Ba Lan: Bỏ Cộng Sản, và thành công

Ảnh : Thủ đô Ba Lan
Ngô Nhân Dụng

Trong khi dân chúng Ba Lan trải qua một tuần lễ tang tóc thì chúng ta có dịp nhìn lại thành tựu của nước này trong 20 năm qua, sau khi rũ bỏ chế độ cộng sản. Ông Tổng Thống Lech Kaczinsky, ông Thống Ðốc Ngân Hàng Trung Ương Slawomir Skrzypek, mấy vị tướng lãnh và nhiều nhà lãnh đạo tử nạn trong chuyến máy bay oan nghiệt đã ra đi, nhưng họ để lại cho nước Ba Lan những di sản đáng hãnh diện.

Ba Lan hiện đang là một nền kinh tế phát triển tốt nhất ở Âu Châu; năm ngoái đã tăng trưởng 1.7% trong khi GDP trung bình của 28 quốc gia dùng đồng Euro bị giảm hơn 4%, và tất cả các nước khác đều suy thoái. Sự thành công của Ba Lan là nhờ một hệ thống ngân hàng vững chắc không bị lôi cuốn vào cơn khủng hoảng tài chánh thế giới; ngân sách quốc gia chỉ thâm thủng nhẹ trong khi giới đầu tư quốc tế sẵn sàng mang tiền đến cho chính phủ Ba Lan vay. Và điều đáng hãnh diện nhất là 20 năm sau khi tự giải thoát khỏi chế độ cộng sản, các định chế chính trị dân chủ đã bén rễ ngày càng bền chặt, sau một tai nạn thảm khốc khi nhiều nhà lãnh đạo dân sự và quân sự cùng qua đời một lúc, mà guồng máy chính trị của quốc gia tiếp tục điều hành một cách bình thường theo đúng các thủ tục dự trù trong hiến pháp.

Vị chủ tịch Hạ Viện (Sejm) đã nhận xử lý thường vụ chức quốc trưởng và tuyên bố sẽ tổ chức bầu cử sớm để chọn người làm tổng thống. Phó thống đốc Ngân Hàng Trung Ương đã lên làm quyền thống đốc. Mặc dù có mấy vị tướng lãnh tử nạn nhưng quân đội đã chính thức cải chính tin sẽ có những biện pháp đặc biệt vì tình trạng khẩn cấp, hay hoãn thi hành hiến pháp lấy lý do an ninh bị đe dọa. Năm 1922, một thủ tướng Ba Lan, ông Gabriel Narutowicz cũng chết vì một tai nạn máy bay khó hiểu, sau đó quốc gia đã rơi vào hỗn loạn với các cuộc đảo chính, và đưa tới một chế độ quân phiệt.

Cái chết của gần 100 nhân vật ưu tú nước Ba Lan khiến người ta phải nhớ tới cuộc tàn sát 22,000 sĩ quan quân đội Ba Lan tự do ở Katyn vào năm 1940 do lãnh tụ Cộng Sản Stalin chủ mưu. Lực lượng sĩ quan này quy tụ những thành phần trí thức giường cột của nước Ba Lan lúc đó, với hàng chục ngàn nhà trí thức, giáo sư, luật sư, kỹ sư, bác sĩ, vân vân, đã bị động viên trước đó. Stalin đã tiêu diệt những người con ưu tú của nước Ba Lan để mở đường cho đảng Cộng Sản Ba Lan cướp chính quyền sau này và biến quốc gia thành một chư hầu của Nga. Tai nạn tuần qua cũng làm mất của Ba Lan những đứa con ưu tú nhưng đã khiến cả nước đoàn kết với nhau trong tang tóc. Nhiều người Ba Lan tỏ ý nghi ngờ tai nạn này có vẻ một âm mưu ám sát do mật vụ Nga thi hành; nhưng nói chung cả quốc gia đã cư xử một cách đứng đắn, báo chí không ai đổ tội cho chính quyền Nga.

Ðiều gì đã giúp nước Ba Lan tạo được một hình ảnh ổn định và trưởng thành đáng kính như vậy? Ðó chính là do các vận động chính trị và kinh tế của 38 triệu người dân trong 20 năm qua đã tạo nên những nền tảng vững chắc. Các định chế quốc gia đóng đúng vai trò của mình. Các nhà chính trị tôn trọng “luật chơi dân chủ” và những người dân biết bầy tỏ ý kiến qua lá phiếu tự do. Chủ trương kinh tế thị trường không còn dính đến kinh tế cộng sản cũ đã giúp dân giàu nước mạnh thật sự. Ba Lan là một tấm gương cho thấy khi người dân một nước đã quyết tâm từ bỏ chủ nghĩa cộng sản thì họ xây dựng được một quốc gia vững mạnh về kinh tế và chính trị.

Năm 1989, khi một người thuộc Công Ðoàn Ðoàn Kết đứng ra lập chính phủ đầu tiên không cộng sản vào Tháng Tám, đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ chức biểu tình trước tòa đại sứ Ba Lan ở Hà Nội để hô khẩu hiệu ủng hộ đảng Cộng Sản Ba Lan, chống lại vụ “cướp chính quyền” của “lực lượng thù nghịch” tay sai tư bản! Lúc đó, nhân viên tòa đại sứ đã ra yêu cầu nhóm người biểu tình giải tán, giải thích rằng việc chuyển giao quyền hành này là nguyện vọng của nhân dân Ba Lan chứ không có “thế lực thù nghịch” nào tạo ra cả. Tháng Mười Hai năm đó, Quốc Hội Ba Lan cởi trói cho nền kinh tế khỏi chế độ tập thể quốc doanh; xóa bỏ dấu tích cộng sản trong quốc hiệu, đổi tên nước thành Cộng Hòa Ba Lan. Tháng Giêng năm sau, đảng Cộng Sản Ba Lan đã tự ý giải tán, đổi tên thành một đảng Dân Chủ Xã Hội. Sau đó họ còn hóa thân vài lần nữa biến thành một Liên Minh Tả Phái (SLD). Ðảng SLD đã hai lần được các cử tri tín nhiệm đưa lên cầm quyền trong những năm 1993 và 2001, nhưng rồi lại bị người dân bỏ phiếu gạt ra khỏi chính quyền vào những năm 1997 và 2005.

Nhìn vào kết quả các cuộc bầu cử trên (hai lần nghiêng sang tả, hai lần ngả sang hữu) người ta có thể thấy các cử tri Ba Lan rất dễ thay đổi. Có người sẽ “lo lắng” là nền chính trị xứ này “không ổn định” theo lối cộng sản cũ. Nhưng trái lại, chính trị Ba Lan rất ổn định, nhờ người dân đã trưởng thành trong lối sống tự do. Chính vì người dân được tự do chọn lựa người cầm quyền, và sử dụng quyền tự do đó một cách thẳng thắn, không kiêng dè, họ thay đổi chính quyền một các dễ dàng, cho nên chính trị trở thành ổn định. Nhân dân Ba Lan có thể tự mình thí nghiệm với các chương trình trị quốc khác nhau, với các nhóm chính khách thuộc các đảng khác nhau. Năm 2005, đảng Luật Pháp và Công Lý (PiS) với chủ trương khuynh hữu và bài Nga của anh em cố Tổng Thống Kaczinsky thắng thế, vì dân chúng đã chán chính phủ cánh tả SLD tham nhũng. Nhưng hai năm sau đảng PiS lại thua trong cuộc bầu cử Quốc Hội, vì họ thất bại về kinh tế, đảng Diễn Ðàn Công Dân (PO) lên lập chính phủ mới. Nhiệm kỳ của Tổng Thống Kaxzinsky vẫn kéo dài cho hết năm nay, cho nên trong hai năm qua giữa ông tổng thống PiS và Thủ Tướng Donald Tusk thuộc đảng PO luôn luôn xung đột! Ðây lại là một tình trạng bình thường trong một chế độ dân chủ tự do, mọi người đều tôn trọng hiến pháp và luật pháp. Chính sách kinh tế cởi mở và chủ trương ngoại giao hòa hoãn với lân bang của đương kim Thủ Tướng Tusk thành công, cho nên đảng này hy vọng sẽ đưa được người lên thay thế cố Tổng Thống Kaczinsky trong cuộc bầu cử sắp tới, người đó chính là vị quốc trưởng xử lý thường vụ hiện nay.

Kinh nghiệm Ba Lan cho thấy khi người dân một quốc gia quyết tâm từ bỏ cộng sản độc tài để xây dựng dân chủ, người ta đã thành công. Chính nhờ can đảm dứt khoát bỏ chủ nghĩa cộng sản và chế độ chuyên chế do Stalin lập ra mà các lãnh tụ đảng Cộng Sản Ba Lan năm 1989 đã mở đường cho quốc gia họ bước vào một thời kỳ mới. Năm 1988 khi đảng Cộng Sản đưa kinh tế Ba Lan vào bế tắc, các công nhân Ba Lan theo Công Ðoàn Ðoàn Kết tổ chức đình công và biểu tình suốt từ Tháng Tư, đảng Cộng Sản Ba Lan đã cải tổ luật bầu cử thay vì tham quyền cố vị đến cùng. Họ tự tước bỏ độc quyền của đảng cộng sản, cho dân chúng được tự do bầu Thượng Viện và một phần ba Hạ Viện (Sejm). Chính Quốc Hội mới đó đã đưa Tướng Wojciech Jaruzelski lên làm chủ tịch nước vào Tháng Bảy năm 1989. Một tháng sau, ông đã mời một nhà báo, trong nhóm lãnh đạo Công Ðoàn Ðoàn Kết ra lập chính phủ mới. Ðến nay, ông Jaruzelski vẫn còn được nhiều người dân Ba Lan kính trọng, chứ không bị xử tử hình và bị nguyền rủa như lãnh tụ cộng sản ở Rumani.

Bên cạnh một nền chính trị tương đối ổn định, điều đáng ca ngợi ở Ba Lan là nền kinh tế sinh động. Trong lịch sử nước Ba Lan, người dân chưa bao giờ giàu như hiện nay. Sau 40 năm dưới chế độ cộng sản, kinh tế Ba Lan đã đi tới kiệt quệ, từ 20 năm qua các chính quyền đã thay đổi, thí nghiệm nhiều chính sách khác nhau nhưng đều hướng về thị trường hóa tối đa. Mặc dù có những khúc quanh, nhưng sau cùng người ta vẫn tìm ra con đường tốt nhất. Ông Bộ Trưởng Tài Chánh Jacek Rostowski cho biết trong năm 2009, lợi tức theo đầu người của người Ba Lan đã tiến nhanh vượt bực, từ tình trạng bằng một nửa (50%) tiến lên bằng 56% lợi tức bình quân của Liên Hiệp Âu Châu. Ba Lan hiện là nền kinh tế đứng hàng thứ sáu ở Âu Châu. Ðầu năm nay, trong lúc chính phủ Hy Lạp đang lo phá sản và không đi vay nợ được phải nhờ Âu Châu cứu trợ, thì chính phủ Ba Lan vì được tín nhiệm đã vay được ba tỷ Euro, hơn 4 tỷ đô la Mỹ, với lãi suất thấp.

Nhờ vay nợ dễ dàng, Ba Lan đang cải thiện hệ thống đường xa lộ và hỏa xa, thay thế những di sản hạ tầng cơ sở mục nát thời cộng sản để lại, chuẩn bị cùng Ukraine tổ chức Giải Túc Cầu Âu Châu vào năm 2012. Trong các năm qua, Ba Lan đã bước những bước dài cải tổ hệ thống hành chánh, vì các chính quyền dân chủ không sợ dân mà tin tưởng dân, kính trọng dân. Sau khi chế độ hộ khẩu được bãi bỏ, chính sách gia cư thay đổi đã giúp các công nhân di chuyển, đổi chỗ ở và nơi làm việc trong nước một cách dễ dàng hơn. Chính phủ đã giản dị hóa thủ tục, các công dân có quyền làm bản tự khai các giấy tờ của mình (oswiadczenia) thay vì phải đi xin chưởng khế (giống như công an phường) thị thực công chứng (zaswiadczenia). Nhờ lối làm việc mới đó mà đời sống kinh tế của người dân bình thường được khai thông nhanh chóng hơn. Ông Bộ Trưởng Rostowski nói, “Chúng tôi cứ giả thiết là người dân nói sự thật, cho đến khi nào có bằng chứng là họ nói dối. Trong quá khứ, chế độ cộng sản nghĩ theo lối ngược lại.”

Nếu nước Việt Nam thay đổi chế độ, từ bỏ chủ nghĩa cộng sản như dân Ba Lan đã làm, thì trong vòng mười năm đến 20 năm, chúng ta cũng sẽ tiến không kém gì nước Ba Lan. Bởi vì không có lý gì mà người dân Việt Nam lại thua kém dân Ba Lan.

@Nguoi Viet

Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Khang Sinh, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh

Wilson Center

Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam, trong khi chỉ ra [những điểm] có vẻ ngờ vực từ phía Việt Nam; Việt Nam dựa vào sự hỗ trợ của Trung Quốc.

Đặng Tiểu Bình: các ông đã nói về sự thật cũng như đề cập đến sự công bằng. Vậy các ông vẫn còn sợ cái gì? Tại sao các ông lại sợ không làm vừa lòng Liên Xô, vậy còn Trung Quốc thì sao? Tôi muốn nói thẳng với các ông những điều hiện tại tôi cảm nhận: các đồng chí Việt Nam có những suy nghĩ khác về phương pháp giúp đỡ của chúng tôi, nhưng mà các ông chưa nói với chúng tôi.

Tôi nhớ đồng chí Mao phê bình chúng tôi, các viên chức Trung Quốc tham dự buổi nói chuyện giữa đồng chí Mao Trạch Đông và đồng chí Lê Duẩn tại Beidaihe (2) – về việc “quá nhiệt tình” đối với đòi hỏi của Việt Nam. Bây giờ chúng tôi thấy đồng chí Mao nhìn xa trông rộng.

Lê Duẩn: Bây giờ, khi các ông nói lại điều đó lần nữa, chúng tôi đã rõ. Tại thời điểm đó tôi không hiểu những gì đồng chí Mao nói bởi vì thông dịch quá dở.

Đặng Tiểu Bình: Chúng tôi hiểu rằng đồng chí Mao phê bình chúng tôi, đó là đồng chí Chu Ân Lai, tôi và những người khác. Dĩ nhiên, không có nghĩa là đồng chí Mao không làm hết sức mình để giúp đỡ Việt Nam. Với các ông đã quá rõ là chúng tôi đáp ứng mọi yêu cầu của các đồng chí bởi vì nằm trong khả năng của chúng tôi.

Bây giờ, có vẻ như đồng chí Mao Trạch Đông nhìn xa trông rộng trong vấn đề này. Trong những năm gần đây, chúng tôi đã có kinh nghiệm trong các mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Sự thật là sự quá nhiệt tình của chúng tôi đã gây nghi ngờ cho các đồng chí Việt Nam? Hiện tại chúng tôi có 130.000 quân lính đang ở nước các đồng chí. Việc xây dựng [căn cứ] quân sự ở Đông Bắc cũng như xây dựng tuyến đường sắt là các dự án mà chúng tôi đề xuất, và hơn nữa, chúng tôi đã gửi hàng chục ngàn quân lính tới biên giới.

Chúng tôi cũng đã thảo luận khả năng chiến đấu chung bất cứ khi nào cuộc chiến bùng nổ. Các ông có nghi ngờ chúng tôi vì chúng tôi quá nhiệt tình hay không? Người Trung Quốc có muốn kiểm soát Việt Nam? Chúng tôi muốn nói thẳng cho các ông biết rằng chúng tôi không hề có ý định đó. Ở đây, chúng tôi không cần bất kỳ cuộc đàm phán ngoại giao nào. Nếu chúng tôi mắc phải sai lầm đã làm cho các ông nghi ngờ, có nghĩa là đồng chí Mao thật sự nhìn xa trông rộng.

Hơn nữa, hiện nay nhiều người làm cho Trung Quốc bị mang tiếng: Khrushchev (*) là người theo chủ nghĩa xét lại, và Trung Quốc thì theo chủ nghĩa giáo điều và mạo hiểm.

Vì vậy, chúng tôi hy vọng trong vấn đề này, nếu các ông có bất kỳ vấn đề gì, làm ơn nói thẳng cho chúng tôi biết. Thái độ của chúng tôi cho đến nay và từ bây giờ sẽ là: các ông đang ở tiền tuyến còn chúng tôi đang ở hậu phương. Chúng tôi đáp ứng mọi yêu cầu của các ông trong khả năng của chúng tôi. Nhưng chúng ta không nên có quá nhiều nhiệt tình.

Việc xây dựng ở các đảo phía đông bắc đã hoàn thành. Hai bên đã thảo luận việc xây dựng dọc bờ biển sẽ do những người lính trong quân đội của chúng tôi thực hiện. Gần đây, đồng chí Văn Tiến Dũng (3) đề nghị sau khi hoàn thành việc xây dựng ở phía đông bắc, những người lính trong quân đội của chúng tôi sẽ giúp các ông xây dựng các địa điểm pháo binh ở vùng đồng bằng trung tâm. Chúng tôi vẫn chưa trả lời. Bây giờ tôi đặt một câu hỏi để các ông cân nhắc: các ông có cần những người lính trong quân đội của chúng tôi làm điều đó hay không?

Chu Ân Lai: [Đề nghị về] việc xây dựng 45 địa điểm pháo binh gần các vị trí tên lửa của Liên Xô.

Đặng Tiểu Bình: Chúng tôi không biết liệu có tốt cho mối quan hệ giữa hai đảng và hai nước hay không khi chúng tôi đã gửi 100.000 quân đến Việt Nam. Cá nhân, tôi nghĩ sẽ tốt hơn cho những người lính trong quân đội của chúng tôi trở về nhà ngay sau khi họ hoàn thành công việc. Trong vấn đề này, chúng tôi không có bất kỳ ý định xấu nào, nhưng kết quả không phải là những điều mà cả hai (nước) chúng ta muốn.

Cách đây không lâu, có một chuyện đã xảy ra mà chúng tôi nghĩ không phải là ngẫu nhiên: Trên đường đến Hòn Gai để lấy than đá, một con tàu Trung Quốc đã không được phép cập cảng. Nó đã ở lại ngoài khơi 4 ngày. Yêu cầu để gọi từ bờ bị từ chối. Con tàu này đang thi hành nhiệm vụ theo một thỏa thuận thương mại, không phải là một tàu chiến.

Lê Duẩn: Chúng tôi không biết điều này.

Đặng Tiểu Bình: Bộ ngoại giao của chúng tôi đã gửi một bản ghi nhớ cho các ông, nhưng chính phủ Việt Nam vẫn chưa trả lời. Những chuyện như thế này chưa từng xảy ra trong 10 năm qua.

Chu Ân Lai: Ngay cả tàu Trung Quốc yêu cầu được vào cảng Việt Nam trốn máy bay Mỹ, để được cung cấp nước ngọt và gọi điện thoại cũng bị từ chối. Một trong những cán bộ của chúng tôi, người phụ trách việc mua bán với nước ngoài, sau đó đã thảo luận với các nhà chức trách ở cảng nhiều lần, và sau đó con tàu mới có thể vào cảng của các ông. Các đồng chí phụ trách cảng Cẩm Phả thậm chí nói: Đây là chủ quyền của chúng tôi, các ông chỉ có thể vào khi được phép. Trong khi đó, chúng tôi nói rằng tất cả các tàu và máy bay của Việt Nam có thể vào các cảng và sân bay của Trung Quốc bất cứ lúc nào nếu bị máy bay Mỹ truy đuổi.

Đặng Tiểu Bình: Bây giờ, tôi muốn nói về một khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa hai đảng và hai nước. Trong số 100.000 quân lính của quân đội Trung Quốc, những người hiện nay đang ở nước các ông, có thể có người nào đó làm sai. Và về phía các ông, cũng có thể có những người muốn sử dụng những sự cố này để gây chia rẽ giữa hai đảng và hai nước.

Chúng ta nên thẳng thắn nói về vấn đề này bây giờ bởi vì điều này không chỉ là mảng tối mà còn gây một số thiệt hại trong các mối quan hệ của chúng ta. Nó không chỉ là những vấn đề liên quan đến sự đánh giá của chúng tôi về sự trợ giúp của Liên Xô. Các ông có nghi ngờ Trung Quốc giúp Việt Nam là vì mục đích riêng của chúng tôi? Chúng tôi hy vọng rằng các ông có thể nói trực tiếp cho chúng tôi biết nếu các ông muốn chúng tôi giúp đỡ. Vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng. Chúng tôi sẽ rút quân ngay lập tức. Chúng tôi có rất nhiều thứ cần làm tại Trung Quốc. Và những người lính trong quân đội đóng quân dọc theo biên giới sẽ được lệnh quay trở lại lục địa (4).

Lê Duẩn: Tôi xin trình bày một số ý. Khó khăn là sự phán đoán của chúng ta khác nhau. Theo kinh nghiệm trong Đảng của chúng tôi cho thấy, cần có thời gian để làm cho các ý kiến khác nhau đi đến sự đồng thuận.

Chúng tôi không nói chuyện công khai về các ý kiến khác nhau giữa chúng tôi. Chúng tôi chắc rằng sự hỗ trợ của Liên Xô cho Việt Nam một phần là chân thành, cho nên chúng tôi không hỏi liệu Liên Xô sẽ bán đứt Việt Nam cũng như chúng tôi không nói Liên Xô vu cáo Trung Quốc trong vấn đề vận chuyển viện trợ của Liên Xô. Bởi vì chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi nói điều này, vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn. Đó là do hoàn cảnh của chúng tôi.

Vấn đề chính là làm thế nào để đánh giá Liên Xô. Các ông đang nói rằng Liên Xô đang bán đứng Việt Nam, nhưng chúng tôi không nói như vậy. Tất cả các vấn đề khác bắt nguồn từ sự phán đoán này. Liên quan đến sự trợ giúp của Trung Quốc cho Việt Nam, chúng tôi hiểu rất rõ và chúng tôi không có bất kỳ mối quan ngại về điều đó. Bây giờ đang có hơn 100.000 quân lính của quân đội Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng chúng tôi nghĩ rằng bất cứ khi nào có chuyện nghiêm trọng xảy ra, có thể cần hơn 500.000. Đây là sự hỗ trợ từ một đất nước anh em.

Chúng tôi nghĩ rằng là một đất nước xã hội chủ nghĩa anh em, các ông có thể làm điều đó, các ông có thể giúp chúng tôi như thế này. Tôi đã có một cuộc tranh cãi với Khrushchev về một vấn đề tương tự. Khrushchev nói rằng người Việt Nam ủng hộ Trung Quốc sở hữu bom nguyên tử để Trung Quốc có thể tấn công Liên Xô. Tôi nói rằng điều đó không đúng sự thật, Trung Quốc sẽ không bao giờ tấn công Liên Xô.

Hôm nay, tôi nói rằng sự đánh giá của một đất nước xã hội chủ nghĩa đối với một đất nước xã hội chủ nghĩa khác phải dựa trên chủ nghĩa quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp của chúng tôi, [nếu] cuộc cách mạng Trung Quốc không thành công, thì cách mạng Việt Nam khó có thể thành công. Chúng tôi cần sự hỗ trợ từ tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng tôi chắc rằng sự hỗ trợ của Trung Quốc là trực tiếp và rộng rãi nhất.

Như các ông đã nói, mỗi quốc gia nên tự bảo vệ mình nhưng họ cũng nên dựa vào sự trợ giúp quốc tế. Vì vậy, chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng sự nhiệt tình của các ông có thể gây nguy hại trong bất kỳ tình huống nào. Ngược lại, các ông càng nhiệt tình sẽ càng có lợi cho chúng tôi. Sự giúp đỡ nhiệt tình của các ông có thể giúp chúng tôi cứu sống 2-3 triệu người. Đây là một vấn đề quan trọng. Chúng tôi đánh giá cao sự nhiệt tình của các ông. Một đất nước nhỏ như Việt Nam rất cần sự trợ giúp quốc tế. Sự trợ giúp này tiết kiệm cho chúng tôi rất nhiều máu.

Các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tồn tại không chỉ trong cuộc chiến tranh chống Mỹ mà còn trong tương lai dài lâu ở phía trước. Ngay cả khi Trung Quốc không giúp chúng tôi nhiều, chúng tôi vẫn muốn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc, vì điều này đảm bảo cho sự sống còn của đất nước chúng tôi.

Đối với Liên Xô, chúng tôi vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với họ. Nhưng chúng tôi cũng chỉ trích Liên Xô nếu họ tiếp nhận những lời chỉ trích của chúng tôi.

Trong quan hệ giữa hai đảng chúng ta, chúng ta cảm thấy tốt hơn khi có nhiều sự đồng thuận và chúng ta lo ngại nhiều hơn khi có ít sự đồng thuận. Chúng tôi quan tâm không chỉ về sự trợ giúp của các ông mà còn quan tâm đến một vấn đề quan trọng hơn, đó là quan hệ giữa hai nước. Ủy ban Thường trực Trung ương Đảng của chúng tôi luôn luôn nghĩ đến việc làm thế nào để tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai đảng và hai nước.

Về sự cố của tàu Trung Quốc gặp khó khăn khi vào cảng Việt Nam, tôi không biết vấn đề này. Chúng tôi không quan tâm đến vấn đề 130.000 quân lính của các ông ở nước chúng tôi, thì tại sao chúng tôi lại quan tâm đến một con tàu? Nếu đó là sai lầm của người phụ trách cảng, người này cũng có thể là một đại diện tiêu cực cố gắng kích động. Hoặc sai lầm của người này có thể được những kẻ khiêu khích khác sử dụng. Đó là một sai lầm cá nhân. Điều chúng tôi nghĩ về Trung Quốc không bao giờ thay đổi.

Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi cần phải có một nghĩa vụ đạo đức đối với các ông và đối với phong trào Cộng sản quốc tế. Chúng tôi tiếp tục đấu tranh chống Mỹ cho đến chiến thắng cuối cùng. Chúng tôi vẫn duy trì tinh thần quốc tế vô sản. Vì lợi ích của phong trào cộng sản quốc tế và tinh thần quốc tế, chẳng hề quan trọng nếu quá trình phát triển xã hội chủ nghĩa ở miền Nam Việt Nam kéo dài trong 30 hoặc 40 năm.

Tôi muốn thêm một số ý kiến cá nhân của tôi. Hiện nay, có một phong trào cải cách tương đối mạnh mẽ trên thế giới, không chỉ ở Tây Âu mà còn ở Đông Âu và Liên Xô. Nhiều quốc gia áp dụng một trong hai con đường: chủ nghĩa cải cách hay chủ nghĩa phát xít, là những quốc gia bị giai cấp tư sản cai trị. Vì vậy, tôi nghĩ rằng nên có một số quốc gia cách mạng như Trung Quốc để đối phó với các quốc gia cải cách, chỉ trích họ, và đồng thời hợp tác với họ, để dẫn họ vào con đường cách mạng.

Họ là những nhà cải cách, do đó một mặt, họ là phản cách mạng, đó là lý do tại sao chúng ta nên phê bình họ. Nhưng mặt khác, họ chống đế quốc, đó là lý do tại sao chúng ta có thể hợp tác với họ. Trong lịch sử cách mạng Trung Quốc, các ông đã làm điều tương tự. Đồng chí Mao Trạch Đông thành lập Mặt trận Thống nhất chống Nhật với Tưởng Giới Thạch.

Vì vậy, ý kiến cá nhân của tôi là Trung Quốc, trong khi giữ nguyên các biểu ngữ cách mạng, cần hợp tác với các quốc gia cải cách để giúp họ thực hiện cuộc cách mạng. Đây là phán đoán cũng như chính sách của chúng tôi. Điều này không nhất thiết là đúng, nhưng đó là cam kết của chúng tôi chân thành với cách mạng. Dĩ nhiên, vấn đề này rất phức tạp. Như các ông đã nói rằng, ngay cả trong một đảng cũng có ba thành phần: hữu khuynh, trung dung và tả khuynh, do đó, tình hình nằm trong một phong trào cộng sản lớn.

Sự khác biệt trong việc phán đoán mang lại những khó khăn, cần có thời gian để giải quyết. Cần thiết để có thêm nhiều mối liên hệ để đạt được thỏa thuận trong nhận thức.

Mối quan tâm của chúng tôi không phải là Trung Quốc đang cố gắng để kiểm soát Việt Nam. Nếu Trung Quốc không phải là một đất nước xã hội chủ nghĩa thì chúng tôi thực sự quan ngại. [Chúng tôi tin rằng] các đồng chí Trung Quốc đến để giúp chúng tôi ra khỏi quốc tế vô sản.

Đặng Tiểu Bình: Về câu hỏi về “sự nhiệt tình,” làm ơn hiểu thêm yêu cầu của Mao Chủ tịch muốn nói đến thực tế mối quan hệ giữa hai nước và các bên không đơn giản. Mối quan hệ giữa các đồng chí cũng không đơn giản.

Ghi chú:

1. Khang Sinh (Kang Sheng) lúc đó là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Đảng Cộng sản và là thành viên của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong giai đoạn đầu Cách mạng Văn hóa, ông ta sớm trở thành thành viên của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc và là cố vấn cho “Nhóm Cách mạng Văn hóa,” cơ quan hàng đầu trong cuộc Cách mạng Văn hóa.

2. Beidaihe [Bắc Đới Hà?] là một nơi tham quan ven biển phía đông bắc của Bắc Kinh, nơi các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc thường xuyên nghỉ mát và có các cuộc họp quan trọng trong mùa hè.

3. Văn Tiến Dũng (1917 -) (**) là người giữ vị trí lãnh đạo thứ hai trong quân đội Bắc Việt, sau tướng Võ Nguyên Giáp. Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1953-1978, chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh tổng tấn công năm 1974-1975. Ông là ủy viên Bộ chính trị từ năm 1972-86, Thứ trưởng cho đến khi trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1978-1980. Nghỉ hưu năm 1986.

4. Trong một cuộc trò chuyện riêng cùng ngày, Chu Ân Lai nói: “Sau khi Kosygin (***) đến thăm Việt Nam và hứa sẽ giúp đỡ Việt Nam, chúng tôi có những bất đồng mới với Liên Xô về yêu cầu của họ sử dụng hai sân bay của chúng tôi và đề nghị của họ để vận chuyển vũ khí tới Việt Nam. Các ông ca ngợi Liên Xô đã giúp viện trợ rất nhiều cho các ông thì được. Nhưng mà các ông đề cập nó cùng với viện trợ của Trung Quốc là một sự xúc phạm đến chúng tôi”. Đặng Tiểu Bình nói thêm, “Vì vậy, từ bây giờ, các ông không nên đề cập đến sự viện trợ của Trung Quốc chung với sự viện trợ của Liên Xô”.

Người dịch: Ngọc Thu

@ BaSam

———–

Ghi chú thêm của người dịch:

(*) Khrushchev: tức Nikita Khrushchev, hay Nikita Sergeyevich Khrushchyov, là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, kế vị Stalin sau khi ông này mất năm 1953. Khrushchev cũng giữ chức thủ tướng cùng với chức TBT từ năm 1958-1964. Đến năm 1964 Khrushchev bị chính những người đồng chí của mình hạ bệ, và từ đó cho đến những năm còn lại của cuộc đời, Khrushchev luôn bị sự giám sát chặt chẽ của cơ quan tình báo KGB.

(**) Bài nói chuyện này có từ năm 1966, lúc đó Văn Tiến Dũng còn sống, do đó người ghi chú bản chính không để năm mất của Văn Tiến Dũng là 2002.

(***) Kosygin: tức Aleksei Nikolayevich Kosygin là Thủ tướng Liên Xô từ năm 1964-1980, dưới thời Tổng bí thư Leonid Brezhnev.

ASEAN lúng túng trước sự hiện diện ngày càng lớn Trung Quốc trong khu vực

Anh Vũ

Trong khi Hoa Kỳ đang bận rộn với Irak và Afghanistan, thì Trung Quốc đang tăng cường ảnh hưởng lên ASEAN. Với ưu thế gần gũi về địa lý và tiềm lực kinh tế, Bắc Kinh dễ dàng tác động lên khu vực này. Tuy nhiên tham vọng của Bắc Kinh làm các nước láng giềng phải dè chừng, và cần có Hoa Kỳ làm đối trọng.

Người ta đã nói nhiều đến sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc trong thời gian qua, giờ đây dư luận lại chú ý nhiều hơn đến những ảnh hưởng của nước này trên khắp thế giới. Báo Courrier International tuần này ra số đặc biệt để nói về vai trò và ảnh hưởng của Trung Quốc qua khắp các châu lục và khu vực ngày nay.

Tờ báo trích đăng lại một loạt của các báo xuất bản ở khắp các khu vực trên thế giới, đề cập đến chủ đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó có một bài bài viết đáng chú ý liên quan đến Đông Nam Á của tờ báo Singapore, The Straits Times.

Theo bài báo thì Bắc Kinh đã biết cách tiếp cận các nước láng giềng nhỏ bé trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN bằng viện trợ hay chính sách ngoại giao khôn khéo. Các nước ASEAN không muốn bị rơi vào vòng thao túng của nước lớn, nhưng có vẻ họ vẫn lúng túng trước sự hiện diện ngày càng gia tăng của Bắc Kinh.

Trước hết về sự hiện diện của Trung Quốc trong khu vực Đông nam Á. Tác giả bài báo nhận thấy, trong lục chính quyền Hoa Kỳ đang phải bận rộn với mặt trận Irak và Afghanistan không quan tâm nhiều đến ASEAN thì Trung Quốc thúc đẩy tăng cường ảnh hưởng của họ lên 10 nước thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, cố gắng xây dựng một mối quan hệ « cộng sinh » với khối này.

Bài báo cho biết trao đổi mậu dịch giữa cường quốc Trung Hoa và các nước trong khu vực đã tăng từ 45,5 tỉ đô la năm 2001 lên 193 tỉ trong năm 2008. Bắc Kinh còn đi xa hơn, ký với ASEAN một hiệp định tự do mậu dịch CAFTA cho phép miễn thuế 7000 mặt hàng trao đổi giữa hai bên. Hiệp định đã bắt đầu có hiệu lực từ đầu tháng giêng năm nay, trước mắt áp dụng với Trung Quốc, Brunei, Indonesia, Malaisia, Thái lan và Singapore, đến năm 2015 sẽ mở rộng ra đối với những nước như Cam Bốt, Lào, Miến Điện và Việt Nam.

Năm ngoái Bắc Kinh còn dành ra 25 tỉ đô la để viện trợ cho các nước trong khu vực. Bên cạnh quan hệ kinh tế đang ngày càng phát triển, tác giả bài báo cũng ghi nhận thấy Bắc Kinh còn sử dụng « quyền lực mềm » như cấp học bổng một cách dễ dãi cho các sinh viên của khu vực sang du học tại Trung Quốc, rồi các viện nghiên cứu Khổng Tử mọc nên như nấm ở trong vùng.

Tác giả bài báo nhận định, với ưu thế về khoảng cách vị trí địa lý và tiềm lực kinh tế thì Trung Quốc có thể dễ dàng gia tăng ảnh hưởng lên khu vực này. Tuy nhiên sự hiện diện ngày càng sâu rộng cùng với những tham vọng của Trung Quốc trong khu vực không phải cứ thế thuận buồm xuôi gió.

Thời gian gần đây các nước láng giềng đã mạnh mẽ chỉ trích việc Trung Quốc cho xây dựng đập nước trên thượng nguồn sông Mêkông, gây ra tình trạng nước sông Mêkông cạn kiệt.

Hà Nội thì ngày càng tỏ ra khó chịu về những hành động áp đặt chủ quyền trên biển Đông của Bắc Kinh, đặc biệt là đối với quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1974. Trong khi đó, dù là đồng minh thân cận của Trung Quốc, nhưng chính quyền Miến Điện vẫn tỏ ra dè chừng với Bắc Kinh kể từ khi xảy ra vụ xung đột giữa quân đội chính phủ với nhóm sắc tộc thiểu số Kokang, khiến hàng chục ngàn người gốc Hoa phải bỏ chạy về bên kia biên giới, và Trung Quốc đã triển khai quân đội dọc đường giới.

Trên khía cạnh kinh tế, các nước như Indonesia, Malaisia, Thái Lan và Philipin đang tỏ ý lo ngại việc áp dụng hiệp định tự do mậu dịch với Trung Quốc sẽ gây thiệt hại đến sự cạnh tranh hàng hóa của các nước này. Jakarta thậm chí còn đang tìm cách thương lượng lại về thời hạn của thỏa thuận này.

Tâm lý bài Trung Quốc đã có từ một thế kỷ nay

The Straits Times nhận thấy, thái độ dè chừng của các nước ASEAN bắt đầu thể hiện qua lĩnh vực quân sự. Theo tác giả bài báo thì cuộc chạy đua vũ trang gia tăng hiện nay trong các nước ASEAN là bắt nguồn từ những căng thẳng trong khu vực, mà trọng tâm là mối đe dọa đến từ cường quốc Trung Hoa. Trong những tháng qua, Việt Nam và Miến Điện có thể đã hoàn tất một số hợp đồng mua sắm vũ khí của Nga.

Vẫn theo tác giả bài báo, thì tâm trạng bất an hiện nay của các nước Đông Nam Á hiện nay có nguồn gốc từ tâm lý bài Hoa có từ hàng trăm năm qua, bởi các hoàng đế Trung Hoa xưa kia vốn coi các nước nhỏ trong khu vực là nhược tiểu chư hầu của họ.

Tờ báo cũng nhắc lại rằng, nếu như vị trí sát cạnh Trung Quốc có thể đem lại lợi ích nhất định về kinh tế; nhưng các nước có đường biên giới chung với nước lớn này cũng đã nhiều lần phải hứng chịu âm mưu thôn tính, bành trướng của họ. The Straits Times viết : Người Việt Nam sẽ không bao giờ quên được vụ năm 1979, khi đó 250 nghìn lính Trung Quốc được Đặng Tiểu Bình huy động tràn sang « dạy cho Việt Nam một bài học ». Ngoài ra cũng chẳng cần phải nhắc lại các nước ASEAN vẫn không quên được chính đảng Cộng sản Trung Quốc đã hậu thuẫn cho các nhóm quân cộng sản nổi dậy chống lại chính quyền của họ.

Tờ báo khẳng định, chính lịch sử đã thúc đẩy ASEAN phải tìm kiếm sự cân bằng quyền lực trong vùng. Ai làm được việc này ? Để kết luận bài báo trích phát biểu của ông Lý Quang Diệu, cố vấn đặc biệt của Singapore trong chuyến đi thăm Mỹ năm ngoái :

«Với tầm cỡ hiện nay của Trung Quốc, trong vòng hai ba chục năm tới, không có nước châu Á nào, kể cả Nhật Bản, Ấn Độ có thể làm đối trọng cân bằng sức mạnh. Vì vậy mà chúng ta cần Hoa Kỳ để tạo lập thế cân bằng ».

@ RFI