nguyễn thụy long

Nhà văn Nguyễn Thụy Long – hình của tạp chí Khởi Hành

Nhà văn Nguyễn Thụy Long sinh năm 1938 tại Hà Nội

Nhà văn Nguyễn Thuỵ Long, nổi tiếng với các tác phẩm trước năm 1975 ở Sài Gòn, ông qua đời tại Việt Nam ngày 03/9

Ông sinh năm 1938 tại Hà Nội và là tác giả của nhiều cuốn truyện ngắn hoặc tiểu thuyết nổi tiếng như: Vác Ngà Voi, Loan Mắt Nhung (từng được dựng thành phim), Chim Trên Ngọn Khô, Trong Vòng Tay Ðàn Ông.

Ngoài ra, các tác phẩm Vết Thù, Bà Chúa Tám Cửa Ngục, Ðêm Ðen, Gái Thời Loạn, Nữ Chúa, Nợ Máu, Ven Ðô, Sầu Ðời, Gió Hú…cũng được rất nhiều người đón đọc.

Trong khoảng 30 tác phẩm được xuất bản trước năm 1975 của ông, có chừng 20 tác phẩm hiện được lưu tại thư viện của Viện Ðại Học Cornell, New York.

Trong truyện “Người Xây Lò” viết mùa đông năm 2001, ông mô tả cảnh lao động thời sau 1975 và thân phận của người tù cải tạo, và bày tỏ nỗi đau của những người Việt bỏ nước ra đi.

“Như những người vượt biên bằng chiếc thuyền chỉ dài mười hai thước, mỏng manh như chiếc lá giữa đại dương, có thể bị sóng to gió lớn vùi lấp bất cứ lúc nào, không kể bọn côn đồ trên biển, bọn hải tặc Thái Lan mất nhân tính, đe dọa tính mạng, trinh tiết của phụ nữ.”

“Người ta vẫn cứ ra đi, tâm niệm tất cả những người ấy đều giống nhau qua câu “tự do hay là chết”.

“Đồng bào tôi đau khổ quá, như tôi vậy, bỗng nhiên mang thân tù tội, không biết ngày nào ra, dù rằng từ cái lồng nhỏ ra cái lồng lớn hơn.”

Theo báo Người Việt tại California, ông Nguyễn Thụy Long học trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sau bỏ để vào Trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Gia Ðịnh theo nghề bố, một họa sĩ.

Tuy nhiên sau khi thân phụ mất ông vào đời rất sớm, kể cả đi bụi “sống với tầng lớp dao búa, sống ở những nơi hạ lưu của xã hội,” như lời của chính nhà văn.

Nguyệt san văn hóa văn học nghệ thuật Khởi Hành, của chủ nhiệm, chủ bút Viên Linh, với trụ sở tại Nam California, đã trao giải “Văn Chương Toàn Sự Nghiệp” cho nhà văn Nguyễn Thụy Long vào năm 2005.

Vẫn theo Người Việt, nhà thơ Du Tử Lê, người từng gặp nhà văn Nguyễn Thụy Long tại tòa soạn báo “Sống” của Chu Tử trước 1975, nói rằng ông Nguyễn Thụy Long là người “chân thành với bằng hữu”.

@bbc

Nguyễn thụy Long _ Thân phận ma trơi

Uyên Thao

Năm 1987, sau khi ra khỏi tù và hết hạn quản chế, tôi bắt đầu gặp lại một số bạn cũ, phần đông do tình cờ, trừ vài người chủ động tìm tới, trong đó có Nguyễn Thụy Long.

Long tới nhà tôi vào dịp cuối năm để cho tôi một chiếc bánh chưng vì biết loại thực phẩm này nằm ngoài tầm tay tôi. Long cũng là người đã tìm gặp vợ con tôi khi anh ra khỏi tù và đã viết vào trong tù cho tôi mấy chữ: “Cứ yên tâm về vợ con mày. Tao đã tới nhà và rất mến phục bà xã mày”. Long viết mấy chữ đó trên bao thuốc Đà Lạt gửi cho tôi qua một người quen đi thăm nuôi chồng.

Sau khi tới cho tôi chiếc bánh chưng, Long biến mất.

Thỉnh thoảng nghe vài người nhắc tới cảnh lận đận của Long, tôi cũng chẳng lưu tâm, vì bản thân tôi đã dư loại chuyện này. Một thằng cháu phát biểu khi gặp lại tôi: “Những người như chú không thể bắt kịp xã hội hiện nay. Lúc này đừng nói chuyện lương tâm mà phải tìm ra cách cắn xé người khác, nếu còn muốn mở mặt với đời.” Tháng 4, 1975, thằng bé tròn mười bốn tuổi và khi nói với tôi câu đó, nó đã là một kẻ từng trải có mười hai năm đối mặt với cuộc sống của quê hương.

Rồi tôi lại gặp Long.

Tac gia

Nguyễn Thuỵ Long, Nguyễn Mạnh Đan, Uyên Thao (Sài Gòn, 1999)


Sau nhiều năm trôi nổi mưu sinh, tôi trụ lại với một việc tương đối gần gũi sinh hoạt chữ nghĩa. Cái vốn ngoại ngữ lôm côm chữ còn chữ mất của tôi vẫn có người muốn dùng nên tôi được mướn dịch những bài báo ngoại quốc về cách trang điểm phấn son của nữ giới, cách xào nấu các món ăn, cách giao tế sao cho vừa lòng thiên hạ. Công xá không nhiều nhưng đủ giúp gia đình tôi tránh khỏi cảnh cơm ăn cách nhật như mấy năm đầu tôi ra khỏi tù. Việc làm này giúp tôi tiến thêm một bước là ngồi gõ máy thuê, tạo dịp cho bạn bè lui tới. Hai người thường gặp tôi là Thế Phong và Thanh Thương Hoàng, dù tôi đổi chỗ ở như cóc nhảy. Thanh Thương Hoàng tỏ ra ngán ngẩm cho cái thân phận “làm đầy tớ thiên hạ” của tôi như anh vẫn nói nên thỉnh thoảng ghé qua dắt tôi đi chích một mũi thuốc bổ, hoặc mua cho vợ tôi một con gà, một miếng thịt để “cũng có chất bồi dưỡng”. Thế Phong có lẽ ngậm ngùi trước cảnh mỗi buổi sáng tôi chỉ có một chén cháo trắng hoặc một chén cơm nguội nên lâu lâu lại bất ngờ xuất hiện thật sớm dắt tôi đi ăn phở.

Rồi một bữa, Long xuất hiện cùng Thế Phong. Anh đưa ra một xấp giấy, nói :

‒ Đánh giúp tao. Công xá bao nhiêu, tao thanh toán đủ.

Mấy ngày sau, Long trở lại một mình, lầm lì trao cho tôi một tập bản thảo. Anh ngồi xuống ghế nhấc cặp kính ra lau bằng mấy ngón tay. Trong khoảnh khắc đó, tôi nhớ lại hơn mười năm trước, khi chúng tôi ở chung trại tù. Những ngày nghỉ lao động, tôi thường ngồi bên bàn cờ từ sáng sớm và gần như lần nào cũng vậy, tôi chưa chơi xong một ván, Long đã lù lù hiện ra hất hàm, nói cụt ngủn:

‒ Đi, mày !

Thuở đó Long có cái tên “Long mù” và được đám tù trẻ gọi là chú, là bố. Tới giờ này, tôi chưa tìm ra lý do khiến đám trẻ xưng hô với Long như vậy trong khi tất cả đều gọi tôi bằng anh, dù tôi hơn Long 5 tuổi. Long may mắn không rơi vào cùng đội với tôi và may mắn hơn là thỉnh thoảng vẫn được thăm nuôi nên ngày nghỉ có thể kéo tôi qua chỗ anh nhâm nhi vài hớp cà phê. Những dịp đó, Long thường rỉ rả với cách nói nhát gừng kể về những hoạt cảnh luôn hiện lên trong trí anh, lúc cửa phòng giam khóa lại vào buổi chiều. “Hơn sáu chục thằng tù lăn kềnh trên những tấm ván sần sùi vỗ bụng lạch bạch đua nhau đánh rắm tùm lum.” Anh nhăn mặt nhắc tới con vẹt ở trạm xá “chỉ biết nói độc hai tiếng khắc phục” và chấm dứt câu chuyện bằng một lời chửi thề. Tôi thường ngồi im, nghĩ đến cảm giác Long có. Long nói chậm, đôi lúc tựa hồ run giọng, nhưng cặp mắt lờ đờ của anh loé sáng từng chập.

Lúc trao xấp bản thảo cho tôi, mắt anh cũng chợt loé sáng như vậy. Rồi vẫn bằng cái giọng nhát gừng, anh nói:

‒ Bây giờ tao thấy chỉ có mình mày thôi, chỉ mình mày là hiểu về tao hơn hết, nên tao muốn mày viết cho tao một bài giới thiệu tập truyện này. Muốn viết thế nào thì viết.

Đề tài của chúng tôi tức khắc rời khỏi chữ nghĩa và như lệ thường, tôi ngồi nghe Long nói.

Anh kể những điều từng trải khi sống trong gian chuồng heo ở khu Tân Phú, rồi nhắc việc gặp một người bạn từ ngoại quốc về thấy cảnh sống của anh đã ngỏ lời muốn chăm sóc giúp đứa con nhỏ. Anh tả nỗi vui khi tưởng tượng đứa con trai được ăn no mặc ấm, được cắp sách tới trường, dù anh rất khổ sở vì phải xa nó. Thế rồi bất chợt anh chửi thề, mặt đổi sắc hầm hầm. Anh đưa cả hai cánh tay ra trước ngực như sắp lâm trận đấm đá, giọng trở nên khó nghe:

‒ Nếu là mày, tao chắc mày đã đấm vào mặt nó. Tao phải cố dằn, chỉ nhắc nó đừng bao giờ trở lại tìm tao nữa.

Thì ra sau phần mở đề bằng tình cũ nghĩa xưa, mấy hôm sau người bạn trở lại, đưa ra một tờ giấy viết sẵn bảo anh ký tên xác nhận tự nguyện cho con. Anh hậm hực kết luận:

‒ Nó chó má đến mức để trống tên người nhận nuôi đứa nhỏ. Nó đang làm cái trò buôn trẻ nít.

Tôi nghĩ Long còn may hơn tôi vì vẫn phát bẳn được. Từ lâu, bạn bè thường chê tôi không biết xã giao, lúc nào cũng lầm lầm lì lì, lời lẽ nói ra như đấm vào mặt người nghe. Nhưng lúc đó, tôi chỉ thấy mệt mỏi. Tôi không nổi cục được nữa. Mức độ chua xót và nhờm tởm đã biến tôi thành một kẻ dửng dưng.

Dù thế, trước mắt tôi vẫn bừng dậy hàng trăm mảnh đời, hàng trăm khuôn mặt mà tôi từng gặp. Tôi nhớ lại ngày 01/05/1975, tôi phải ráng sức nhấc bổng chiếc Honda để tránh lăn bánh qua xác một người lính Biệt Động Quân nằm úp ngang mặt đường trên cầu Thị Nghè trong lúc cả thành phố đỏ rực cờ! Một tuần sau đó, tôi bắt gặp một hình ảnh mới của thành phố Sài Gòn vừa đổi tên là những phụ nữ chùm khăn kín đầu, chân trần, quần xắn ngang đầu gối, rạp mình trên những chiếc xe ba gác chất đủ mọi thứ chổi cùn chiếu rách. Tại sao những phụ nữ kia lại gắn mình trên những chiếc yên ba gác? Họ đạp đi đâu, làm gì? Tôi không biết, nhưng người nào cũng ướt đẫm mồ hôi.
Xa lo

Cầu xa lộ (cầu Tân Cảng, nay là cầu Sài Gòn) Nguồn: planic.org.vn

Tôi chỉ trở lại Sài Gòn hơn mười năm sau nữa và hình ảnh đầu tiên của buổi tái hội là một người đàn ông cụt cả hai cánh tay loay hoay len lỏi giữa bến xe mới lập gần cầu xa lộ. Tôi đang ngơ ngác nhìn quanh thì ông ta chìa phần cánh tay còn lại cho người đứng kế bên tôi. Ông ta bán vé số bằng cách buộc những tấm vé lên đầu cánh tay bị mất ngang cùi chỏ. Tôi thắc mắc không hiểu ông ta thực hiện việc mua bán những tấm vé số cài trên mấy sợi thung quấn quanh khúc tay còn lại ra sao, vì cánh tay kia của ông ta cụt sát vai. Đang chờ để được thấy thì tôi bắt gặp ánh mắt lạnh như băng của người được mời mua đáp lại cái nhìn khẩn nài của ông ta. Phản ứng duy nhất của tôi là lật đật quay đi để tránh gây thất vọng cho ông ta, vì chắc chắn tôi sẽ là khách mời kế tiếp. Bộ quần áo phát cho những tên tù được thả chỉ đủ đổi lấy tấm vé xe đưa tôi về đây và tôi còn chưa tính xong khoảng đường cuốc bộ vào thành phố. Trong bóng tối chập choạng lúc ngày tàn, tôi bước đi với ý nghĩ hỗn loạn về cảnh sống của con người và về cái cách con người nhìn nhau.

Sau hơn mười năm cách biệt, tôi đã gặp lại Sài Gòn, nhưng là một Sài Gòn xa lạ, thảm não, lạnh lùng. Tôi thấy mình lạc lõng, bơ vơ và nổi da gà khi nghĩ tới ngày mai.

Cảm giác này bừng sống lại khi tôi đọc truyện Nguyễn Thụy Long. Bóng tối chụp xuống và tôi cứ lòng vòng giữa một vùng nhầy nhụa, hôi thối với tâm trạng căng thẳng. Không một tia sáng nhỏ loé lên, không một điểm tựa cho tôi bám víu. Trong tối tăm ngột ngạt, tôi chỉ thấy ở khắp nơi những con người khô đét như cây khô, nổi bật hai hố mắt với cái nhìn đờ đẫn vô hồn. Những con người này khi thì bám lấy nhau, khi lại nhào vào nhau như một bầy chó đói giành mồi trên lớp bùn đen quánh của con kinh len lách dưới những cây cầu thành phố, trên những đống rác ruồi nhặng bay như ong vỡ tổ ở các góc đường Trương Minh Giảng, Nguyễn Thiện Thuật…và giữa những nghĩa địa đang bị đào xới lổn nhổn gạch ván, nồng nặc xú uế.

Tôi không xua nổi hình ảnh từng đám đông bu quanh những tấm ni lông đựng các lóng xương nhám nhúa nặng mùi mới vét lên từ lòng mộ, dưới cái nắng như đổ lửa, vừa quơ múa tay chân đe dọa lũ chó đói lởn vởn xung quanh vừa ồn ào ngã giá một tấm bia, một chiếc túi nhựa bọc xác, một sợi dây lưng chưa mục của người chết… Đó cũng là thế giới văn chương của Nguyễn Thụy Long, thế giới văn chương không có gió mát, áo màu, không có những nụ cười e ấp. Ngay cả lời ca cất lên ở đây cũng chỉ là âm vang ai oán khơi nguồn cho những dòng nước mắt, những cảm giác nhức nhối.

Chính Nguyễn Thụy Long đã tâm sự là vẫn mong có những tác phẩm đem lại cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát cho người đọc, nhưng biết làm sao, khi văn chương không thể tách rời cuộc sống? Hơn một lần tôi nghe Long nói về điều này, rồi anh nhấc cặp kính ra, đưa mấy ngón tay lên mắt. Có thể anh chỉ làm cử chỉ day cho con mắt đỡ ngứa, nhưng tôi luôn nghĩ anh đang cố chặn một dòng nước mắt. Cuộc sống hàng ngày của Long, của tôi, của những người đang có mặt ở đây đã bó tay người cầm bút khi muốn vẽ một cảnh ấm áp, hiền hòa. Đối diện với sự thảm khốc vì bị đọa đầy chỉ là sự tàn nhẫn vì háo hức “mở mặt với đời”. Từ những ổ phế liệu xặc xụa hôi thối trong vùng Tân Phú, Bình Hưng Hòa tới những tòa nhà cao ngất giữa trung tâm thành phố luôn sáng loá ánh đèn xanh đỏ tím vàng, khó tìm thấy thứ gì khác, ngoài những trái tim quắt queo vì roi đòn của thực tế hoặc vì những mê loạn của bản thân.

Tôi lại nhớ vẻ mặt hãi hùng của một người tù K.3 vào dịp cả nước chào mừng một ngày kỷ niệm lớn. Người tù là một nhà sư được gọi bằng cái tên thật Nguyễn Tiến Khánh đã đưa cả hai tay lên che mặt không nhìn phần đồ ăn đặc biệt nhân dịp này, do trại giam tặng cho tù, là ba miếng thịt heo kho lớn cỡ ngón tay cái. Vừa bưng mặt quay đi, Nguyễn Tiến Khánh vừa la thất thanh: “Không, không ăn được! Máu đó, máu đó!”.

Tiếng kêu hốt hoảng của Nguyễn Tiến Khánh luôn vang lên trong đầu tôi hai chục năm nay khi tôi nghĩ đến thực tế xung quanh. Tôi không dập nổi ý nghĩ bên cạnh những con người đang cạn máu vì mọi lý do, là những kẻ say sưa uống máu đồng loại. Bằng mọi cách, trò uống máu diễn ra dưới trăm ngàn hình thức với nhịp độ tiếp nối không ngừng và quê hương chúng ta dường như càng lúc càng vắng bóng người. Trước mắt tôi hiện ra hình ảnh một thiếu phụ sang trọng đi bên chồng với nụ cười thỏa mãn và ánh mắt kiêu kỳ ngó xéo trên đầu một kẻ mạt rệp ngồi lọt giữa đống xương bò heo trâu chó… nhớp nhúa chất cao như đụn rạ trên mặt nền xi măng nóng hầm hập ở một góc nhà kho bên chợ Cây Thị. Kẻ mạt rệp đó là tôi đang chùi rửa những lóng xương cho một cơ sở chế biến thức ăn gia súc để có bữa cơm trưa.

Dán mắt vào những lóng xương nhầy nhụa hôi thối, tôi nhớ tới nét mặt kinh hoàng của vợ tôi khi kể lại cách vượt lên của một thiếu phụ. Chị ta đã dắt đứa con gái gần năm tuổi ra mé sông vắng dìm cho chết, thả xác trôi theo dòng để trở thành người phụ nữ “cô đơn” như lời chị ta mô tả với người đàn ông đang theo đuổi mình. Tôi thấy câu nói của thằng cháu chưa diễn tả được bao nhiêu, khi nghĩ tới những người biết rõ chuyện đó, kể cả những người nhìn tận mắt nhưng không có hành vi nào khác một thoáng hoảng hồn rồi lật đật bỏ chạy, miệng ngậm chặt như bị xiên lình. Người ta đã quen với nếp sống hồn ai nấy giữ, xác ai nấy lo.

Tôi đang sống ở đâu và giữa bầy lũ nào đây?

Một hình ảnh khác bỗng hiện lên. Đó là hình ảnh con chó xác xơ với khung sườn nổi u như nắm que củi, chạy xiêu vẹo quanh mấy ngọn đồi ngoài vòng rào trại tù, ráng sức chồm táp mấy con cào cào. Đám tù trong đội tôi đều biết con chó. Nhiều tay đã mơ có thể bỏ nó vào nồi. Riêng một tay tù trẻ sau nhiều ngày quan sát chợt lên tiếng chửi đổng:

‒ Mẹ kiếp, tới cái mức cứt cho chó ăn cũng không còn!

Đúng là con chó đói lắm, nhưng đã hơn một lần tôi bắt gặp nó nằm dài dưới gốc xoài bên đường, dạng háng cho hai con chó con rúc nhay những cái vú teo nhách như giẻ rách. Nó không kiếm nổi “cứt để ăn” và nó chỉ là chó, nhưng nó không cắn xé con và vẫn cố nuôi con bằng cái thân xác héo tàn.

Tôi đang nghĩ gì đây?

Dường như tôi chẳng nghĩ gì mà chỉ tự nhiên gợi lại những hình ảnh nằm trong ký ức.

Nguyễn Thụy Long đã vẽ lại thế giới đó của chúng tôi với nguyên màu sắc cho thấy không ít kẻ đã bằng lòng xóa tiêu cái mức nhân tính còn sót lại, vì sự tồn tại của nó ở nơi đây chỉ có tác động cào xé tan nát thêm con tim đã tan nát trăm bề. Dễ gì sống với tim óc con người giữa bầy thú đói!

Nhưng, Long không chỉ vẽ lại mà vật vã vô vọng giữa thế giới đó. Qua từng dòng, từng chữ của Long, tôi luôn bắt gặp nét giễu cợt, lời lẽ bông lông bất cần mọi sự, nhưng chập chờn ẩn hiện ở phía sau là nỗi đau xé ruột và tiếng than nghẹn uất.

Thằng lưu manh cố lột cái quần của con điếm đứng đường ế khách, thằng đàn ông què giò uốn bẻ chân tay đứa con sơ sinh cho thành dị dạng để tạo một “cục vàng” trong nghề ăn mày, tay cán bộ cách mạng nhiệt tình không chịu nổi một bà già còm cõi thờ tấm hình đứa con trai vốn là lính Ngụy đã chết từ lâu… trở thành cơn vật vã với thực tế và chữ nghĩa của Long, làm dấy lên những day dứt khó tả nổi về cuộc sống, về con người, nỗi day dứt do tuyệt vọng pha lẫn hờn oán, xót thương.

Tại sao Long phải vật vã đau đớn để dấy lên nỗi day dứt như vậy?

Từ lâu, tôi thường nghĩ mỗi người có mặt trên đời đều gắn chặt vào một nghiệp dĩ. Long cũng thế thôi. Anh ra đời với điều kiện bẩm sinh không thể xa rời nghiệp dĩ văn chương. Cái không may của anh là phải sống trong thời kỳ con người bị bóp nghẹt, bị ngược đãi, bị biến dạng thành hoang thú. Ai còn ý thức mình đang là người mà thoát khỏi bị dằn vặt khi đối mặt với những mưu tính, những hành vi, những xu hướng tước đoạt mọi điều kiện tối thiểu để tồn tại của con người?

Có phải tôi đang biện bạch cho thái độ sáng tác của Long trước thói quen chẻ xác văn chương theo những ý nghĩ chủ quan?

Người ta sẽ soi mọi màu kính lên tác phẩm của Long để thấy là vàng, là đỏ, là trắng, là đen. Người ta sẽ ban cho nó những cái tên hiện thực, tượng trưng hoặc gì gì đó để chứng tỏ trí tuệ của mình. Người ta sẽ xưng tụng nó là tiếng nói chính nghĩa, là văn chương phản kháng hoặc kết án nó là đồi trụy, phản động, đi ngược khuôn vàng thước ngọc của văn nghệ cách mạng để biểu dương “ý chí đấu tranh hừng hực lửa”…?

Tôi thấy những trò đó chẳng đáng gì trước thực tế mà cây bút trong tay Nguyễn Thụy Long ghi lại. Những trò đó cùng những con người đó cũng như tất cả những kẻ đang thét mưa gọi gió, những kẻ đang lăng xăng đồng hóa với chính nghĩa đều chẳng đáng gì trước cơn dãy dụa hiện nay của con người. Khi xã hội như cỗ xe đang lao xuống vực thẳm thì chẳng loại người nào, chẳng vấn đề nào trên xe lớn hơn một hạt bụi.

Chắc chắn Long chẳng cần biện bạch và cũng chẳng cần ai biện bạch giùm. Anh bị cột vào nghiệp văn chương và chỉ cố làm phần nào công việc của mình trong ý thức và trong cả nỗi đau về cái thân phận nạn nhân đang bị xô xuống đáy vực. Đúng như Long vẫn nói, dù tha thiết mong muốn, anh không thể viết khác. Vì, văn chương không thể tách rời thực tế và thực tế bao giờ cũng là thực tế không thể đổi trắng thay đen bằng bất kể cách nào, bởi bất kể lý do nào.

Thêm nữa, chắc chắn anh cũng không nghĩ ngợi mảy may về màu sắc văn chương và không có một giây so đo về mức độ Việt Nam tính, thế giới tính hay giai cấp tính, cách mạng tính trong tác phẩm của mình. Điều đó chỉ cần thiết cho trò chơi chữ nghĩa vì những lý do nằm ngoài đòi hỏi của văn chương chứ chẳng ăn nhập gì tới việc sáng tác văn chương. Long đã viết bằng cảm xúc của một nạn nhân bị dập vùi, viết về những thân phận bị dập vùi và viết bằng ý tình chân thật của một con người chưa biến dạng. Có lẽ Long cũng chẳng mưu cầu điều gì ở tác phẩm của mình ngoài hy vọng khơi gợi một nỗi đồng cảm nơi tất cả những người còn là người đang có mặt trong cuộc sống, bất kể là ai và bất kể ở nơi đâu.

Riêng tôi, để chấm dứt những ý nghĩ lan man dấy lên khi đọc truyện của Long, tôi mong không bao giờ còn phải gặp những thân phận ma trơi, những bà mẹ sương sa, không bao giờ còn phải nghe Diêm Vương phán “mọi hình phạt lóc thịt lột da, chặt đầu cắt cổ, đun nấu trong vạc dầu nơi địa ngục đều không sánh nổi với việc trả bị cáo về làm người trên trần thế”.

Sài Gòn tháng 6, 1999

‘Madame Ngãi,” người mẹ của ngàn đứa con”

Tiếp câu chuyện di tản 219 cô nhi Việt, 12 Tháng Tư 1975

Bảy lần di tản, nuôi một ngàn cô nhi, làm người di tản cuối đời

Hà Giang

Trong số báo cách đây ít ngày, độc giả được đọc câu chuyện về người phụ nữ Mỹ, tên là Betty Tisdale, từng mang 219 cô nhi Việt Nam ra khỏi Sài Gòn những ngày cuối Tháng Tư, 1975. Trong câu chuyện mà bà Tisdale, nay đã 87 tuổi, kể cho phóng viên Hà Giang của nhật báo Người Việt, bà có nhắc đến một phụ nữ Việt Nam, mà bà gọi là một vị Thánh. Người phụ nữ Việt Nam này tên là Vũ Thị Ngãi, từng cưu mang đến cả ngàn cô nhi miền Bắc, hồi thập niên 1940s, 1950s. “Madame Ngãi,” theo cách gọi của bà Tisdale, từng là tiểu thư của một trong những gia đình giàu có bậc nhất Thanh Hóa một thời. Gần 220 “đứa con” cô nhi của Cô Nhi Viện An Lạc thoát ra khỏi Sài Gòn năm 1975. Cuộc đời bà Vũ Thị Ngãi sau đó ra sao? Bà Betty Tisdale gặp vị Thánh Nguyễn Thị Ngãi của mình như thế nào? Xin theo dõi tiếp câu chuyện sau đây.

Bà Vũ Thị Ngãi săn sóc một em cô nhi bị ghẻ lở tại cô nhi viện An Lạc, Sài Gòn, vào khoảng năm 1961. (Hình: Hà Giang chụp lại tài liệu của bà Betty Tisdale)

Lật từng trang, rồi từng trang, cuốn “sổ đời” của bà Betty Tisdale, chúng tôi trở về với khung cảnh của cô nhi viện An Lạc, của Sài Gòn yêu dấu, và của những thay đổi của cô nhi viện này từ năm 1961, đến cuộc di tản Tháng Tư năm 1975.

Thời gian làm những tấm ảnh úa vàng, hoen ố nhiều chỗ. Nhưng bà Betty vẫn vanh vách đọc tên những khuôn mặt của từng người trong hình. Chắc hẳn bà đã nhiều lần xem đi xem lại những dấu tích kỷ niệm.

Các em cô nhi vây quanh người mẹ chung là bà Vũ Thị Ngãi, và Bác Sĩ Tom Dooley, vị ân nhân của cô nhi viện An Lạc trước khi bác sĩ Tom Dooley qua đời. (Hình: Hà Giang chụp lại tài liệu của bà Betty Tisdale)

Một tấm hình trắng đen chợt rơi ra.

Cầm hình lên ngắm nghía một lúc, bà Tisdale đưa hình cho tôi rồi nói bằng một giọng chợt nặng trĩu.

“Ðây là madame Ngãi, đang săn sóc một em bị ghẻ lở.”

“Bà Ngãi bây giờ còn sống không? Sau khi đám cô nhi được di tản, thì chuyện gì xảy ra cho bà?” Tôi hỏi.

Thay vì trả lời tôi, bà Tisdale mơ màng: “Người ta gọi madame Ngãi là người mẹ của ngàn đứa con!”

“Tôi coi madame Ngãi như một người mẹ. Bà và Bác Sĩ Tom Dooley là hai người Thánh sống.”

“Nếu không có Bác Sĩ Tom Dooley thì tôi đã không đến thăm cô nhi viện An Lạc.”

“Nhưng nếu không có Madame Ngãi thì cũng không có cô nhi viện An Lạc, và cũng tôi cũng không ngồi đây nói chuyện với cô ngày hôm nay.”

“Tôi thật may mắn được sống cùng thời với hai vị Thánh” Bà nói.

Bà Vũ Thị Ngãi (giữa) và Betty Tisdale (phải) trước giờ các em cô nhi được đưa lên máy bay qua Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 4 năm 1975. (Hình: Hà Giang chụp lại tài liệu của bà Betty Tisdale)

Rồi bà bảo tôi ngồi yên chờ bà đi pha ấm trà.

Biết bà đang muốn che giấu xúc động, tôi ngồi yên chờ đợi.

Trở lại với hai tách trà nghi ngút khói, và cuốn sách “Deliver Us from Devil” của Bác Sĩ Tom Dooley bà bảo.

“Tôi biết cô rất muốn tìm hiểu về Madame Ngãi, nhưng không hiểu tại sao cứ kể về bà thì tôi lại xúc động quá không nói được.”

“Những gì Bác Sĩ Tom Dooley kể về bà trong cuốn sách này tôi thấy rất chính xác!”

“Cô đọc đi nhé!”

Tôi cầm lấy cuốn sách, đọc chương Bác Sĩ Tom Dooley kể về Madame Ngãi và cô nhi viện An Lạc: “Những ngày công tác ở Hải Phòng để giúp những người Bắc di cư vào Nam, với chúng tôi là những ngày u buồn. Buồn không phải vì làm việc vất vả, nhưng vì những đau thương của bệnh nhân quanh chúng tôi quá nhiều, săn sóc không xuể.”

“Người bạn thường xuyên của chúng tôi là nỗi buồn, thế nhưng nếu chúng tôi muốn trốn nỗi buồn mà bỏ đi một buổi chiều nào đó, thì mặc cảm tội lỗi lại khiến chúng tôi hết vui nổi.”

“Cũng may còn có đám trẻ con của bà Ngãi, và cô nhi viện mà bà đã đặt cho cái tên không chính thức là An Lạc.”

“Họ đã mang đến cho chúng tôi những niềm vui hiếm có. Ðám cô nhi này là con của bà Ngãi, và giờ đây, họ cũng trở thành con chúng tôi.”

Các em cô nhi vui mừng ôm chầm lấy mẹ trong ngày bà Vũ Thị Ngãi đến Columbus, Georgia, vào đúng ngày 30 tháng 4, năm 1975. (Hình: Hà Giang chụp lại tài liệu của bà Betty Tisdale)

“Trong khốn khó, chúng tôi đón nhận nhau như những người thân trong gia đình. Và tôi cùng với các y sĩ phụ tá, trở thành viện y tế của các em cô nhi.”

“Madame Ngãi là một người đàn bà có nhiệt huyết của một cô gái 16, trông trạc tuổi ba mươi, nhưng bà đã hơn năm mươi tuổi.”

“Sinh trưởng trong một gia đình giàu có ở miền Bắc, nhưng Madame Ngãi thật dễ thương.”

“Bà có làn da mịn màng, tóc đen nhánh, nụ cười rất tươi, đôi mắt sáng, và hơi xếch ‘rất Á Ðông’, đã làm nhiều người say đắm ngay từ phút đầu gặp gỡ.”

“Madame Ngãi là một người rộng lượng. Một người trông coi cả một cô nhi viện thì hẳn phải là một người có đầu óc và trái tim rộng lượng.”

“Bà muốn ôm hết tất cả những trẻ thơ xấu số vào lòng, để thương yêu, để chăm sóc. Bà Ngãi có biệt tài chiếm được cảm tình của mọi người đối diện, nhất là những người Mỹ vừa có lòng hảo tâm vừa có điều kiện giúp những em cô nhi của bà.”

“Những em cô nhi được bà quan tâm đặc biệt thường là những em bị tật nguyền, xấu số nhất, thí dụ như cậu bé tên Nguyên.”

“Không ai biết cậu họ gì. Bà Ngãi cho biết bà nhặt cậu ở Thái Bình lúc mới lên 4. Giờ thì cậu đã 6 tuổi và có một nụ cười thật dễ mến. Nguyên bị lao xương sống lưng khiến cậu bị hơi gù. Nhưng Nguyên không bao giờ để việc đó làm mình buồn. Khi đi đứng, cậu thường xuyên bị té xuống, có khi thay vì đi thì lại lăn người trên đất, nhưng lúc nào cậu cũng phá lên cười.”

“Một em bé nữa cũng được Madame Ngãi rất thương, tôi không nhớ rõ tên. Em mới hai tuổi mà đã hoàn toàn bị mù, vì em bị đau mắt hột nặng cả hai mắt từ lúc mới sơ sinh. Tôi nhớ Madame Ngãi hay ôm em mà nói: “Giá mà lúc mới bị đau, em đã được chữa ngay thì đâu đến nỗi…”

“Có những em khác bị giang mai bẩm sinh, bị quặt lưỡi, què quặt, hay người đầy ghẻ lở khiến các bác sĩ dù cũng phải thấy hơi ghê sợ khi phải chăm sóc, nhưng bà Ngãi hình như lại lo cho các em một cách đặc biệt.”

“Gần bà, trẻ em hầu như không sống với mặc cảm, các em vẫn vui tươi, và tiếng cười hồn nhiên của các em trong những cảnh khốn cùng nhất làm cho chúng tôi quên hết mệt nhọc và thấy đời sống thật đẹp và có ý nghĩa.”

“Vì yêu các em, và vì yêu mến bà Ngãi, mà các người lính hải quân cứ có tí thì giờ rảnh là vào khu được gọi là cô nhi viện.”

“Và để cám ơn chúng tôi, bà không có gì hơn là đã chúng tôi những bữa ăn tối thật ‘thịnh soạn,’ nhưng với chúng tôi đôi khi là một mạo hiểm. Hãy thử tưởng tượng món súp nấu với đầu cá, gà luộc để nguyên cái đầu, mắm tôm, thì có thể hiểu nổi sự ‘hãi hùng’ của chúng tôi.”

“Madame Ngãi cứ lặng lẽ làm việc, chẳng bao giờ kể gì về mình.”

“Một lần tò mò, chúng tôi hỏi bà là cô nhi viện từ đâu mà có, những trẻ em từ đâu ra?

Và bà làm sao có tiễn để nuôi dưỡng chúng?”

“Lúc đó, Madame Ngãi mới kể chuyện cho chúng tôi bằng một giọng mơ màng, như người kể chuyện cổ tích.”

“Tôi sinh trưởng ở Thanh Hóa.”

“Gia đình tôi có lúc giàu có nhất Thanh Hóa. Chúng tôi có một ngôi nhà lớn thật đẹp và chung quanh là ruộng cò bay thẳng cánh. Mặc dù sau chiến tranh, căn nhà của chúng tôi bị sập đổ nhiều, nhưng vẫn còn ở được. Tôi cứ ra đường gom góp các em bé vẫn còn sống, mang về nhà, và tôi cùng các gia nhân cho các em tá túc.”

“Vào năm 1946, tai Thanh Hóa có rất nhiều trận chiến. Gia đình tan nát, Làng mạc đầy người chết, Trẻ con bị bỏ rơi trên các nẻo đường, hay thơ thẩn bên cạnh xác chết của cha mẹ. Chiến tranh không có thì giờ để dừng lại chăm sóc cho trẻ em.”

“Khi chiến tranh tiến sâu vào Thanh Hóa, tôi biết rằng mình phải di tản, Lòng thật buồn, tôi bán nhà, gom góp tiền bạc và vòng vàng mang đi, đến tỉnh Nam Ðịnh. Tại Nam Ðịnh, tôi mua một căn nhà khác, và tiếp tục nuôi đám cô nhi, giờ đã lên đến 600 đứa. Khi Nam Ðịnh rơi vào tay Việt Minh năm 1949, tôi lại phải di tản nữa, lần này mang theo 1,000 cô nhi.”

“Chúng tôi đã phải di tản như thế tất cả là 5 lần, và cuối cùng tôi đến ở Hải Phòng.”

“Trong lần di tản cuối cùng, vào Nam, bà chỉ còn mang theo được 80 em cô nhi, và tại Sài Gòn, cơ quan ‘Công Tác Nước Ngoài Hoa Kỳ’ (United States Oversea Mission) đã cất sẵn cho bà một cô nhi viện, mà bà đặt tên là cô nhi viện An Lạc.”

Ðọc xong chương sách, tôi nhìn bà Tisdale, chép miệng.

“Không ngờ, hai mươi năm sau Madame Ngãi lại phải di tản cô nhi viện An Lạc một lần nữa.”

Bà Tisdale, dường như đã lấy lại được bình tĩnh, bắt đầu kể chuyện:

“Sau khi đã đưa các em cô nhi về đến Geogia an toàn, tôi bắt đầu lo cho Madame Ngãi.”

“Tôi gọi cho Ðại Sứ Martin và nhờ ông đến cô nhi viện An Lạc đưa Madame Ngãi cùng người phụ tá, cũng là cháu của bà tên Thúc, và 3 người nữa đến tòa đại sứ.”

“Tôi khẩn khoản nhờ ông bằng mọi cách phải đưa bà ra khỏi Việt Nam vì nếu không tính mạng bà sẽ bị nguy hiểm khi Cộng Sản chiếm được Sài Gòn.”

“Mấy ngày sau tôi nhận được tin báo là Madame Ngãi đã được đưa đến Guam an toàn.”

Kể đến đây, bà Tisdale tìm trong cuốn scrap book, trao cho tôi một bài báo có tên “Orphanage Head May Be Adopted” của tờ Times Daily, đăng ngày 28 Tháng Tư, 1975, bảo tôi đọc đi, rồi ra khỏi phòng.

Bài báo viết: “Bà Vũ Thị Ngãi, 70 tuổi, một phụ nữ đã bỏ ra 30 năm trời nuôi dưỡng các em cô nhi tại cô nhi viện An Lạc, Sài Gòn, giờ đây có lẽ cũng có người nhận mang về nuôi.”

“Ðược Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ giúp ra khỏi Sàigòn từ tuần trước, hiện nay đã đến Guam.”

Cựu Ðại Tá Bác Sĩ quân y Patrick Tisdale cho biết vợ ông, Betty Tisdale đã bay đến Guam vào ngày hôm qua, Chủ Nhật, 28 Tháng Tư, để đón bà về Columbus, Georgia.”

“Tôi nghĩ có lẽ kỳ này chúng tôi sẽ chính thức nhận Madame Ngãi làm mẹ nuôi. Từ trước đến giờ vợ chồng tôi vẫn xem bà như một người mẹ. Bà rất gần gũi với vợ tôi.” Bác Sĩ quân y Tisdale nói.

“Dù không muốn bỏ hơn 100 người con nuôi lại An Lạc, Madame Ngãi bắt buộc phải rời Sài Gòn trước khi Cộng Sản vào, vì chắc chắn họ sẽ trừng phạt bà, chúng tôi không nghi ngờ gì về điều này.”

“Ông Tisdale, 45 tuổi, một đại tá bác sĩ quân y về hưu, đã phục vụ tại Việt Nam một năm, cho biết Cộng Sản đã công bố trên chương trình phát thanh của họ, là Madame Ngãi nằm trên một danh sách những người sẽ bị xử tử.”

“Có rất nhiều lý do khiến họ muốn giết bà, nhưng việc mà bà nhất định phải di tản hơn 200 cô nhi qua Mỹ là một lý do quan trọng.”

Bà Tisdale bổ túc bài báo bằng những lời giải thích: “Chồng của Madame Ngãi là một nhà tư bản công nghiệp giàu có, cùng với một người con trai đã bị mất tích, biến mất trong cuộc hỗn loạn xẩy ra đầu năm 1954, khi quân Việt Minh giao tranh với quân Pháp.”

“Khi di cư vào năm 1954, Madame Ngãi đã mang 80 cô nhi từ Bắc vào Nam. Ở đó, bà dựng ra cô nhi viện An Lạc, với sự giúp đỡ của Bác Sĩ Quân Y Tom Dooley, người đã phục vụ ở Việt Nam vài năm trước khi ông qua đời năm 1961, ở tuổi 34.”

“Madame Ngãi không phải là một người làm chính trị, bà rất cẩn thận để tránh khỏi bị gán cho từ đó. Thế nhưng bà vẫn có những lý do cá nhân để không thích cộng sản.”

“Bà cho biết lý do bà để cho các cô nhi rời khỏi Việt Nam vài tuần qua cũng giống như lý do tại sao bà mang các em rời khỏi miền Bắc vào năm 1954: Bà không muốn các cô nhi của mình phải sống dưới chế độ Cộng Sản.”

“Nhưng bà Ngãi bây giờ còn sống hay đã chết?”

Tôi chợt hỏi.

“Tìm Madame Ngãi tại Guam, tôi đưa bà về Columbus, Georgia để ở với chúng tôi.”

“Chúng tôi xây một căn nhà riêng cho bà ở sau vườn.”

“Ngày bà đến Georgia, gần như hầu hết các em cô nhi đều ra đón. Mọi người ai cũng vui quá.”

“Nhưng bà chỉ ở được với chúng tôi ba năm, rồi qua đời năm 73 tuổi, sau khi bị stroke.”

“Tại sao những người tốt lại chết sớm?” Bà Tisdale hỏi.

“Bác Sĩ Tom Dooley cũng là người tốt mà còn mệnh yểu hơn.” Tôi nói.

Rồi bà hỏi, như tự trả lời.

“Ừ, tôi nghĩ có lẽ điều quan trọng không phải là sống được bao lâu, mà là đã làm gì được cho ai, và khi chết đi có ai thương tiếc, phải không?”

@ Người Việt