Tùy bút nổi tiếng của Thạch Lam

Ðây là một tập ký sự, tùy bút nổi tiếng của Thạch Lam vào khoảng 80 trang, ông và Nguyễn Tuân là những người đầu tiên xử dụng lối viết tùy bút, hai ông là người đã có công đặt nền móng xây dựng thể văn này. Tập tùy bút được viết năm 1941, sau khi Thạch Lam mất (tháng 6/năm 1942) mới xuất bản.
Trong phần mở đầu ông nói người Pháp có Paris, Anh có Luân Ðôn, Tầu có Thượng Hải. . chúng ta có Hà Nội, một thành phố có nhiều vẻ đẹp và được người dân yêu mến, những người ở phương xa cũng ngóng về Hà Nội, ông nói đến Hà Nội để có tiếng vang ra khắp mọi nơi. Tập tùy bút này rất phổ biến tại học đường cũng như trong giới độc giả vì có những nét bình dị lại đặc sắc, tôi đã được đọc từ hồi còn là học sinh trung học. Toàn Bộ vào khoảng hơn hai mươi bài được xếp theo thứ tự như sau.
NHỮNG BIỂN HÀNG
Các biển hàng của phố Hàng Ðào lấy tên loài vật như Trâu Vàng, Bò Vàng, Cá Chép Vàng. . . toàn là những con vật hiền lành. . . ở đây lần đầu tiên trong văn nghiệp, Thạch Lam dùng lối văn châm biếm, hài hước (comedy), trong tất cả các tác phẩm của ông, người ta luôn luôn thấy ở như ông một bút pháp ung dung, đạo mạo, nghiêm túc. . trong Tự Lực văn đoàn Khái Hưng là người dùng lối hài kịch nhiều nhất, những tác phẩm chính của ông như Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Băn Khoăn, Tiêu Sơn Tráng Sĩ . . . đều có pha những đoạn vui tươi dí dỏm, Số Ðào Hoa là tập truyện hài hước vui nhộn nhất. Suốt thập niên 30 Nhất Linh không hề viết đến một câu hài ước, mãi sau này sang thập niên 50 ông mới xử dụng lối viết hài kịch trong Giòng Sông Thanh Thủy và Xóm Cầu Mới.
NGƯỜI TA VIẾT CHỮ TÂY
Thạch Lam chỉ trích và châm biếm người mình dùng tiếng Tây để viết các biển hàng một cách tế nhị kín đáo để che mắt bọn kiểm duyệt. Ông chế riễu những người dốt hay chơi chữ, viết chữ Tây bồi “La Mode, tailleur de luxe, D.P.T tailleur de luxe (Hàng Gai), Tr. Tailleur de luxe (Lê quí Ðôn) (ông này viết là luxe không có e ý chứng tỏ ra luxe một bậc nữa).
Hoặc như .
Ấy là mới dạo qua một vài phố đông đúc, chúng ta đã được đọc nhiều câu chữ Pháp lạ lùng như thế rồi. Ở các hang cùng ngõ hẻm, đối với người tò mò, hẳn còn tìm thấy nhiều cách áp dụng chữ Pháp một cách thần tình hơn nữa.
Nhưng ngẫm nghĩ kỹ ra thì cũng chẳng nên lấy làm lạ, vì ở một xứ có tờ báo (nghĩa là do hạng trí thức viết) dịch Hôtel de ville là khách sạn của thành phố và Stars à Hollywood là dân tộc Star ở Mỹ Châu thì các ông chủ hiệu trên kia còn là giỏi nhiều.
Chữ Hôtel de ville nghĩa là Tòa thị sảnh, Stars à Hollywood là minh tinh Hồ Ly Vọng. Thạch Lam không ưa những hạng người dởm, mới giầu lên mặt, những người mất gốc quên truyền thống.
HÀ NỘI BA MƯƠI SÁU PHỐ PHƯỜNG
HÀNG MỨT, HÀNG ÐƯỜNG, HÀNG MUỐI TRẮNG TINH
Hà Nội đã thay đổi, phố cũ thò ra thụt vào đã được sửa thành những phố gạch thẳng, rộng rãi; đó là biểu hiện của văn minh rất tiện cho việc lưu thông. Thạch Lam là người có tâm hồn hoài cổ như Nguyễn Tuân, ông tỏ ra tiếc nhớ cái vẻ đẹp vang bóng một thời đã qua của nó.
Khi ông cầm lái chiếc ô tô thì ông lấy làm dễ chịu vì đường rộng, vì phố thẳng lắm. Nhưng với người tản bộ đi chơi, lòng thư thả và mải tìm sự đẹp, thì phố xá mới không có thú vị gì. Không có những cái khuất khúc dành cho ta nhiều cái bất ngờ, không có một ngọn hoa nhô ra sau bức tường thấp, khiến chúng ta đoán được cả một thửa vườn nhỏ bên trong, ở đấy biết đâu lại không thướt tha một vài thiếu nữ khuê các như xưa.
Nhìn mấy ngọn cỏ trên mảnh tường Ô quan chưởng, Thạch Lam nhớ tới dấu vết Hà Thành cũ, ông cho rằng người ta ở gần nhau, ăn ở với nhau thân mật hơn. Thỉnh thoảng bây giờ Hà Nội bây giờ còn vài căn nhà cũ, giữa nhà có mảnh sân lộ thiên, bể non bộ, cá vàng, bể nước, câu đối trên tường. . . nhìn qua cánh cửa hé mở tác giả nhìn thấy cuộc đời của những kẻ bên trong, cuộc đời xưa với những ý nghĩ cũ.
Tất cả cuộc đời của những kẻ bên trong, cuộc đời xưa, những ý nghĩ cũ, những hy vọng và mong ước khác bây giờ.
Không còn gì của Hà Nội ngoài năm sáu mươi năm trở về trước. Thăng Long của vua Lê, của chúa Trịnh, không còn dấu vết nào: đâu còn những cung điện ngày xưa, những phụ đế của các bậc công hầu khanh tướng?
Mặc dù hồi ấy ở lứa tuổi trung niên, còn rất trẻ, Thạch Lam lại mang tâm tư của những bậc trưởng thượng tiếc nhớ cái vang bóng một thời của một thuở xa xưa.
Trước đây đề biển hàng phải chọn ngày tốt, phải xin chữ của những người viết giỏi. Nhưng bây giờ người ta đã xóa đi để thay bằng lối chữ vuông tân thời, chữ điện màu đêm đêm sáng ngời. Thạch Lam tỏ vẻ không hài lòng với sự thay đổi ấy, ông cho là lạ lùng đôt ngột.
Một dạo ở ngay công viên đền Ngọc Sơn người ta dựng một cột dây điện chằng chịt làm mất vẻ đẹp của đền, của Hà Nội. Người ta xây một cái bóp cảnh sát ở Quan Thánh hình vuông, làm mái cong trang điểm lối cũ, làm giảm vẻ đẹp của ngôi đền đi nhiều.
Nhưng cái chùa giả ấy -trong đó thầy cảnh sát thay nhà sư-không đánh lừa được ai hết, nhất là người yêu mỹ thuật, yêu Hà Nội, yêu cái vẻ cổ kính của đền chùa.
Ông cứ tiếc mãi nếu người ta đặt nó bên kia đường thì hay biết mấy, với tâm hồn nghệ sĩ, Thạch Lam chỉ quan tâm đến cái đẹp, ông châm biếm những sự đổi thay làm mất mỹ thuật.
QUÀ HÀ NỘI
Quà Hà Nội có tiếng và lịch sự, ở thôn quê người ta lên Hà Nội mua về cho người nhà, con cháu, món quà đem đến cho khắp nơi các vị sành và trang nhã của băm sáu phố phường.
Sang phần này, Thạch Lam nói về các hàng quà, các món ăn ngon của Hà Nội. Sự thực không riêng gì Hà Nội mới có các món ăn ngon, các nơi khác cũng đều có cả như Sài Gòn có phở Tầu Bay, phở gà Hiền Vương, mì Cây Nhãn. . Ðà Lạt có phở Bằng, cà phê Tùng. . nhưng cái hay ở chỗ tác giả đã biến cái thú ăn thành một nghệ thuật, một thứ văn hoá thanh cao, cách thuật sự khéo léo, hài hước một cách duyên dáng đã khiến cho người ta dù chưa nếm thử cũng tưởng như được thưởng thức những hàng quà tuyệt ngon của Hà Nội. Thạch Lam đã đưa ẩm thực nên hàng một nghệ thuật cao, các nhà phê bình nhìn nhận ông đã tìm ra được cái hay cái đẹp trong những sự vật tầm thường. Trong cuốn Theo Giòng, Thạch Lam nói.
Thật hoa là đẹp, liễu có vẻ nên thơ, không ai chối cãi điều đó. Nhưng cái đẹp chỉ cứ ở hoa ở liễu thôi đâu? Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngời tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức.
Ở đây, Quà Hà Nội, tác giả đã thực hiện chính cái nguyên tắc mà ông đã đề ra, đi tìm cái đẹp tiềm ẩn trong những sự vật tầm thường như cháo, xôi, bún ốc. .
HÀNG QUÀ RONG
Người Hà Nội khi về các tỉnh nhỏ hay Hải Phòng ăn uống mới có dịp so sánh để thấy quà Hà Nội ngon biết chừng nào.
Cũng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, bún ấy, thế mà sao bún chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi.Theo ông người sành ăn phải biết chọn người bán và quà chính tông như bánh cuốn phải là bánh cuốn Thanh Trì, mỏng như tờ giấy, vị bánh thơm, bột mịn dẻo, bánh chay thanh đạm, bánh mặn đậm vì chút mỡ hành.
Mùa nực thì hàng xôi cháo, xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng . . chỉ nghe cách mô tả người đọc cũng đã tưởng ra cái hương vị ngon rồi.
Và có ai ngẫm nghĩ kỹ các vị hành khô chưng mỡ ở trong bát ngô nếp bung non; hàng giòn và thơm phức, những hạt ngô béo rưới chút nước mỡ trong.
Ăn là một nghệ thuật, cả cách bán hàng, bầy hàng dưới ngòi bút của Thạch Lam cũng trở thành một nghệ thuật.
Cơm nắm từng nắm dài, to nhỏ có, nằm trên chiếc mẹt phủ tấm vải mầu trắng tinh để che ruồi, muỗi. Con dao cắt, sáng như nước và lưỡi đưa ngọt như đường phèn. Cơm cắt ra từng khoanh, cô hàng lại cẩn thận gọt bỏ lớp ngoài, rồi lại cắt ra từng miếng nhỏ vuông cạnh và dài, để bầy trên đĩa. Cô muốn sơi với gì? với chả mới nhé hay dò lục mịn màng?
Về phở ông nói: phố Ga, phố Hàng Cót, phố Ô Quan Chưởng, phố Cửa Bắc. . theo ông chỉ có gánh phở trong nhà thương là ngon: bát phở đầy đặn và tươm tất, nước thì trong lúc nào cũng nóng bỏng, rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, điểm chút cà cuống. Ăn không phải là một sự phàm phu tục tử như người ta thường nghĩ, trái lại theo ông là một nghệ thuật cao.
Chung quanh nồi nước phở. . tụm năm tụm ba. . các bệnh nhân. . các thầy y tá. . chừng ấy người đều hợp lòng trong sự thưởng thức món quà ngon, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật đáng kính.
Hà Nội có hàng mì mằn thắn, người Tầu làm thì ngon, có một chú khách bán mì nước trong rất ngọt, ăn mãi không chán, người mua ngày một đông, chú bán hàng trở nên giầu có, của ngon thì người ta ăn, đắt rẻ không quan trọng, người mình hay làm tồi để đánh lừa người mua nên buôn bán thua người Tầu. Chú Khách giầu to, mở cao lâu, đánh bạc, vỡ nợ, tay trắng lại gánh hàng mằn thắn như cũ, vẫn rao hàng tươi cười.
Ðó là một tấm gương mà chúng ta lại càng nên theo nữa.
Thạch Lam cảm phục người Tầu về cách thức làm ăn của họ và có ý chê trách người mình làm ăn kém họ.
VẪN QUÀ HÀ NỘI
Quà mặn còn nhiều: Bún riêu, bún chả, thang cuốn, nem chua, miến lươn, bún ốc. . . . tác giả thích nhìn người ta ăn bún ốc.
Người ta xúm lại ăn quà bún ốc một cách mới ngon lành làm sao.
Cô hàng ốc thoăn thoắt rút ốc bán không kịp, Thạch Lam nói nhà mình làm lấy các món bún riêu, thang cuốn. . . dù khéo tay đến đâu cũng không hàng quà rong, không ai tìm ra cái triết lý này.
Cách diễn tả gợi hình của Thạch Lam như đem cái hương vị của món ăn lại cho người ta quan chiêm thưởng thức, thêm chút hài hước khiến nghệ thuật càng thêm duyên dáng.
Khi ngồi cuối chiều gió, đói bụng mà đón lấy cái khói chả thơm, thì ngài dễ thành thi sĩ lắm. Khói lam cuộn như sương mờ ở sườn núi, giọt mỡ chả sèo sèo trên than hồng như một tiếng thở dài và tiếng quạt khẽ đập như cành cây rung động, quà bún chả có nhiều cái quyến rũ đáng gọi là mê hồn, nếu không là mê bụng.
Giọng ông nửa đùa nửa thật khi so sánh món ăn với văn chương chữ nghĩa, cái ăn không còn bị rẻ rúng như một sự phàm phu tục tử mà đã thành một nghệ thuật cao.
Ai là người đầu tiên đã nghĩ ra bún chả? Người ấy đáng được chúng ta nhớ ơn và kính trọng ngang hay là hơn với người tạo nên được tác phẩm văn chương . . . Có lẽ người kia còn làm ích cho nhân loại hơn là người này nữa. Tiếc thay tên người tài tử đó thất truyền, để không liệt kê vào cái sổ vàng của những danh nhân “thực vi đạo”.
Lần đầu tiên Thạch lam xử dụng lối viết hài kịch (comedy) nhưng lại rất duyên dáng dễ thương. Nói về ẩm thực không thể trịnh trọng đạo mạo triết lý cao siêu được, ở đây nghệ thuật hài hước của ông có tính nửa đùa nửa thật lại rất gợi hình, nghe ông tả thật muốn nuốt nước bọt.
Thứ bún để ăn bún chả, sợi mảnh và cuộn từng lá mỏng, khác với các thứ bún thường. Chả phải thịt ba chỉ, mà phải dùng cặp tre tươi nướng mới ngon. Quái sao cái nước chấm của các hàng bún chả ngon thế.
PHỤ THÊM VÀO PHỞ
Người ta hay đổi phở tưởng là tiến bộ hơn như là phở gà, hoặc thay đổi gia vị, thêm húng lìu, dầu vừng, đậu phụ. . . gọi là phở cải lương, Thạch Lam chủ trương phở cũ mới ngon, ông trung thành với phở cổ điển cũng như người thích nghe chèo cổ đúng điệu xưa.
Nhưng cái thứ phở thực cũng như bản tuồng. Ðể nguyên tuồng chèo cổ thì hay, chứ đã pha cải lương vào thì hỏng bét.
Thật vậy cho tới nay đã hơn nửa thế kỷ qua, phở vẫn giữ nguyên trạng cổ điển của nó, các sự thay đổi đều không đi tới đâu, riêng về phở tới nay vẫn giữ y nguyên như cũ vì nó đã quá ngon rồi.
Kẻ viết bài này vẫn trung thành với lối phở cổ điển cũng như ưa nghe tuồng chèo giữ đúng điệu xưa.
BỔ KHUYẾT
Thạch Lam chấm dứt bài quà bún thì một bà sành ăn lại trách ông không nói đến bún bung nên ông lại phải bổ xung thêm vào đây: Bún bung nấu với sơn hà tức dọc mùng, ăn đậm ngọt.
Cái thứ rau này sao mà đi với bún hay thế! Tựa như trời sinh ra để nấu bún.
Dưới con mắt nhà nghệ sĩ lãng mạn yêu đời như Thạch Lam, món ăn mà người đời cho là miếng tồi tàn ở đây đã trở thành bài thơ tuyệt diệu, một bản nhạc du dương.
Một vài miếng đầu mẩu sườn để lấy nước ngọt, một ít nghệ để nhuộm cái thức ăn ấy một mầu vàng đầm ấm như mầu vàng của ráng chiều những ngày mùa hạ. . . . . . . .
. . . . Thế là bát bún bung không biết bao nhiêu vị điểm lẫn cho nhau như các tiếng của một bản đàn.
BÚN SƯỜN VÀ CANH BÚN
Thạch Lam từ một nghệ sĩ sành ăn đã tiến dần đến nhà nghiên cứu ẩm thực, ông đã phân tích kỹ càng từng loại bún: nào bún chả, bún bung, rồi lại đến bún sườn và canh bún: Bún sườn cần nước cho ngọt, hiền lành không sắc sảo, canh bún thì.
Cao hơn một bậc vì có rau cần sánh và gắt, và nhất là có cá rô con, lạng từng miếng một. . . . Thịt rô ấy đem lại cho thức ăn một vị đậm ngọt khác thường.
“MÌN PÁO” VÀ “GIẦY GIÒ”
Trong đoạn này Thạch Lam nói về hai món ăn về khuya: bánh tây chả của một bà Quảng Ðông bán vào giờ khuya cho những người cờ bạc, hút sách. . . không ngon nhưng chắc bụng, nhiều người mua, bà hàng hốt bạc. Ngoài ra đêm khuya, bác hàng bánh “giầy giò” đi lủi thủi trong các ngõ hẻm như một bóng ma, hàng của bác không ngon, cuộc đời của bác dưới ngòi bút Thạch Lam lộ vẻ hẩm hiu sầu thảm.
. . . Cả cái thức quà của bác cũng vậy: mấy khoanh giò nguội, mấy chiếc bánh giò chua, ăn lạnh như sương trên mồ người chết. Cho nên bác cứ đi như thế, lẩn lút ở các ngõ tối đêm khuya, chả mong bán được mà cũng chả mong ế, lặng lẽ và chán nản như một linh hồn có tội.
Ở đây ta lại thấy phảng phất cái không khí bi kịch cuộc đời trong các truyện ngắn của Thạch Lam.
CÒN QUÀ HÀ NỘI.
Bánh cuốn “hai mươi bốn gian” tại một xóm cô đầu, đó là một căn nhà lá, một bà già và hai cháu nhỏ làm bánh nóng sốt trên một cái nối nóng cho khách chơi về khuya, không ngon cho lắm song rất đắt hàng.
Theo ông bánh muốn ngon phải làm lấy.
. . cốt bánh thì dùng bánh Thanh Trì, thứ bột dẻo và thơm. . . nhân thì một ít thịt nạc vai nửa nạc, nửa mỡ, mấy cái nấm hương, mọc nhĩ, ít tôm tươi Hồ Tây, thêm mấy nhát hành. . bỏ vào nồi hấp. .
Chỉ nghe cách ông diễn tả đã thấy hấp dẫn rồi.
Về quà ngọt thì có lục tầu xá, chẻ sen do ngườii mình bán, giá đắt ít người mua. Mùa hạ thì mua chè đậu đen của các cô gánh sau phố Sinh Từ rất mát ruột. Gần Hàng Buồm, chỗ mấy người hút thuốc phiện có món bánh trôi nước. Muốn nhuận trường thì ăn chè khoai.
NHỮNG THỨ CHUYÊN MÔN
Những thứ quà riêng từng vùng trước có nhiều: Ninh Giang có bánh gai, Yên Viên có bánh giò. . Những thứ ấy có nơi còn giữ cái tiếng ngon, nơi thì không . Người sành ăn ngày một ít nay họ chỉ ham rẻ, người làm thì giả dối. Thạch Lam đặt nghệ thuật ẩm thực lên một địa vị rất cao:
Biết ăn, tức đã là một điều tiến bộ lớn trong các điều tiến bộ, nếu không phải là trong hàng những điều quan trọng nhất.
Hà Nội cũng có những thức chuyên môn riêng của băm sáu phố phường:
Bánh cốm Hàng Than ngon, không đắt, gợi ta những kỷ niệm nhiều mầu, đó là bánh cưới bọc lá chuối xanh, dây lạt đỏ, hết sức ngọt để hình dung cái đằm thắm của tình vợ chồng. Bánh cốm đi đôi với bánh xu xê làm bằng bột vàng trong như hổ phách. Tác giả ưa những món ăn có hình sắc đẹp đẽ, dưới con mắt nghệ sĩ của ông cái đẹp lúc trông ngắm giúp nhiều cho cái thưởng thức lúc ăn lắm. Bánh cốm và bánh xu xê Hàng Than nổi tiếng phắp Bắc Kỳ.
BÁNH ÐẬU
Bánh đậu Hải Dương khô, bột như phấn nay không còn nữa. Ở Hà Nội người ta làm một thứ bánh đậu ngon hơn, bánh đậu ướt có mỡ để ăn với trà tầu. Bánh ngon nhất của Hàng Bạc, Hàng Gai. Nay hai phố cạnh tranh nhau lấy tiếng, nay còn phố Hàng Ðào, Hàng Ðường nữa. Nào hiệu Ích Nguyên, Giu Nguyên, Thanh Quang, Ngọc Anh. .
BÁNH KHẢO KẸO LẠC.
Bánh khảo Cự Hương là nhất. Ngọc Anh đã có tiếng ra vẻ uể oải không cần khách, theo Thạch Lam người mình giầu rồi thường không cố vươn lên nữa. Người mình làm bánh không thua gì Tầu nhưng thua cái chí. Ngày Trung thu, người mình xô nhau đến mua bánh Ðông Hưng Viên của Tầu, chen nhau như họp chợ, mấy chú bán hàng ra vẻ không cần, ăn nói hỗn láo.
Người Việt Nam mình- nghĩa là ông với tôi-nhẫn nhục và kiên nhẫn cũng nhiều lắm.
MỘT THỨ QUÀ CỦA LÚA NON: CỐM
Các món quà của Hà Nội từ phở, mì, đến bún chả, canh bún, bánh Tây, giầy giò. . . Bánh đâu, bánh ngọt, xu xê. . . đã được Thạch Lam điểm qua tỉ mỉ bằng giọng văn hài hước nhưng nghệ thuật, món ăn đã trở thành những tác phẩm để thưởng thức. Tác giả thể hiện niềm vui yêu đời trong thưởng thức, món ăn được coi như những chất liệu tô điểm cuộc đời thêm phong phú. Thạch Lam tỏ ra cây viết nhiều sáng tạo trong một đề tài mới lạ, những cái tầm thường đã được ông khoác lên bộ áo nghệ thuật, đáng yêu, ông cũng đã tìm ra được những cái hay cái đẹp trong những sự vật tầm thường. Theo ông ẩm thực không phải chỉ là ăn cho khoái khẩu mà sự quan chiêm, ngắm nhìn cũng rất quan trọng, nó tăng cái vị ngon thơm cho sự thưởng thức.
Một nghệ sĩ thanh bạch như Thạch Lam chỉ yêu những món ăn bình dân như hàng rong, phở gánh và ông đã dùng lối thuật sự hài hước cho thích hợp với khung cảnh, nội dung của đề tài. Nhưng ở đây sang đến phần cốm, ông đổi hẳn giọng văn từ vui tươi, dí dỏm sang giọng đạo hẳn lên thể hiện sự trang nghiêm, kính cẩn mà ông dành cho một thức ăn cao quí.
Cơn gió mùa thu hạ lướt qua vùng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn ngửi thấy, khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị của ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quí trong sạch của trời.
Từ hồi còn là học sinh lớp nhất bậc tiểu học và đệ thất trung học, tôi đã được nghe nhà trường giảng dậy áng văn thanh nhã này, nhưng nay mỗi lần đọc lại, tôi không khỏi bùi ngùi xúc động vì cái thanh cao thơm tho tuyệt diệu của nó. Tôi tưởng như được thưởng thức cái hương vị ngọt ngào của cơn gió lướt qua mặt hồ mùa hạ.
Người đọc ai mà chẳng cảm phục sự quan sát tỉ mỉ và những nhận xét phong phú đầy sáng tạo của tác giả, nó vừa là một thiên khảo luận giá trị, hữu ích, vùa là một áng văn tao nhã tuyệt vời của nền văn chương Việt Nam.
Nhiều nơi cũng biết làm cốm nhưng chỉ có làng Vòng ở Hà Nội là biết chế biến thơm ngon và dẻo hơn hết.
Tiếng cốm Vòng đã lan khắp tất cả ba kỳ, và đến mùa cốm, các người của Hà Nội 36 phố phường vẫn thường ngóng trông cô hàng cốm xinh xinh, áo quần gọn ghẽ, với cái dấu hiệu đặc biệt là cái đòn gánh hai đầu cong vút lên như chiếc thuyền rồng. .
Cái món ăn tinh khiết ấy qua ngòi bút diễn tả của Thạch Lam đã được Hà Nội 36 phố phường trân trọng quí hóa là nhường nào, cứ mỗi năm mùa cốm đến là ngóng trông các cô hàng cốm để được thưởng thức cái hương vị thanh cao ấy. Tâm hồn nghệ sĩ Thạch Lam cũng gắn liền với truyền thống bản sắc dân tộc, diễn tả một thức ăn ông cũng đồng thời ca ngợi những cái thanh cao nhất mà chỉ quê hương ta mới có:
Cốm là thứ quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam
Hồng và cốm tốt đôi, mầu xanh của cốm và đỏ thắm của hồng đã kết hợp nhau thành một quà sêu tết, hợp với lễ tơ hồng nhưng tiếc thay theo ông những tục lệ cổ nay đã bị mai một đi.
Thật đáng tiếc khi chúng ta thấy những tục lệ tốt đẹp ấy mất dần và những thức quí của mình thay dần bằng những thức bóng bẩy hào nhoáng và thô kệch bắt chước người ngoài.
Những cái hay, cái đẹp nay còn đâu? Chỉ còn lại cái tiếng vang, vang bóng một thời như để thể hiện cái tâm trạng u uất của những nhà nghệ sĩ hoài cổ như Thạch Lam.
Tác giả có một cái nhìn trân trọng khi nói về cốm, một đặc sản của dân tộc Việt Nam. Ăn cốm theo ông phải thư thả, từ tốn và ngẫm nghĩ y như nghệ thuật uống trà của người Nhật để thưởng thức hết cái thanh cao của nó:
Lúc bấy giờ ta mới thấy thu lại cả trong hương vị ấy, cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ. Trong mầu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc.
Hành văn trang trọng, thi vị và gợi hình thể hiện được tất cả cái phong vị thanh khiết, hương thơm ngạt ngào của lá sen, lúa mới, cốm là một thứ quà của lúa non, cốm đã được dư luận chung coi như một tùy bút tuyệt vời trong văn chương Việt Nam ngang hàng với Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân.
QUÀ TỨC LÀ NGƯỜI
Theo tác giả những tục lệ đẹp nay mất dần, sự sành ăn, cái thưởng thức của người dân nay kém sắc sảo. Nay mới ra đời những thứ nhạt và tanh như kem Việt Nam, Hải Phòng, Thượng Hải, chè Trân châu glacé, thịt bò khô đu đủ. . mà tác giả cho là bẩn thỉu và đôc hại.
VÀI THỨ CHUYÊN MÔN NỮA
Bánh tôm nóng thời học sinh, ông và bọn trẻ xúm quanh chảo mỡ nóng của bác bánh tôm, lúc ấy đương mùa rét. . . bọn trẻ ăn bánh lúc còn nóng hổi, bỏng cả miệng, ngon chừng nào! Mỗi tuổi có một cái thích, nay không còn nữa.
Bánh bò chê của chú khách ở mấy phố gần trung tâm Hà Nội: Hàng Bè, Hàng Bạc, Hàng Buồm . . bánh của chú ăn rất nhẹ nhàng, dễ tiêu, ngòn ngọt thơm thơm, người mình làm bánh bò kém lắm, không bằng họ.
Trong y phục, trang sức, văn chương có cái mốt, việc ăn uống cũng vậy, những món quà của ta phần nhiều có từ xưa, có nền nếp qui củ rồi. . nếu mai một đi, người sành ăn sẽ phải ngậm ngùi, những cái gia truyền mất dần đi, Thạch Lam thổ lộ tâm tình hoài cổ của mình, ông khôi phục vị trí của cái ăn và kết luận.
Chúng ta đã khinh bỉ cái ăn, cái uống quá, tuy không tự thú rằng những cái đó là cần, rằng tự mình vẫn thích. Giờ đến lúc phải nên thẳng thắn và thành thực: Trọng cái mình yêu và công nhận cái mình thích.
NHỮNG CHỐN ĂN CHƠI
Muốn biết một thành phố phải biết những chốn ăn chơi. Biết ăn, chơi không phải dễ, vì sự ăn chơi ở nước ta bị khinh miệt nên cách ăn chơi của người mình luộm thuộm, tục tằn.
Tác giả nói về chợ Ðồng Xuân, chợ của người Hà Nội, là một bức tranh linh hoạt lắm mầu.
CHỢ MÁT BAN ÐÊM
Bắt đầu từ ba giờ khuya. Khi đường phố yên tĩnh vắng lặng, những người trồng bán rau gánh hàng vào từ những nơi cách xa Hà Nội mấy cây số: Ðủ các thứ rau quả: su hào, củ cải đỏ thắm, cà rốt vàng như da cam, sà lách. . .
Họ gánh hàng bầy trước chợ ngay trên đường nhựa, một phiên chợ mát mẻ, tươi non. . những thức hàng ấy không đợi ánh sáng gay gắt ban ngày nên trước khi trời sáng thì chợ xanh đã tàn.
BÀ CỤ BÁN XÔI
Trong khi chợ mát ban đêm họp, người bán mua lại kéo thêm một số hàng khác. Hàng phở nóng trước chợ, hàng xôi, bánh cuốn nóng, bánh tây chả. Các thầy đội xếp đi tuần, những người xem xi nê về, dân thuốc phiện ở tiệm ra. . lại hàng xôi phố Hàng Khoai, xôi vò, xôi đỗ, xôi lạc . . . Bà cũng chiên cơm, chiên cá, chiên trứng bán. . trông mấy bác phu xe ngồi ăn, Thạch Lam bèn tô điểm hoạt cảnh bằng những nét đầy nghệ thuật.
Nhấp một vài chén rượu, thong thả gặm một mảnh vó bò may còn dính nhiều thịt, vo tròn nắm xôi trong tay trước khi đưa lên miệng, họ có cái sung sướng của nhà nghệ sĩ thưởng thức áng văn hay (có lẽ họ là những nghệ sĩ không biết). Mà nếu hôm ấy buổi xe lại có lãi, thừa được vài hào, thì cái thú của họ thực là vô cùng tận.
HÀNG NƯỚC CÔ DẦN
Cô Dần là một thiếu nữ còn trẻ, đảm đang một mình trông coi cửa hàng nước trước chợ Ðồng Xuân: của hàng nghèo nàn, vài miếng trầu, vài phong thuốc lào, bao thuốc bán lẻ, vài bát uống nước . . . cô bán nước chè uống sôi nóng dù trời rét hay nóng, ai uống nước đường đã có cốc thủy tinh .
Hàng cô Dần đông khách, bán không kịp, kẻ đứng ngồi vòng quanh, đặc biệt là không có ghế. Khách chỉ ngồi sổm gồm những bác phu xe, vài thầy đội xếp uống trên xe đạp.
Hàng nước đắt vì các thứ quà bánh mà cũng vì cả cô hàng, cô hàng nước Việt Nam dù dưới bóng cây đa hay bên ruộng lúa. . miệng cười tươi luôn chiếm địa vị trong lịch sử văn chương.
Cô Dần nhũn nhặn, giản dị, xinh xắn.
CÁC HIỆU CAO LÂU KHÁCH
Những chốn ăn chơi Hà Nội là nhất Bắc kỳ, Ðông Dương, những hiệu cao lâu có tiếng đều là của người Tầu, những quán từ hồi vua Lê, chúa Trịnh bây giờ không còn vết tích gì.
Hàng Buồm có hiệu Mỹ Kinh, Hàng Trống có cao lâu Tử Xuyên , Hàng Bông có Vân Nam tửu gia, Tự Hưng Lâu , Ðại Á Tế Á. . . người Tầu nâng ẩm thực lên một nghệ thuật cầu kỳ. Người Hà Nội hay thết đãi bạn bè tại các tiệm ấy, còn những lúc thường người Hà nội ưa đến những hiệu Nam, phở cháo lòng của Việt Nam. . nơi tụ họp đủ hạng người.
Hà Nội Băm Sáu Phố Phường là một tập bút ký nổi tiếng của Thạch Lam, của Tự Lực văn đoàn đã được dư luận chung các nhà phê bình nhìn nhận có giá trị văn chương rất cao, một tác phẩm độc đáo mới lạ. Ông Phạm Thế Ngũ gọi đó là khuynh hướng duy cảm của Thạch Lam.
Ông tả những món ăn với tất cả thị giác, khứu giác, vị giác thính giác với tất cả tâm hồn của mình nữa
Người ta cảm phục Thạch Lam vì ông tìm ra được những cái hay cái đẹp trong những sự vật tầm thường mà không ai ngờ được, trong cuốn Theo Giòng tác giả nói người nghệ sĩ phải tìm ra được những cái hay cái đẹp luôn tiềm ẩn trong sự vật.
Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới.
Mười mấy năm trước đây, 1991 tại Arlington Texas, nhà văn Duyên Anh cho xuất bản cuốn tùy bút Ngược Dòng Chữ Nghĩa cũng nói về các món ăn ở Sài Gòn, chịu ảnh hưởng của Thạch Lam nhưng không được chú ý mấy, cuốn sách đã bị chìm vào quên lãng , tùy bút về ẩm thực trong văn chương Việt Nam ngoài Thạch Lam ra không có người thứ hai nào thành công được cũng như làm phim võ thuật Hồng Kông chỉ có một Lý Tiểu Long, người đã đưa võ Tầu lên một nghệ thuật điện ảnh cao nhất.
Ðể chấm dứt bài này xin trích dẫn ý kiến của ông Vũ Tuấn Anh về Hà Nội Băm Sáu Phố Phường.
Hà Nội Băm Sáu Phố Phường là một tập bút ký phong phú tư liệu và tràn đầy cảm xúc với một văn phong lịch lãm và tinh tế. Cảnh sắc Hà Nội qua ngòi bút Thạch Lam trở nên đầy mầu sắc mùi vị, cảm giác. Có những đoạn văn đạt đến vẻ đẹp trong sáng mẫu mực. Có thể nói, ở tác phẩm này, tâm hồn và tài văn chương của Thạch lam đã hoà hợp đẹp đẽ với sự thanh tao và tinh tế của văn hoá và tâm hồn Hà Nội.Cuốn Hà Nội Băm Sáu Phố Phường luôn đứng ở vị trí một trong những tác phẩm đặc sắc nhất về Hà Nội.
Trọng Ðạt