Tư Liệu: Chân dung tướng Nguyễn Đức Nhanh, Giám đốc Công an Hà Nội

Quantcast

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Kính gửi:
– Đ/c Bộ trưởng Lê Hồng Anh
– Đ/c Bí thư Thành uỷ Phạm Quang Nghị
– Đ/c Chủ nhiệm UBKT Trung ương
– Các đ/c Thứ trưởng Bộ Công an
– Đ/c Chủ tịch UBND Hà Nội

Nguyễn Đức Nhanh,
Giám đốc Công an Hà Nội

Thưa các đồng chí lãnh đạo,

Tôi là Nguyễn Tiến, hiện đang công tác tại Công an Hà Nội. Với gần 30 chục năm thâm niên công tác, tôi đã trải qua nhiều đời giám đốc, chứng kiến nhiều chuyện buồn vui của Công an Hà Nội. Nhưng có một sự thật tôi xin mạnh dạn trình bày với các đồng chí lãnh đạo là chưa bao giờ Công an Hà Nội lại nát như hiện nay và người gây ra tình trạng này chính là ông Nguyễn Đức Nhanh, giám đốc Công an Hà Nội.

Trước đây, việc chạy chức, chạy quyền cũng đã xảy ra trong Công an Hà Nội nhưng chưa mang tính chất phổ biến. Nhưng từ khi ông Nguyễn Đức Nhanh lên làm giám đốc thì việc chạy chức, chạy quyền đã trở thành phổ biến, đương nhiên, với bất kỳ ai muốn lên giữ vị trí lãnh đạo, dù nhỏ nhất là phó công an phường. Việc bổ nhiệm, luân chuyển đều do ông Nhanh quyết định hết. Các đồng chí Phó giám đốc đều không có vai trò gì. Nhiều trường hợp, ông Nhanh nhận tiền chạy chức, chạy quyền rồi, nhưng bị dư luận Công an Hà Nội không đồng tình, vì số cán bộ đó đã từng bị kỷ luật, ông Nhanh lại lấy danh cấp trên để lấn át, như: “trường hợp này, anh Út, anh Ba, anh Bốn… ở Bộ và Bí thư, chủ tịch TP đã đồng ý rồi” hoặc “trường hợp này do anh Út, anh Ba, anh Bốn… ở Bộ, đ/c Bí thư, chủ tịch TP giới thiệu”. Thủ đoạn này của ông Nhanh ảnh hưởng xấu đến các đ/c lãnh đạo, nhất là những ai không hiểu thủ đoạn, con người thật của ông Nhanh.

Gần đây, ông Nhanh đang dùng chính sách luân chuyển cán bộ đê rung doạ buộc mọi người phải chạy để lấy tiền; đồng thời tạo cớ để đệ tử người Hà Tây cũ (ông Nhanh là người Hà Tây) nắm giữ những chức vụ quan trọng của Công an Hà Nội. Có đồng chí đang làm trưởng một đơn vị ổn định, phát huy năng lực tốt, ông Nhanh điều sang đơn vị khác để tạo điều kiện cho đàn em lên. Ông Hải, Trưởng phòng cảnh sát giao thông đang làm thủ tục nghỉ hưu, thấy có nhiều người muốn vào vị trí lãnh đạo này, ông Nguyễn Đức Nhanh thông qua một số đệ tử bắn tin ra giá, ai muốn lên trưởng phòng cảnh sát giao thông thì phải nộp 1 triệu đô la. Đã có người nộp 1 triệu đô và đã được ông Nhanh chấm chọn làm trưởng phòng cảnh sát giao thông (đương nhiên, sau khi lên chức họ sẽ tìm mọi cách thu hồi lại số tiền đã đổ ra và đó chính là nguyên nhân gây ra tiêu cực, sách nhiễu nhân dân). Mọi nguồn tiền chạy chức, chạy quyền đều đổ về gia đình ông Nguyễn Đức Nhanh.

Đám cưới con trai ông Nguyễn Đức Nhanh cũng là đám cưới kỳ cục, sặc mùi xã hội đen nhất từ trước đến nay. Ngoài việc tổ chức linh đình diễn ra 03 ngày liền vói lượng khách lên đến mấy nghìn người, ông Nhanh còn sai mấy đệ tử là những tên trùm xã hội đen (chơi với ông Nhanh từ khi ông ta còn là trưởng phòng cảnh sát điều tra) cầm thiệp mời đến gặp những tên có máu mặt trong giới xã hội đen, trùm buôn lậu, đòi nợ thuê, bảo kê nói là ông Nhanh mời nhưng yêu cầu không được đến dự đám cưới. Mời cưới mà không cho đến dự đám cưới thì chỉ có là yêu cầu nộp tiền, gọi là “mừng vọng cháu”. Trung bình mỗi phong bì “mừng vọng cháu” này không dưới 3000 USD. Nhiều tiền nên con trai ông Nhanh (Nguyễn Đức Quang) đã trở thành tay chơi khét tiếng Hà Nội (chỉ cần lên mạng Internet gõ Nguyễn Đức Quang thì sẽ có nhiều bài, ảnh phản ánh việc ăn chơi của Nguyễn Đức Quang).

Xin khẳng định rằng, gia trưởng, độc đoán, ông Nhanh không kém đàn anh đi trước, nhưng nịnh hót, lưu manh thì đàn anh, đàn chị đI trước gọi ông Nhanh là sư phụ.

Thưa các đồng chí lãnh đạo, những việc ông Nguyễn Đức Nhanh làm đã và đang làm nhức nhối Công an Hà Nội. Người dân không tin vào Công an Hà Nội. Cán bộ, chiến sỹ không tin vào lãnh đạo Công an TP. Hà Nội. Vì vậy, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo cần có những biện pháp chấn chỉnh, củng cố lại Công an Hà Nội:

* Uỷ ban kiểm tra Trung ương kiểm tra toàn diện về ông Nhanh
* Cách chức giám đốc, điều chuyển ông Nguyễn Đức Nhanh về Văn phòng Bộ hoặc Viện chiến lược.
* Bổ nhiệm người có tài, đức làm giám đốc Công an Hà Nội. Tốt nhất là chọn đồng chí ở các Cục, Tổng cục để không dính dáng gì đến các tiêu cực trước đây của Công an Hà Nội.
* Các đồng chí lãnh đạo Bộ cần làm việc với Ban giám đốc Công an Hà Nội để có những biện pháp loại bỏ hoàn toàn hiện tượng chạy chức, chạy quyền hiện nay.

Các đồng chí lãnh đạo cứ khách quan kiểm tra, xử lý, nhưng xin đừng tiết lộ tên tôi.

Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo!

Hà Nội, ngày 11 tháng 4 năm 2009
Nguyễn Tiến

Nguồn: Ý Kiến


Những bài viết của tiến sỹ Đỗ Xuân Thọ

BẢN TỰ KIỂM ĐIỂM

Ngày: Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2010, 2:59

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đảng Bộ Viện KH&CN GTVT
Chi bộ Viện CN Cầu-Hầm

Tên tôi là Đỗ Xuân Thọ, đảng viên hiện đang sinh hoạt tại chi bộ Viện Chuyên Ngành Cầu Hầm thuộc Đảng bộ Viện Khoa học và Công nghệ GTVT. Sau khi đọc xong thông báo số 02/TB-CBCH ngày 15 tháng 4 năm 2010 của chi bộ Cầu Hầm tôi xin trình bầy một số ý kiến sau đây:

Chi bộ khẳng định rằng những ý kiến và quan điểm của tôi trong lá thư gửi BCH TƯ ĐCSVN và cuộc trả lời phỏng vấn của tôi với đài RFA là trái với tư tưởng Mác-Lênin, trái với cương lĩnh chính trị và điều lệ Đảng. Tuy nhiên tôi thấy rằng toàn bộ TƯ ĐCSVN đã phản bội lại chủ nghĩa Mác-Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng  khi cho đảng viên làm kinh tế tư nhân, tôn vinh những nhà Tư sản.cho các lễ hội dân tộc mê tín dị đoan phát triển v.v…sao không đem ra kỷ luật trước đã

Thôi mà, với tất cả sự chân thành, tôi khuyên các đồng chí hãy nhìn thẳng vào sự thật và nhận ra những điều tôi viết trong thư là đúng. Nếu bắt tôi kiểm điểm, tôi sẽ dễ dàng chứng minh TBT Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng  là những tên PHẢN BỘI lại CN Mác-Lênin  còn tệ hại hơn Khơ-rút-xôp ở Liên xô cũ…

Thật sự đã đến lúc cần thay con ngựa, già ốm yêu , bệnh tật- CN Mác-Lênin bằng một con rồng hùng mạnh có khả năng quy tụ tất cả sức mạnh của con cháu vua Hùng đó là CN Dân tộc rồi các đồng chí ạ….

Thọ lại khóc rồi vì những người đồng đội xưa đang bắn vào nhau…..

Người viết

Đỗ Xuân Thọ

Thư gửi Ban Biên Tập Báo Quân Đội Nhân Dân

Kính gửi ban biên tập báo Quân đội Nhân dân,

Tên tôi là Đỗ Xuân Thọ, người đã viết bức thư từ đáy lòng đối với Đảng, nay được tranh luận với ông Đỗ Phú Thọ.

Trong bài: “Tiếp tục hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN” của ông Đỗ Phú Thọ đăng trên tờ Quân đội Nhân dân ngày 26/4/2010 ở mục “Làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình” ông ta cho rằng mô hình này là một mô hình chưa từng có ở đâu, rằng đây là sự sáng tạo tuyệt vời của Đảng CSVN (mà thực chất là của ban Tư tưởng Văn hóa TƯ).

Thưa ông, ông hãy nhìn sang các nước Tư bản, những quỹ cho người thất nghiệp lớn biết chừng nào… Ở một số nước, học sinh, sinh viên còn không mất tiền học… quỹ dành cho người nghèo lúc nào cũng có… Chỉ những người chỉ biết Mác biết Lênin như ông mới tưởng rằng cái mô hình mà các ông đánh cắp của các nước Tư bản rôi gắn cho nó một cái mác XHCN là mới mẻ, là sáng tạo!!! Thật nực cười!!! Tôi nói nó quái gở là vì nó khoác cái tên ĐỊNH HƯỚNG XHCN để lừa dân nhưng thực chất nó là NỀN KINH TẾ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA!!! Nó quái gở còn ở chỗ ở các nước Tư bản, tiền đóng thuế của nhân dân và tiền nhà nước nhân danh nhân dân đi vay của nước ngoài đều được công khai, minh bạch với toàn dân, còn bằng cái “Định hướng XHCN” của các ông thì đến đại biểu quốc hội còn nắm mù mờ chứ đừng nói đến dân!!! Đây chính là môi trường cho lũ quan tham nhũng vơ tiền vào túi!!!! Sau này con cháu chúng ta sẽ è cổ ra trả nợ như Hy Lạp bây giờ.

Thôi mà, chính các ông cũng biết cái mô hình này nó mang tên giả… Đảng đã nói dối làm sao ngăn được các cháu học sinh nói dối… rồi cả dân tộc nói dối… Tôi đau lòng lắm… Nếu cứ ĐỊNH HƯỚNG XHCN u u minh minh thế này thì tiền vay của nước ngoài, 1/4 rơi vào túi một số kẻ đại diện cho cái mô hình này. Sau này con cháu ta trả nợ chúng sẽ chửi cả Đảng, cả Bác Hồ… Thôi mà hãy vất ngay cái CNXH đi!!! Và thay vào đó là CN Dân tộc!!!! Đừng vì các ông đã chọn CN Mác-Lênin làm nghiệp sống của mình mà bắt cả Đảng này bị những đứa con cháu đời sau chửi rủa… Tôi mà như các ông tôi sẽ chuyển sang nghiên cứu Triết học Phương Đông hoặc nếu không có khả năng thì đi bán lòng lợn tiết canh chứ quyết không lừa trẻ con người già.

Kính thư,

Đỗ Xuân Thọ

Tháng Tư và chuyện thuyền ra cửa biển

Tưởng Năng Tiến
Bây giờ, sau khi bước ra biển lớn, kiểm điểm lại cũng chỉ thấy duới thuyền không có ai khác – ngoài những kẻ cầm quyền, cùng với hành lý, thân nhân và gia nhân của họ. Thuyền càng đi xa, khoảng cách giàu nghèo (rõ ràng) càng rộng. Ông bạn Lê Diễn Đức gọi đó là sự đểu cáng thời vươn ra biển lớn. Phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để đổi lấy sự … đểu cáng như thế thì (đ… mẹ) không chửi thề sao được.

Ông Trần Văn Hương là một chính khách rất tài tử, và cũng rất mờ nhạt, trên chính trường. Không mấy ai biết rằng ông đã từng giữ những chức vụ như Thủ Tướng, Phó Tổng Thống, và Tổng Thống trong thời Đệ II Cộng Hoà – ở miền Nam Việt Nam.

Dân chúng ở miền đất này thường chỉ nhớ đến Trần Văn Hương như một người lập dị. Ổng hay đi làm bằng xe đạp trong thời gian là Ðô Trưởng Sài Gòn, và thỉnh thoảng lại nghĩ ra những câu thơ (hơi) kỳ cục – thí dụ như:

Ngồi buồn gãi háng, dái lăn tăn…

Ở miền Bắc Việt Nam phần lớn quí vị chính khách đều hành nghề cách mạng một cách bền bỉ, liên lỉ và chuyên nghiệp hơn nhiều. Họ cũng sính chuyện thơ văn hơn, và cách họ làm thơ (hoặc viết văn) cũng gây lôi thôi phiền phức nhiều hơn – cho cả đống người.

Khi ngồi buồn, họ không gãi háng. Lúc rảnh rỗi, họ cũng không chịu viết văn hay làm thơ chỉ để đọc chơi thôi. Văn thơ của họ khiến cho cả nước phải bận lòng, và không ít người phải bỏ mẹ hay bỏ mạng! Xin đơn cử một thí dụ, một câu thơ nổi tiếng hơn, của một chính khách tăm tiếng (và tai tiếng) hơn nhiều:

Bỗng nghe vần thắng vút lên cao…

Nói theo ngôn ngữ của binh pháp thì tác giả câu thơ vừa dẫn, ông Hồ Chí Minh, là một người cư an tư nguy. Ông Trần Văn Hương thì ngược lại. Ổng cư nguy tư an. Nói cách khác, và nói theo kiểu miền Nam, là thằng chả lè phè hết biết luôn!

Nghiêm túc, khẩn trương, hiếu thắng và hiếu chiến… không phải là quan niệm sống riêng của ông Hồ. Thi đua lập chiến công dâng Đảng, đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào, một người làm việc bằng hai, nghiêng đồng cho nước chẩy ra ngoài… là lệnh của “trên” đưa xuống và bắt buộc nửa nước phải (triệt để) tuân hành.

Lè phè cũng không phải là thái độ sống chỉ có nơi ông Trần Văn Hương. Ðó là cung cách chung của hầu hết người dân miền Nam. Sự khác biệt giữa ông Trần Văn Hương và dân chúng, có chăng, chỉ là mức độ mà thôi.

Không mấy người dân miền Nam, lúc buồn, chịu ngồi gãi háng (suông) như ông Tổng Thống. Thường, họ vừa gãi háng vừa nhậu lai rai vài xị cho vui – nếu là đàn ông. Họ đánh tứ sắc, đi coi cải luơng, hoặc đi cầm đồ để mua sầu riêng ăn chơi cho đỡ ghiền – nếu là đàn bà, ở đô thị. Ði Hồng Kông hay Nhựt Bổn mua đồ lót và son phấn, nếu là bà lớn. Ði buôn lậu (không chừng) nếu là ông lớn. Và chơi tạt lon, thả diều, đá banh, đá bóng, đá dế, đá cầu, đá kiện, đá cá lia thia hay lắc bầu cua cá cọp – nếu là con nít, ở thành phố.

Chuyện đánh đấm là “chuyện riêng” của một giới người, tụi lính. Hứng chịu bom đạn, tai ương của chiến tranh là nỗi bất hạnh riêng của một số người khác nữa – đám nông dân.

Những chiến dịch hay phong trào hoàn thành kế hoạch nhỏ, nhi đồng cứu quốc, thay trời làm mưa, quyết tâm thu hoạch vượt chỉ tiêu vụ này vụ nọ… nếu phát động ở miền Nam (e) sẽ không có người tham gia, và tác giả của chúng – chắc chắn – sẽ bị dân chúng cũng như báo chí chửi cho… tắt bếp!

Chuyện Nam – Bắc đánh nhau kết thúc ra sao, vào ngày 30 tháng tư năm 1975, mọi người đều rõ. Viết thêm nửa chữ cũng thừa.

Cuộc chiến tàn. Theo sự hứa hẹn của quí vị lãnh tụ (của phe thắng trận) thì từ đây ta sẽ xây dựng đất nước gấp muời lần hơn, ta cũng sẽ đi tắt đón đầu nhân loại, và ta sẽ chuyển đổi từ ăn no mặc ấm qua ăn sang mặc đẹp…

Chuyện dân Việt ăn mặc (sang trọng và đẹp đẽ) ra sao để từ từ rồi tính tới nhưng riêng về cách họ dùng lon, thay gáo, uống nước thì ngó bộ quá tốn công và rất… cầu kỳ – theo như ghi nhận của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:

“Lần về phép này Bá có thêm một thứ quà đặc biệt văn minh khác: Những vỏ đồ hộp nước giải khát các loại. Các mầu xanh, đỏ, hồng, da cam, vàng, lon Heineken, lon Coca Cola, Pepsi Cola, những lon Tiger, San-Miguel, những lon nước ngọt đã uống cạn mà trong những lần xuống tầu đi nước ngoài anh lượm được cho vào túi ni lông mang về…”

“Anh Vận chọn ra những vỏ đẹp nhất, mỗi loại một chiếc, không móp, không méo, đem ra giếng súc rửa sạch rồi bầy vào tủ. Và nhặt bốn vỏ lon khác, mỗi chiếc một mầu bảo lũ trẻ con mài trên nền xi măng trong nhà. Mấy đứa trẻ lao vào mài theo đúng hướng dẫn của anh. Tiếng sào sạo sạo sạo ghê người. Chẳng mấy chốc, cái nắp hộp rời ra. Anh xếp bốn chiếc vỏ hộp lên bàn, nở nụ cười mãn nguyện:
– Làm cốc uống nước…

“Những chiếc vỏ hộp trên bàn, trong tủ, những dấu vết ấy của văn minh làm nhà anh cứ sáng trưng lên, khác hẳn mọi nhà chung quanh. Nhà anh đã có hơi hướm của một thế giới khác, một thời đại khác khi các nhà chung quanh vẫn còn đang triền miên thời làm nương, thời lúa nước. Và đến khi lũ trẻ được thoải mái chơi nghịch những vỏ lon còn lại mới thật tưng bừng. Đúng là một ngày hội…” (Bùi Ngọc Tấn. Biển Và Chim Bói Cá. Hội Nhà Văn. Hà Nội: 2008, 436 – 437).

Điều kiện sống, cũng như niềm vui “tưng bừng” trong “ngày hội” của dân Việt, như vừa được mô tả – dường như – có làm cho một số người cảm thấy bất an, hoặc không được hài lòng cho lắm. Tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá (trong một buổi hội thảo, do công ty Nhã Nam tổ chức, vào ngày 20 tháng 3 năm 2009) đã được “bình” và “phê” như sau:

“… chi tiết rất quan trọng trong tiểu thuyết. Nhưng đưa quá nhiều chi tiết mà chưa được tổ chức một cách chặt chẽ như Bùi Ngọc Tấn, theo anh không hẳn đã là một thành công. Thanh Sơn cũng nhấn mạnh, sự ngồn ngộn của chi tiết khiến độc giả rất khó đọc, rất mệt để đọc đến những dòng cuối cùng.”

Có lẽ, người ta chỉ cảm thấy bớt mệt (và thở phào nhẹ nhõm) khi Hà Linh – người viết bài tường thuật thượng dẫn – cho biết thêm rằng “Biển và chim bói cá lấy bối cảnh thời bao cấp.” Đó là một thời đã qua.

Thiệt là mừng hết lớn!

Lịch sử đã sang trang. Chuyện cầu cạnh, bon chen, cậy cục, vay muợn, chạy chọt cho có cơ hội được bước xuống tầu viễn dương – làm một chuyến viễn du – đi đến những chân trời xa lạ (để mang về những cái chai và lon.. rỗng) không còn phải là… đặc quyền của riêng một giới người nào nữa.

Hai muơi năm sau, kể từ lúc “Đảng dũng cảm và quyết tâm đổi mới,” vào năm 2006, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng còn lớn tiếng hô hào toàn dân “hãy bước ra biển lớn.” Mệnh lệnh của ông đã khiến cho dư luận (hết sức) xôn xao và (vô cùng) phấn khích – trong một thời gian rất dài – qua diễn đàn Vươn Ra Biển Lớn, trên Tuổi Trẻ Online.

Rồi vài năm sau nữa, sau khi thuyền (đã) ra cửa biển, cuộc sống – xem chừng – cũng không khác trước là bao. Hãy thử đọc một đoạn văn khác, của một ngòi viết khác, về sinh hoạt của một vùng đất khác – ở Việt Nam – bây giờ:

“Cả bản xôn xao khi thấy người lạ xuất hiện. Đám trẻ con hầu hết không quần áo, hoặc trên mình chỉ mang một trong hai thứ, mặt mày chúng trông bẩn thỉu, lem luốc và chi chít vết ruồi vàng bọ chó cắn…”

“Tôi hỏi thăm đường đến nhà mấy giáo viên cắm bản, nhưng chẳng có ai biết nói tiếng Kinh cả. Nhìn về phía cuối bản, tôi bỗng thấy một lá cờ đỏ bay phấp phới, đoán rằng đấy chắc là khu vực lớp học, tôi lại nặng nề lê bước về phía đó.”

“Mấy thầy cô giáo thấy tôi xuất hiện, họ không khỏi ngỡ ngàng. Với họ, sự xuất hiện của người Kinh ở bản biên giới này hình như hiếm lắm… Có lẽ cuộc sống người dân tộc La Hủ ở Pa Ủ cũng đơn giản như chính những ngôi nhà mái tranh vách phên của họ. Đơn giản đến lo ngại như những liếp phên cứ rung lên bần bật bởi gió rừng.”

“Ở những túp lều bé nhỏ đến chật chội vì quá đông người đó, mỗi nơi lại có một câu chuyện về hoàn cảnh và những số phận con người. Cuộc sống của mỗi gia đình ngày hai bữa sáng, tối phải lót dạ một cách dè dặt với canh sắn, ngô đồ, còn măng và rau sắn thì dường như ngự trị bữa ăn…, để có một nồi cơm độn sắn cũng hết sức khó khăn! (“Thương Lắm Những Búp Non Ở Trên Cành,” Mạnh Hà, phóng viên TTXVN tại Lai Châu).

– Thôi chết mẹ! Vậy là khi tầu hạ thủy – vì lu bu nhiều chuyện quá – Đảng và Nhà Nuớc đã quên (hú) những người dân ở miền sâu, miền xa, miền rừng núi mất rồi. Đúng không?

– Dạ, thưa không! Cả đống còn đang đứng (lóng ngóng) trên bờ, chớ đâu có riêng chi mấy đám dân thiểu số.

Trong một cuộc chất vấn dành cho những đại biểu quốc hội (đọc được ở vnexpress.net vào hôm 17 tháng 11 năm 2007) Bộ Trưởng Nông Nghiệp Cao Đức Phát cho biết ở thôn quê “vẫn còn hàng trăm nghìn đồng bào chỉ được ăn cơm khi ngày lễ, ngày tết, khi bị ốm!”

Như vậy là đám nông dân, ở miền xuôi, cũng bị bỏ lại luôn!

– Họ đông quá nên mang theo (e) quá tải chăng?

– Thế còn đám thị dân?

RFA, nghe được vào hôm 23 tháng 3 năm 2009, có bài tường thuật như sau:

“Số liệu của Bộ Lao Động-Thương Binh-Xã Hội hồi cuối tuần qua cho hay người mất việc làm của cả nước do khủng hoảng kinh tế hiện vào khoảng trên 2 triệu.”

“Đánh giá của giới chuyên gia kinh tế cho rằng con số thật sự còn cao hơn nhiều, vì thống kê của Bộ không kể những người thất nghiệp trong các lãnh vực không chính thức tại thành phố như bán hàng rong và chạy xe thuê…”

“Ít tuần trước, Hiệp Hội Các Làng Nghề Việt Nam cảnh báo là ngày càng có thêm lao động trong ngành thủ công nghệ bị mất việc làm và khoảng 5 triệu nhân công ngành này đang phải đối diện với nguy cơ thất nghiệp nội trong năm nay.”

Chỉ có đám công nhân viên nhà nước ở thành thị là khỏi lo thất nghiệp. Họ chỉ lo không biết xoay sở ra sao để có thể sống lương thiện với đồng lương (tượng trưng) như hiện tại.

Nói tóm lại – và vẫn nói theo kiểu miền Nam – là thuyển đã ra cửa biển … mình ênh! Nhắc đến miền Nam, tôi lại chợt nhớ đến những chuyến tầu (bay) vội vã rời khỏi Sài Gòn – vào tháng Tư, hơn ba mươi năm trước – năm 1975. Trên một số những con tầu này chỉ có quí ông quí bà tai to mặt lớn (cùng với của cải, thân nhân và gia nhân của họ) mà thôi.

Bây giờ, sau khi bước ra biển lớn, kiểm điểm lại cũng chỉ thấy dưới thuyền không có ai khác – ngoài những kẻ cầm quyền, cùng với hành lý, thân nhân và gia nhân của họ. Thuyền đi càng xa, khoảng cách giàu nghèo (rõ ràng) càng rộng. Ông bạn Lê Diễn Đức gọi đó là sự đểu cáng thời vươn ra biển lớn.

Phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để đổi lấy sự đểu cáng như thế thì (đ… mẹ) không chửi thề sao được. Còn làm sao khác, ngoài vụ văng tục chửi thề thì (đ… má) nói thiệt là tui… không biết!

@Talawas