thuận lợi, vừa có hậu thuẫn của quốc tế vừa tạo được niềm tin của nhân dân trong nước và cộng đồng hải ngoại. Muốn như vậy, chính quyền phải từ bỏ chế độ độc tài toàn trị, thực thi những quyền tự do căn bản cho nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân để thương thuyết với Trung Quốc, và đón nhận sự hợp tác của trí thức trong và ngoài nước trong các quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại.

Trân Văn: Vừa rồi, ý kiến của ông Phúc gợi ra nơi tôi một thắc mắc, mong ông giải đáp, đó là ông có đề cập đến sự nguy hiểm do thờ ơ. Một số người không gọi sự thờ ơ ấy là nguy hiểm, họ bảo đấy là đại họa cho tương lai của dân tộc.

Là một người nghiên cứu về biển Đông Nam Á và theo dõi sát các diễn biến có liên quan đến khu vực này nói riêng cũng như chủ quyền quốc gia nói chung, theo ông, đâu là các dấu hiệu của đại họa?

Ông Đinh Kim Phúc: Theo tôi, khi người dân thờ ơ với chủ quyền quốc gia, dân tộc, và giới học giả, nghiên cứu, trí thức quay lưng lại với đất nước do các trở ngại nào đó… Một khi nhà nước lo không nổi, người dân thờ ơ, trí thức thì quay lưng, ngoảnh mặt…đấy sẽ là đại họa cho dân tộc.

Học giới cũng cần ngồi lại với nhau

Trân Văn: Trên thực tế thì những diễn biến liên quan đến biển Đông nói riêng, rồi quan hệ Việt – Trung, tương quan giữa thế và lực của Việt Nam, của Trung Quốc trong khu vực nói riêng, trên thế giới nói chung, đã cũng như đang khiến người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam thực sự lo âu.

Sự âu lo này khiến nhiều người cảm thấy cần phải làm gì đó trong việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Ngoài các nỗ lực cá nhân, còn có sự ra đời của nhiều nhóm. Tuy có những khác biệt nhất định về cách thức, thậm chí là về quan điểm song các cá nhân và nhóm đều cùng hướng đến mục tiêu là khơi dậy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm, củng cố chứng cứ, luận cứ về chủ quyền.
Riêng trong lĩnh vực củng cố chứng cứ, luận cứ về chủ quyền, có một thực tế không thể không quan tâm là những nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông của học giới người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam có vẻ còn chủ quan, phiến diện.

Ngọc Trân: Tôi thấy sự chủ quan, phiến diện này, một phần là do tâm cảm, phần khác quan trọng hơn là vì tư liệu, tài liệu phân tán. Ở hội thảo hè do giới nghiên cứu người Việt vừa tổ chức tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Giao cho biết, tại Pháp, hiện có nhiều tài liệu gốc liên quan đến chủ quyền của Việt Nam chưa được khai thác. Tiến sĩ Vũ Quang Việt thì đề cập đến tình trạng Việt Nam chưa nghiên cứu kỹ các châu bản triều Nguyễn..

Ai cũng biết, trong tiến trình “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, Việt Nam chỉ có thể đạt được lợi ích lớn nhất nếu có chứng cứ vững chắc về mặt lịch sử và xác lập được luận cứ phù hợp về công pháp quốc tế. Tuy nhiên do tư liệu, tài liệu phân tán, học giới Việt Nam đã và hiện có những mâu thuẫn lớn trong biện giải về chủ quyèn lãnh thổ. Có lẽ chỉ có thể giải quyết được tình trạng này khi học giới Việt Nam, ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam chia sẻ cho nhau cả về tư liệu lẫn quan điểm.

Theo các ông, làm sao để học giới Việt Nam trên khắp thế giới có thể cùng thảo luận với nhau, thuyết phục được nhau trước khi thuyết phục thiên hạ?

Ông Đinh Kim Phúc: Đầu tiên cần nhấn mạnh về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa là quyền phát hiện, chiếm hữu và khai thác liên tục có hiệu quả phải thuộc về nhà nước. Vấn đề đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia là việc của nhà nước. Nhưng nhà nước có việc của nhà nước, các nhà khoa học có việc của các nhà khoa học và người dân có việc của người dân, miễn sao phải có sự đồng thuận trên – dưới, trong – ngoài.

Theo tôi, trong tình hình hiện nay, các học giả phải ngồi lại với nhau, để sang một bên vấn đề ý thức hệ để thống nhất hướng nghiên cứu, tập trung mọi khả năng tìm ra những tư liệu mới để củng cố quan điểm của Việt Nam . Để đạt được điều này chính phủ Việt Nam phải là người tổ chức và tập hợp.

Ông Lê Xuân Khoa: Quả thật, học giới Việt Nam trong và ngoài nước, dù là cá nhân hay nhóm, đều đang nỗ lực tìm kiếm chứng cứ và củng cố luận cứ về chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng đúng là do nguồn tài liệu khác nhau, các học giả Việt Nam đã có những luận giải khác nhau, có khi mâu thuẫn với nhau về chủ quyền trên các đảo này.

Ý thức được điều này, học giới Việt Nam đã có những trao đổi cả về tư liệu lẫn quan điểm, nhưng còn giới hạn giữa những cá nhân hay nhóm quen biết nhau từ trước. Muốn đạt được sự đồng thuận về giá trị của tư liệu và sự vững chắc của quan điểm, cần có những cuộc trao đổi rộng rãi hơn qua những cuộc hội thảo trên mạng lưới điện tử, hay hội thảo trực tiếp tại hội trường.

Cuộc hội thảo của học giới Việt Nam tại Đại học Temple ở Philadelphia cuối tháng Bảy vừa qua là một thí dụ minh chứng cho những trao đổi cần thiết này. Chỉ tiếc là số học giả trong nước tham gia quá ít, vì gặp khó khăn trong việc xin phép chính quyền. Cụ thể là trường hợp thạc sĩ Hoàng Việt thuộc Đại học Luật TP.HCM được ông Phúc nói đến hồi nãy là đã “không được tạo điều kiện để tham gia”.

Tôi và nhiều người khác đều nhận được tin tức là luật gia Hoàng Việt đã bị chính bà hiệu trưởng không cho phép và đe dọa mặc dù ông đâ có giấy giới thiệu của Bô Ngoại giao ở Hà Nội. Trường hợp lạm quyền này nếu xảy ra ở một nước dân chủ thì chắc chắn chính bà hiệu trưởng sẽ bị kỷ luật và có thể mất việc.

Những bài tham luận trong cuộc hội thảo Philadelphia đều là những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học mà chính quyền cần tham khảo để hoạch định chính sách về Biển Đông Nam Á. Thí dụ nhà nghiên cứu Hồ Bạch Thảo đã phản bác tửng điểm một trong tập tài liệu đồ sộ của học giả Trung Quốc Hàn Chấn Hoa, vạch rõ những sai lầm, ngụy biện và gian trá của họ Hàn nhằm chứng minh chủ quyền của Trung Quốc ở “Nam Hải chư đảo”.

Tôi được biết sau cuộc hội thảo này, Tiến sĩ Vũ Quang Việt đã bổ sung và hoàn tất bản dự thảo của ông thành một tài liệu nghiên cứu gần 100 trang về cuộc tranh chấp Biển Đông Nam Á, vừa được ông công bố trên trang mạng Thời Đại Mới. Đây là một đóng góp quan trọng cho những nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế.

Đến đây thì cuộc hội luận giữa chúng tôi với các ông: Đinh Kim Phúc, Lê Xuân Khoa chuyển sang phần cuối cùng, đó là nếu như chính quyền Việt Nam thật sự muốn đạt được sự đồng thuận làm hậu thuẫn cho tiến trình “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam thì họ phải làm gì trước. Nội dung phần cuối của cuộc hội luận này sẽ được giới thiệu trong lần phát thanh tới, mời qúy vị đón nghe…


Nếu muốn tiến trình “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á” diễn tiến theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam, chính quyền Việt Nam cần phải làm gì trước?

Trong cuộc hội luận giữa Trân Văn và Ngọc Trân, các ông: Đinh Kim Phúc – chuyên nghiên cứu lịch sử Việt Nam, làm việc tại Khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM và ông Lê Xuân Khoa – từng là Viện phó Viện Đại học Sài Gòn, sau đó nghiên cứu và giảng dạy về quan hệ quốc tế tại Đại học Johns Hopkins, đã trình bày những suy nghĩ có liên quan đến vấn đề “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông”, các điều kiện để đạt được sự đồng thuận làm hậu thuẫn về chứng cứ, luận cứ, dư luận.

Mời quý vị xem phần cuối của cuộc hội luận này…
Hỗ trợ học giới: Chuyện cần mà chưa làm

Ngọc Trân: Vì các ông đề cập đến việc phối hợp nghiên cứu giữa học giới trong và ngoài Việt Nam nên xin nêu thêm một thắc mắc khác, đó là hình như đa số nghiên cứu của học giới người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam thường mới chỉ ngừng lại ở mức nói cho nhau nghe. Hầu hết các công trình nghiên cứu mang tính học thuật, liên quan đến chủ quyền Việt Nam của học giới người Việt chỉ nhằm giới thiệu với độc giả người Việt.

Tại sao các công trình nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông Nam Á không được công bố với học giới nước ngoài để phản biện lại các luận cứ của Trung Quốc. Chắc ông cũng biết là Trung Quốc đầu tư rất sâu và làm rất tốt điều này?

Ông Đinh Kim Phúc: Chính phủ nên tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức trong và ngoài nước nghiên cứu, ngoài việc chủ động lập ra các tổ chức nghiên cứu mang tính quốc tế để phản biện lại các quan điểm của Trung Quốc mà phía Việt Nam cho là không đúng.

Các tổ chức tư nhân cũng như chính phủ nên đưa các nghiên cứu của mình ra áp dụng, chẳng hạn như sử dụng các kết quả nghiên cứu để phản bác lại các quan điểm phía Trung Quốc đưa ra.

Nếu không làm được điều này thì rất khó phản biện lại các quan điểm không đúng của Trung Quốc. Và hệ quả cuả nó là gì? Có lẽ Tân Cương, Tây Tạng sẽ là một hình ảnh không xa với dân tộc Việt Nam.
Trân Văn: Ông Lê Xuân Khoa có muốn chia sẻ gì thêm về vấn đề này không ạ?

Ông Lê Xuân Khoa: Trong cuộc hội thảo Philadelphia, chính tôi là người phát biểu nhận xét rằng hầu hết công trình nghiên cứu và đề nghị của học giới trong và ngoài nước về chủ quyền Việt Nam chỉ là viết cho nhau đọc và nói cho nhau nghe. Nhưng mục đích của tôi qua nhận xét ấy không nhằm vào sự cần thiết phải công bố với học giới nước ngoài để phản biện lại các luận điểm của Trung Quốc mà muốn nhấn mạnh vào một mục đích khác cũng rất quan trọng là những tư liệu và ý kiến của học giới Việt Nam phải được sự chú ý của những người làm chính sách ở trong nước và các nước liên quan.

Tôi không biết người ở trong nước có thể làm cách nào để ảnh hưởng tới các quyết định của nhà cầm quyền, nhưng ở nước ngoài như ở Mỹ thì tiếng nói của người dân, đặc biệt là của giới trí thức thì có thể tới được nhà cầm quyền, ngay cả Tổng thống bằng nhiều ngả, trực tiếp bằng thư tín hoặc gián tiếp qua báo chí và quốc hội. Những đóng góp của học giới Việt Nam cần phải được viết bằng tiếng Anh hay dịch sang tiếng Anh thì mới có thể lôi cuốn được sự chú ý của học giới và báo giới ngoại quốc, và của những nhà làm chính sách ở Mỹ và các nước khác.
Chính quyền phải “dễ hiểu” hơn

Trân Văn: Tôi lại có một câu hỏi nữa mong ông Phúc giải đáp. Đó là ở phần trước của cuộc trò chuyện này, ông cho rằng, trong những vấn đề có liên quan đến biển Đông Nam Á, chính sách đối ngoại của Việt Nam không đơn thuần chỉ phục vụ cho lợi ích của đảng cầm quyền.

Chúng tôi cũng thấy rằng, vì thế và lực của Việt Nam như thế, đồng thời vì biển Đông Nam Á là khu vực có sự đan xen quyền lợi của các nước lớn nên mọi bước đi đúng là cần phải thận trọng. Tuy nhiên, thận trọng tới mức phải gọi Trung Quốc là “nước ngoài” một cách chung chung, gọi tàu Trung Quốc là “tàu lạ”, chỉ trích những hành vi ngang ngược của Trung Quốc, kêu gọi minh định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa lại bị xem là “bị các thế lực thù địch, phản động kích động” thì sự thận trọng đó trở thành khó hiểu.

Ông có thể giải thích vì sao sự thận trọng lẽ ra rất cần thiết lại trở thành khó hiểu như vậy hay không?
Ông Đinh Kim Phúc: Tôi hiểu những vấn đề mà anh đặt ra, điều đó đúng là tâm trạng của nhiều người. Nhưng tôi cũng hiểu được những khó khăn của nhà nước Việt Nam hiện nay trong việc ứng xử đối với những vấn đề liên quan đến biển Đông Nam Á. Dù sao cũng phải giữ mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc vì Việt Nam là một nước nhỏ mà lịch sử đã chỉ ra nhiều bài học kinh nghiệm trong quan hệ với Trung Quốc.

Mặt khác, việc nghiên cứu về mối quan hệ đa chiều trong vấn đề biển Đông Nam Á không phải ai cũng biết tường tận, nhưng quan điểm của tôi là phải tôn trọng sự thật lịch sử, bên cạnh đó, tôi nghĩ những người có trách nhiệm phải thấy được những gì đang diễn ra và người dân phải được quyền biết sự thật trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.

Với tôi, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ là trên hết. Tôi tin nhà nước Việt Nam cũng nghĩ như thế. Tại sao các anh không trực tiếp nêu những câu hỏi này với nhà nước? Không có thông tin rõ ràng, không có thái độ đúng mực thì không thể có niềm tin. Thiếu tin cậy thì khó đồng thuận, mà không đồng thuận thì chắc chắn khó đoàn kết. Tôi nghĩ nhà nước Việt Nam đã thấy được điều đó.

Ngọc Trân: Còn ông, thưa ông Lê Xuân Khoa, ông nghĩ thế nào ạ?

Ông Lê Xuân Khoa: Để bảo vệ độc lập, chủ quyền và duy trì sự tồn tại của nòi giống Lạc Hồng, tổ tiên người Việt Nam đã áp dụng nhu đạo vào cả hai lãnh vực quân sự và ngoại giao để đối phó với láng giềng khổng lồ phương Bắc. Nói cách khác, các vua chúa đời trước chống sức mạnh của giặc ngoại xâm không bằng sự đối đầu mà bằng mưu trí, khi thắng trận thì dùng lời lẽ khôn khéo để không làm cho kẻ địch bị mất mặt.

Trong thế giới ngày nay, nếu chính quyền Việt Nam muốn giao hảo thân thiện với các nước lớn và tránh đụng độ về quân sự thì cũng đúng với truyền thống dân tộc sinh tồn bằng nhu đạo của tổ tiên. Nhưng như vậy thì phải giữ được sự cân bằng trong cách đối xử, không được thiên vị chỉ vì muốn duy trì độc quyền cai trị nhân dân và bảo vệ đặc quyền đặc lợi.

Trong 20 năm qua, chính quyền Việt Nam đã thiên về phía Trung Quốc vì lợi ích riêng tư ấy. Tuy nhiên, trước thái độ lấn át trắng trợn của Trung Quốc đưa đến nguy cơ mất nước, lãnh đạo Việt Nam có vẻ muốn dựa vào thế quốc tế để lấy lại thế quân bình với Trung Quốc.

Ông Đinh Kim Phúc tin là nhà nước Việt Nam cũng đặt độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ lên trên hết. Ông nhắc nhở Đài Á châu Tự do nên trực tiếp đặt câu hỏi với nhà nước để có được thông tin rõ ràng và từ đó có thể có niềm tin và đồng thuận dân tộc. Tôi đề nghị Đài Á châu Tự do nên tìm cách phỏng vấn các nhà lãnh đạo Việt Nam trong những ngày tháng sắp tới.

Trân Văn: Xin cám ơn ông Đinh Kim Phúc và ông Lê Xuân Khoa.

@RFA

——————————————————————————————————————————————————————————